Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Sả có trị được ung thư? (Kỳ 3) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (119.99 KB, 5 trang )

Sả có trị được ung thư?
(Kỳ 3)


* Limonen
Tác động chống ung thư của limonen và các monoterpen khác đã được
nghiên cứu rất nhiều tại ĐH Wisconsin với các kết quả ghi nhận là limonen có các
hoạt tính chống ung thư đáng kể khi thử trên các loài gặm nhấm khác nhau về các
loại ung thư bao tử, phổi, da, và gan: liều limonen cho uống chiếm 10% tổng số
lương thực cho ăn (khoảng 7,5 g/kg) mỗi ngày trong 3 tuần lễ tạo sự thoái bộ của
các bướu ung thư trong 85% số Chuột bị gây ung thư vú. Liều tối thiểu phải chiếm
7,5% tổng lượng thực phẩm hàng ngày mới đủ tạo ra hiệu ứng (khoảng 5,6 g/kg).
Hiệu ứng chống ung thư nơi Chuột được ghi nhận khi quan sát các loại khối u nhỏ
và cả những khối u đã phát triển, đồng thời đa số các khối u đều thoái bộ hoàn
toàn. Sự thoái bộ được giữ nguyên nếu tiếp tục cho dùng limonen và limonen
không gây ra những phản ứng độc hại dù dùng lâu dài (Cancer Research Số 15-
1992).
Liều áp dụng cho người, khi tính từ liều 5,6 g/kg mỗi ngày nơi Chuột, được
xem là khoảng 91 g/ngày. Nếu thử tính lượng Sả tươi cần thiết để có được 91 g
limonen sẽ thấy như sau:
Sả tươi C. citratus và C.flexuosus chứa trung bình 0,5% tinh dầu, nghĩa là 1
kg Sả sẽ cho 5 g tinh dầu. Tinh dầu Sả có thể chứa đến 60% monoterpen, như vậy
1 kg Sả có thể chứa khoảng 3 g monoterpen. Muốn có 90 g monoterpen sẽ phải
dùng đến… 30 kg Sả tươi/ngày! (Tinh dầu Cam chứa nhiều limonen hơn là tinh
dầu Sả).
Khi dùng các liều thấp hơn (dưới 1% của tổng lượng thực phẩm), limonen
có khả năng ngăn ngừa sự phát triển ung thư vú gây ra do một số hóa chất độc hại
khi thử trên Chuột. Hoạt tính này được giải thích là do limonen và các monoterpen
giúp giải độc, tạo biến dưỡng các chất độc nơi gan (Proceedings of the American
Association for Cancer Research số 34-1993).
* Monoterpene khác


Do ở liều sử dụng limonen tương đối cao, nên một số các monoterpen khác
đã được nghiên cứu:
Perillyl alcohol: là một hóa chất thông dụng trong kỹ nghệ hương liệu.
Perillyl alcohol, một chất liên hệ với limonen, có tiềm năng tạo sự thoái bộ của
bướu ung thư mạnh hơn limonen từ 5 đến 10 lần khi thử nghiệm trên ung thư vú ở
Chuột (Cancer Chemotherapy and Pharmacology số 34-1994).
Trong cơ thể, cả hai chất limonen và perillyl alcohol đều được biến dưỡng
thành những chuyển hóa terpen có những hoạt tính sinh học. Một trong những
chuyển hóa chất này: perillic acid có lẽ là chất chính chịu trách nhiệm diệt bướu
ung thư. Một giờ sau khi cho Chuột dùng limonen, 80% limonen được chuyển
biến thành perillic acid và dihydroperillic acid. Nơi người, 40% limonen được
chuyển thành perillic acid.
Khi dùng ở liều cao (từ 2 đến 2,5% tổng lượng thực phẩm) perillyl alcohol
tạo được sự thoái bộ của 85% bướu u nhỏ và 75% bướu đã phát triển ung thư vú
nơi Chuột bị tạo ung thư. Đa số các sự thoái bộ được xem là hoàn toàn. Tuy liều
cao 2% không gây phản ứng phụ độc hại nhưng liều 2,5% tạo sự mất cân nơi
Chuột thử nghiệm, và liều 3% gây một số tử vong (liều tương đương nơi người,
khi dùng 2% là 24 gram/ngày). Liều tối thiểu để có hoạt tính trị ung thư được xác
định là 1%, hay 750 mg/kg, tương đương với 12 g/ngày khi áp dụng cho người.
Perillyl alcohol không gây ảnh hưởng trên sự sinh sản tế bào nhưng tạo
hiệu ứng apoptosis rất mạnh (Cancer Research Số 55-1995), và hiệu ứng apoptosis
chỉ xảy ra nơi một số tế bào chuyên biệt. Một nghiên cứu ghi nhận perillyl alcohol
chỉ tạo apoptosis nơi các tế bào tụy tạng bị ung thư và không gây hiệu ứng nơi các
tế bào tụy tạng lành mạnh (Carcinogenesis số 18-1997). Khi cho dùng liều 1,5
g/kg mỗi ngày, perillyl alcohol làm giảm sự tăng trưởng của bướu ung thư tụy tạng
nơi Chuột, Bọ thử nghiệm đến trên 50% (Cancer Letter Số 96-1995). Liều tương
đương nếu áp dụng cho người là khoảng 21 g/ngày.
Geraniol: chất monoterpen geraniol có phần hữu hiệu hơn perillyl alcohol
trong việc điều trị các khối u “đã cố định”. Trong một nghiên cứu, liều tối đa
geraniol để tạo tác dụng diệt u bướu nơi Chuột thử nghiệm, được xác định là 740

mg/kg (trong khi liều perillyl alcohol là 750 mg) (FASEB, Meetings Abstract Số
7-1993). Ngay khi dùng ở liều thấp hơn 360 mg/kg, geraniol hiệu nghiệm trong
việc làm giảm bớt số lượng tế bào ung thư gan ghép chuyển nơi Chuột (liều áp
dụng cho người sẽ khoảng 5,8 g/ngày). Liều geraniol cho uống 250 mg/kg tạo
giảm tăng trưởng nơi các tế bào ung thư máu (leukemia) và melanoma chuyển
ghép nơi Chuột (liều áp dụng cho người sẽ là 2,4 g/ngày) (Cancer Research số 51-
1991).
Tóm lại: qua những thông tin về các nghiên cứu khoa học trên, chúng ta có
thể đi đến kết luận thực tế là: Bài báo phổ biến trên các website về “Uống nước
cây Sả làm cho tế bào ung thư tự tiêu” chỉ là một bài báo quảng cáo cho một số
thành quả về việc phát triển trồng trọt tại những vùng sa mạc ở Do Thái. Về việc
nước cây Sả, bài báo cũng ghi khá rõ là áp dụng cho những bệnh nhân đang bị ung
thư và đang được chữa trị bằng các phương pháp y khoa chính thống như xạ trị,
hóa trị cho uống thêm nước Sả để bổ túc mà thôi.
Tuy nhiên, với liều lượng ghi trên báo: uống ngày 8 lần, mỗi lần nước của 1
g Sả tươi theo chúng tôi thì quá ít (liều dùng Sả trong y học cổ truyền để trị một số
bệnh khoảng 12 g Sả tươi sắc uống mỗi ngày), để có được hoạt tính thật sự trong
việc điều trị nhưng cũng vô hại. Và các bệnh nhân đang bị ung thư cứ việc thử
uống thêm để thay nước trà trong khi đang được điều trị.
DS. Trần Việt Hưng - DS. Phan Bảo An

×