Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

Tính kháng sinh của trái Bình bát ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (129.65 KB, 5 trang )

Tính kháng sinh của trái Bình bát


Cây Bình bát nước (Annona glabra L.)
Theo kinh nghiệm dân gian, trái Bình bát chín ăn nhiều trị được bệnh
khí hư (huyết trắng) ở phụ nữ. Các nhà khoa học Việt Nam đã dùng phương
pháp tự sinh đồ (autobiogramme) để thử tác dụng của trái Bình bát nước
(Annona glabra L.) đối với vi trùng.

Kết quả cho thấy trái Bình bát có tính ức chế các vi khuẩn Staphylococcus
hemolyticus (chuỗi cầu khuẩn tan huyết), Bacillus subtilis, Escherichia coli,
Pseudomonas aerogenes, vi khuẩn sau cùng này chính là vi khuẩn thường có nơi
âm đạo gây bệnh khí hư. Như vậy kinh nghiệm dân gian nói trên được khoa học
xác định được rằng chính acid béo bậc cao là thành phần tác dụng của Bình bát.
DS. PHAN BẢO AN
Tác dụng chữa bệnh của nghệ


Nghệ hay nghệ vàng – Curcuma longa L. (C. domestica Valeton), thuộc
họ gừng - Zingiberaceae. Cây thảo cao khoảng 1 m. Thân rễ to, hình củ tròn,
có các nhánh hình trụ hay hình thoi, thịt màu vàng da cam. Thân mang lá
mọc hàng năm. Lá có cuống dài, hình trái xoan mũi mác, dài 25 - 45 cm, rộng
tới 15 - 18 cm, nhẵn cả hai mặt, màu lục nhạt, cuống lá có bẹ. Hoa hợp thành
những bông hình trụ, cánh hoa và cánh môi đều màu vàng, các lá bắc màu
lục, những cái ở ngọn màu tím. Quả nang chia ba ô.
Ở nước ta, nghệ mọc hoang và được trồng khắp nơi, mỗi gia đình nông
thôn thường trồng ít nhiều để dùng.
Chế biến làm thực phẩm: người ta dùng củ nghệ làm gia vị trong ăn uống,
chủ yếu lấy màu vàng gây cảm giác ngon và béo. Đem phơi và nghiền ra, nghệ là
thành phần của bột cà ri. Nghệ là loại gia vị khử mùi tanh của cá, ốc, lươn.
Sử dụng làm thuốc: nghệ cho những vị thuốc thông dụng trong y học dân


tộc. Thân rễ của nghệ gọi là khương hoàng. Trong củ nghệ có nhựa, curcumin
(0,76 - 1,1%), tinh dầu (trên 1,5%), chất béo, tinh bột. Curcumin và tinh dầu có
tính chất thông mật, lợi mật; ở nồng độ thấp, tinh dầu còn có tính kháng khuẩn.
Nghệ được sử dụng làm thuốc giúp cho tiêu hóa, chữa các bệnh về mật và
gan, phụ nữ sinh đẻ xong bị đau bụng. Nghệ có tác dụng chống loét dạ dày, làm
giảm tiết dịch vị, làm giảm độ acid của dịch vị và có tác dụng chống viêm (ta
thường dùng thuốc viên nghệ, kim truật, melamin). Nghệ dùng ngoài, bôi lên mụn
nhọt, vết thương mới khỏi làm cho chóng lên da non và tránh làm sẹo. Nghệ là
loại thuốc trị loét tốt (dùng dưới dạng nước ép trong một thời gian dài).
Trong y học dân tộc, người ta dùng nghệ rất nhiều. Để phòng bệnh sau khi
sinh đẻ, người ta cho sản phụ ăn một củ nghệ nướng, uống với một ít rượu. Sau
khi đẻ, nếu máu xông lên tim, người ta dùng nghệ đốt tồn tính, tán bột cho uống 8
g mỗi ngày với giấm. Trẻ em lên cơn suyễn, đờm kéo lên tắc nghẹt cổ, khó thở,
dùng một gram nghệ giã nát, hòa với đồng tiện vắt lấy nước cốt uống.
Ở nước ta, còn có một số loài nghệ khác như nghệ vàng (Curcuma
xanthorrhiza Roxb.) dùng như nghệ, nghệ bột (Curcuma pierreana Gagnep.) trồng
lấy bột ở củ. Còn có hai loài nghệ trắng (Curcuma aromatica Salisb.) và nghệ
xanh, nghệ tím (C. zedoaria (Berg.) Roscoe) đều được sử dụng làm thuốc.
TS. VÕ VĂN CHI, nguyên giảng viên Đại học y dược TP.HCM


×