Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Phong trào Đông Du ở Bắc Kỳ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (77.71 KB, 17 trang )

Phong trào Đông Du Bắc Kỳ
1. Hoàn cảnh lịch sử
- Thất bại của phong trào yêu nước trước đó
- Chuyển biến xã hội
- Chuyển biến tư tưởng yêu nước :
- + Ảnh hưởng tư tưởng dân chủ tư sản : Nhật Bản, Trung Quốc…
2. Khái quát phong trào Đông Du ( 1905 – 1909)
Trải qua quá trình vận động từ Bắc vào Nam, Phan Bội Châu đã có sự
chuyển biến mạnh mẽ về tư tưởng cách mạng vào năm 1904. Tháng 4 –
1905, Phan Bội Châu đã cùng các đồng chí thành lập Duy Tân Hội. Mục
đích của hội là
Hoạt động
Lực lượng
Biện pháp đấu tranh của hội
Sang năm 1905, Phan bội Châu, Đặng Tử Kính, Tăng Bạt Hổ đi sang
Nhật cầu viện. Chuyến cầu viện này đã đánh dấu bước chuyển về tư tưởng
cảu Phan Bội Châu từ cầu viện sang cầu học. Sự chuyển biến này xuất phát
từ hai nguyên nhân chính, thứ nhất là do trong chuyến cầu viện lần này,
Phan Bội Châu đã gặp Lương Khải Siêu tại Nhật Bản. Lương Khải Siêu
khuyên Phan Bội Châu không nên để quân đội Nhật vào nước ta mà nên
chuẩn bị cho toàn dân để mọi người cùng sẵn sàng nổi dậy khi có thời cơ tốt.
Chính lưòi khuyên của Lương Khải Siêu đã giúp Phan Bội Châu nhận thấy
giáo dục và thức tỉnh nhân dân trong nước trước những tiến bộ bên ngoài để
tự giải phóng là điều quan trọng nhất, vì vậy phải thực hiện trước tiên. Thứ
hai là do sự thất vọng của Phan Bội Châu khi gặp các chính khách Nhật Bản.
khi Phan Bội Châu đưa ra đề nghị giúp đỡ, họ đã thoái thác, từ chối những
đề nghị cảu Phan Bội Châu. Từ đó, Phan Bội Châu đã chuyển từ tư tưởng
cầu viện sang cầu học. Ông cũng rút ra bài học từ đất nước Nhật Bản về
phong trào Duy Tân, đó là do quá trình du học, chú trọng bồi dưỡng nhân
tài. Trong bài “ Khuyến dân tự trợ du học văn”, Phan Bội Châu đánh giá cao
vai trò du học của Nhật Bản : Do từ lúc đầu họ biết cử người đi du học nước


ngoài để mở mang dân trí, bồi dưỡng nhân tài nên mới có được sự nghiệp
rực rỡ, vĩ đại như thế”. Chính vì thế, phong trào Đông Du cầu học xuất phát
từ đó.
3. Phong trào Đông Du Bắc Kỳ
3.1. Những điều kiện lịch sử của Bắc Kỳ trong việc tham gia phong
trào Đông Du
Bắc Kỳ được coi là cái nôi hình thành nên phong trào Đông Du. Sở dĩ
người dân Bắc Kỳ tham gia từ rất sớm và nhiệt tình trong phong trào nói
riêng, phong trào yêu nước nói chung là do người dân Bắc Kỳ chịu ách áp
bức bóc lột rất nặng nề của thực dân Pháp. Pháp coi Việt Nam là thuộc địa
bậc nhất trong hệ thống thuộc địa của Pháp trên toàn thế giới, trong đó, với
vị trí tiếp giáp Trung Quốc, hiện đang là miếng mồi béo bở của chủ nghĩa
thực dân, và nguồn tài nguyên thiên nhiên vô cùng giàu có, Bắc Kỳ là điểm
đến hấp dẫn nhất và lý tưởng nhất ở Việt Nam với thế giới. Cũng chính vì
vậy, Bắc Kỳ là nơi chịu ách thống trị, bóc lột nặng nề nhất của Pháp trên tất
cả các lĩnh vực : kinh tế, chính trị, xã hội, văn hoá. Điều này quy định tính
chất, mức độ của các phong trào yêu nước đầu thế kỷ XX ở Bắc Kỳ, trong
đó có phong trào Đông Du.
Nguyên nhân thứ hai là do sự thống trị về chính trị của Pháp hết sức ngột
ngạt, căng thẳng ở Bắc Kỳ. Trong hệ thống tổ chức hành chính ở Đông
Dương, Pháp chia Việt Nam thành ba xứ : Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ,
trong đó, Bắc Kỳ là xứ nửa bảo hộ. Cơ quan cao nhất là Phủ Thống sứ do
Thống sứ đứng đầu. Giúp việc cho Thống sứ là Hội đồng bảo hộ. Có hai
phòng thương mại và canh nông được Pháp cử vào Hội đồng bảo hộ. Dưới
thời thuộc Pháp, Bắc Kỳ được chia thành 26 tỉnh, 35 địa lý và hai thành phố.
Dưới ách thống trị của Pháp, người Bắc kỳ luôn sống trong không khí ngột
ngạt, căng thẳng về chính trị, mọi quyền tự do dân chủ đều bị bóp nghẹt,
không khí khủng bố bao trùm khắp mọi nơi. Đây là điều kiện quan trọng để
họ tham gia mạnh mẽ vào phong trào yêu nước nói chung và phong trào
Đông Du nói riêng.

Sự bóc lột nặng nề về kinh tế cũng là một điều kiện dẫn tới người dân
Bắc Kỳ tham gia phong trào. Đây là vùng đất rất giàu có về tài nguyên thiên
nhiên, một tên chính khách Pháp đã nói “ Không có nơi nào trên thế giới có
nhiều nguồn lợi như ở nơi đây, chính quốc tha hồ bòn rút của cải đầy tay để
đưa về nước”.
Về xã hội, vào những năm đầu thế kỉ XX, ở Bắc Kỳ đã có sự chuyển biến
sâu sắc về xã hội : Nông dân và thợ thủ công bị bần cùng hoá nghiêm trọng,
địa chủ có điều kiện phát triển mạnh. Cùng với sự chuyển biến về kinh tế, ở
thành thị, giai cấp tư sản đầu tiên đã xuất hiện. Cùng với đó, tầng lớp tiểu tư
sản cũng ra đời. Những giai cấp, tầng lớp này tích cực tham gia vào cuộc
vận động cứu nước, giải phóng dân tộc. Vì vậy, họ là một động lực chính
trong phong trào yêu nước nói chung, phong trào Đông Du nói riêng.
Sự thất bại của phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến cũng
dẫn lối cho người dân Bắc Kỳ tham gia vào một phong trào cách mạng với
nhưữn khuynh hướng mới. Khi phong trào Cần Vương bùng nổ ( 1885) với
“ Chiếu Cần vương” của vua Hàm Nghi do Tôn Thất Thuyết soạn thảo, nhân
dân Bắc Kỳ đã tích cực hưởng ứng phong trào, nhưng Pháp đã đàn áp dã
man, vì vậy, dù phong trào diễn ra sôi nổi nhưng cuối cùng cũng bị Pháp đàn
áp đẫm máu. Vì vậy, khi phong trào Đông Du bùng nổ, nhân dân Bắc Kỳ đã
tích cực hưởng ứng.
Ngoài ra, Bắc Kỳ cũng là vùng đất nổi tiếng với truyền thống hiếu học và
yêu nước trong suốt chiều dài lịch sử. Chính điều đó là điều kiện giúp phong
trào phát triển rất sớm ở Bắc Kỳ.
3.2. Diễn biến phong trào Đông Du ở Bắc Kỳ
3.2.1. Nguyên nhân người dân Bắc Kỳ tham gia phong trào Đông Du
Phong trào Đông Du chuyển từ cầu viện sang cầu học là một hoạt động
có tính chất đột phá, mở đưởng ra nước ngoài học hỏi, tiếp nhận những cái
mới cho phong trào giải phóng dân tộc ở Việt Nam. Các sĩ phu nhận thấy
phong trào cứu nước bạo động theo Cần Vương phá sản, vi vậy cần phải
theo con đường mới để cứu nước “ khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh”.

Mục tiêu của Đông Du được Phan Bội Châu nêu lên “ Tân Việt Nam sau khi
đã duy tân, uy quyền của nước ta ta cầm, nhân đạo của nước ta ta giữ, nền
văn minh thống nhất, cửa tự do mở rộng…” [5; 255]. Mục tiêu đó đã khẳng
định giành độc lập dân tộc trước, sau đó mới kiến thiết quốc gia hung cường.
Chính vì mục tiêu đó, nhân dân Bắc Kỳ đã tích cực hưởng ứng phong trào
Đông Du. Đây cũng là một cơ hội để thể hiện mình trong sự nghiệp chung
của cả nước.
Nguyên nhân thứ hai : Bắc Kỳ là mảnh đất giàu truyền thống yêu nước,
trong khi đó, phong trào Đông Du xuất dương cầu học thực chất là một
phong trào yêu nước, chính vì vậy, khi Phan Bội Châu phát động phong trào,
nhân dân Bắc Kỳ đã nhiệt tình ủng hộ.
Một nguyên nhân nữa là nhân dân Bắc Kỳ nhận thấy rằng nguyên nhân
của sự khó khăn của nhân dân ta là do hai căn bệnh : ngu muôi và nhu
nhược. Đồng thời Đông Du cũng chính là tiếp nối truyền thống hiếu học,
yêu nước quý báu và cao đẹp của mảnh đất anh dũng này.
3.2.1.1. Về tiêu chuẩn của những người tham gia Đông Du:
Phan Bội Châu đã nêu rõ “ Kén chọn những người tài trẻ tuổi mà thong
minh, hiếu học, nhẫn nại khổ lao, kiên quyết bất biến [ 3;60]. Sau này Hội
Duy Tân cũng chỉ rõ tiêu chuẩn người tham gia là “ chọn trong đám con em
trẻ tuổi, những ai thông minh có trí, lại chịu được lao khổ thì tốt nhất, nếu
không thì chọn anh em tuy không thông minh lắm nhưng chí hướng bền bỉ
cũng rất tốt, càng trẻ tuổi càng hay, rồi tính lấy vài nghìn bạc làm kinh phí
cho xuất dương trong một vài năm” [5; 275].
3.2.2. Phong trào Đông Du ở một số địa phương Bắc Kỳ
Trong khắp các địa phương Bắc Kỳ đều diễn ra phong trào của người dân
tham gia vào phong trào Đông Du, trong đó có một số địa phương tiêu biểu :
Hà Nội, Hà Đông, Nam Định, Thái Bình, Hải Phòng…
3.2.2.1. Phong trào Đông Du ở Hà Nội và Hà Đông
Hà Nội là nơi tập trung hết sức mạnh mẽ, sôi nổi của các phong trào yêu
nước, các trào lưu tư tưởng tiến bộ, đặc biệt trong những năm đầu thế kỉ XX.

Cùng với truyền thống cách mạng trong lịch sử cộng với lòng yêu nước
nồng nàn, long căm thù giặc Pháp cao độ, những năm đầu thế kỷ XX, Hà
Nội trở thành một trong những trung tâm mà hoạt động yêu nước diễn ra sôi
nổi và mạnh mẽ nhất. Hà Đông là cửa ngõ vào Hà Nội, là áo giáp che chắn
cho Hà Nội nên cũng chịu tác động từ những phong trào yêu nước ở Hà Nội,
vì vậy, Hà Đông, Hà Nội trở thành những địa bàn hoạt động quan trọng của
cách mạng Bắc Kỳ.
Theo tiếng gọi của phong trào Đông Du, ngay từ năm 1905, một số thanh
niên yêu nước ở Hà Nội, Hà Đông đã hăng hái xuất dương sang Nhật Bản
cầu học như anh em Lương Ngọc Quyến, Lương Nghị Khanh (con cụ Lương
Văn Can), Cao Trúc Hải, Hoiàng Đình Tuân, Vũ Mẫn Kiến, Phạm Chấn
Yêm, Nguyễn Điển, Nguyễn Hải Thần…trong đó, Lương Ngọc Quyến là
một trong số những người đầu tiên tham gia phong trào Đông Du. Trong
Phan Bội Châu niên biểu” đã chép “đã có 6 thanh niên nữa mới sang là anh
Lương Lập Nham ( tức Lương Ngọc Quyến) và Lương Nghị Khanh ( Hai
con của ông Lương Văn Can ở Hà Nội) và Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Điển
ở Hà Đông với hai người nữa”. Có thể nói rằng, Hà Đông và Hà Nội là một
trong số những trung tâm tuyển chọn “du học sinh” cho phong trào Đông Du
cùng với Nam Định, Sài Gòn, Nghệ An, Vĩnh Long…
3.2.2.2. Phong trào Đông Du ở Nam Định và Thái Bình
Hai tỉnh Thái Bình và Nam Định có nhiều nét tương đồng về lịch sử và
văn hoá. Trong cuộc kháng chiến chống Pháp, quân dân Thái Bình và Nam
Định cùng kề vai sát cánh chiến đấu bảo vệ quê hương. Khi quân Pháp tấn
công thành Nam Định lần thứ nhất ( 1873), Nguyễn Mậu Kiến cùng các con
là Nguyễn Hữu Bản, Nguyễn Hữu Cương, Nguyễn Hữu Phu và cháu là
Nguyễn Công Úc, Nguyễn Năng Thố và cha con Tiến sĩ Doãn Khuê đưa
nghĩa binh Thái Bình vượt sông Hồng sang hỗ trợ quân dân thành Nam
chống Pháp. Năm 1883, quân Pháp tấn công Nam Định lần thứ hai, hai anh
em Nguyễn Hữu Bản, Nguyễn Hữu Phu một lần nữa lại dẫn quân vượt sông
sang chiến đấu cùng quân dân Nam Định. Thành Nam thất thủ, Đề đốc Lê

Văn Điếm tử trận, Tạ Hiện ( quê Thái Bình) được triều đình bổ nhiệm làm
Đề đốc Nam Định để tiếp tục đánh Pháp. Nam Định – Thái Bình cũng là nơi
hưởng ứng mạnh mẽ phong trào Cần Vương yêu nước cuối thế kỉ XIX. Với
tinh thần chống Pháp kiên cường, Nam Định – Thái Bình trở thành một
trung tâm kháng Pháp mạnh ở Bắc Kỳ. Bước sang đầu thế kỉ XX, phong trào
yêu nước chống Pháp ở Việt Nam đã có những chuyển biến mới, đó là sự
chuyển dịch từ phong trào yêu nước chống Pháp ở Việt Nam theo hệ tư
tưởng phong kiến sang hệ tư tưởng tư sản. Với truyền thống yêu nước sẵn
có, nhân dân Nam Định – Thái Bình đã nhanh chóngbắt nhịp với sự chuyển
đổi đó. Mà phong trào Đông Du là một ví dụ điển hình. Hưởng ứng lời kêu
gọi cảu Phan Bội Châu và Duy Tân Hội, nhân dân Nam Định – Thái Bình đã
tham gia phong trào Đông Du từ rất sớm. Thực tế, trước khi có phong trào,
đã có nhiều sĩ phu yêu nước tìm đến mảnh đất này như Phó bảng Nguyễn
Sinh Sắc ( than phụ Hồ Chủ tịch), cụ Đồ Phổ ( Thân phụ Phan Bội Châu),
Phó bảng Ngô Đình Chí ( Thanh Hoá), Phó bảng Vũ Nhuận Phủ ( Hải
Dương), Tú tài Chu Lê Hành ( Hưng Yên)…Họ đến đây để phối hợp với các
than sĩ Nam Định – Thái Bình tìm kế đánh Pháp. Năm 1902, trên đường đi
vận động tham gia phong trào Đông Du, Phan Bội Châu đã tới Nam Định,
tại đây, ông đã gặp Khổng Định Trạch - người từng tham gia phong trào Cần
Vương và ông Nguyễn Hữu Cương ở Thái Bình. Đây là hai nhân sĩ yêu
nước từng tham gia phong trào Cần Vương và có uy tín rất lớn ở địa
phương. Từ đó, gia đình Khổng Định Trạch và Nguyễn Hữu Cương trở
thành chỗ qua lại của Phan Bội Châu trong những lần ra Bắc. Hai năm sau,
khi nhận được thư của Tăng Bạt Hổ nói về sĩ khí của sĩ phu Bắc Kỳ “phần
đông ai nấy đều còn nặng lòng với tổ quốc”, Phan Bội Châu đã gấp rút ra
Bắc. Phan Bội Châu đã trở lại nhà Khổng Định Trạch, viết thư báo cho
Nguyễn Quyền và Tăng Bạt Hổ. Năm 1904, Đốc Trạch cho những nhà đại ái
quốc một căn nhà phía trong để mở hội nghị. Hội nghị ở nhà Đốc Trạch gồm
Tăng Bạt Hổ, Phan Bội Châu, Nguyễn Thượng Hiền và Nguyễn Quyền. Sau
mấy ngày thảo luận, họ đã thoả thuận thành lập phong trào Đông Du, cổ

động thanh niên học máy móc, binh bị để nếu có dịp cướp lại chính quyền
cho xứ sở. Như vậy, cuối năm 1904, tại nhà cụ Đốc Trạch, phong trào Đông
Du chính thức được phát động.
Cuối năm 1905, Tăng Bạt Hổ - một yếu nhân cảu phong trào Đông Du từ
Trung Quốc về tiền trạm dò đường đã về tới Nam Định. Tại đây, Tăng Bạt
Hổ đã gặp nguyễn Thượng Hiền, lúc đó đang làm đốc học tỉnh Nam Định
thống nhất tổ chức và tuyển chọn một số thanh niên yêu nước ở Bắc Kỳ sang
Nhật Bản học tập.
Năm 1906, Nguyễn Thượng Hiền đã về làng Hành Thiện lấy cớ thăm
người thân - do Nguyễn Thượng Hiền có người anh đồng hao là Tiến sĩ
Nguyễn Ngọc Liên, hai ông đều là con rể Tôn Thất Thuyết – nhưng thực
chất là để vận động những thanh niên yêu nước ở đây xuất dương du học.
Sau khi nghe Nguyễn Thượng Hiền, một yếu nhân của Hội Duy Tân, tuyên
truyền về phong trào Đông Du, Tiến sĩ Nguyễn Ngọc Liên đã giới thiệu cho
Nguyễn Thượng Hiền bốn học trò xuất sắc nhất của mình tham gia phong
trào Đông Du. Bốn thanh niên yêu nước đầu tiên của Hành Thiện tham gia
du học sang Nhật Bản là Đặng Hữu Bằng ( tự Đoàn Bằng) 23 tuổi, Đặng Tử
Mẫn (Đặng Huy Dật) 21 tuổi), Đặng Quốc Kiều 14 tuổi và Nguyễn Xuân
Thức 18 tuổi. Họ đã máng ang Nhật Bản hơn 1000 đồng Đông Dương, trị
giá bằng 50 lạng vàng của gia đình để ăn học và ủng hộ anh em Đông Du.
Số tiền khá lớn này được Phan Bội Châu sử dụng đóng học phí và sinh hoạt
phí cho an hem Đông Du, ngoài ra còn dung để chi phí về nước làn thứ hai.
Từ chuyến xuất dương đó đã có them một số thanh niên Nam Định khác
xuất dương như Đặng Vũ Nhã, Đặng Văn Giá…Năm 1907, ông Vũ Văn
Thuỵ ( quê ở làng Thanh Cầu, Nam Định) đã tổ chức một đoàn thanh niên
xuất dương sang Nhật Bản do Đoàn Thám Hài ( Tức Tú Tuyết) đứng đầu.
Thật không may, chuyến xuất dương này bị thực dân Pháp phát hiện nên cả
nhóm bị bắt, chỉ có Đinh Trọng Khiêm trốn thoát sang Xiêm hoạt động. Ông
Bùi Trình Khiêm, một nhà giáo ở làng Vân Tập ( xã Minh Tân, huyện Vụ
Bản) đã dùng văn thơ cổ động thanh niên xuất dương du học.

Cũng như Nam Định, Thái Bình là địa phương sớm hưởng ứng phong
trào Đông Du. Chính người Pháp cũng thừa nhận rằng cuộc chiến tranh Nga
- Nhật năm 1905 đã thúc đẩy nhiều nhà Nho Thái Bình xuất dương theo
Phan Bội Châu đặng tìm cách giải phóng nước An Nam khỏi ách thống trị
của người Pháp. Trong bản án số 600 của Tri phủ Kiến Xương ( Thái Bình)
chi biết Nguyễn Hữu Cương (Ấm cương) có ý đồ nhờ một thương nhân
người Nhật Bản bốc thuốc ở Hải Phòng, Nam Định và Hà Nội đưa em rể là
Ba Chuẩn ( tức Ngô Quang Đoan) xuất dương nhưng không thành. Nguyễn
Hữu Cương cùng hai con là Nguyễn Thị Hồng Đính và Nguyễn Thị phượng
Trìu đã tích cực vận động họ hàng, bạn hữu đóng góp tiền của để ủng hộ anh
em Đông Du. Bản thân ông đã vay cửa hiệu Thuận Xương ( thị xã Tahí
Bình) một khoản tiền để gửi sang Nhật Bản. Nguyễn Hữu Cương bcòn chỉ
đạo một số hiệu buôn để gây quỹ ủng hộ phong trào Đông Du và Đông Kinh
Nghĩa Thục như hiệu buôn của ông Nguyễn Công Diệu (Đống Năm, Đông
Hưng), Bùi Xuân Phát (Đồng Sâm, Kiến Xương), Giáo Quynh và Khoá Cới
( Chợ Sóc, Kiến Xương)… Số tiền quyên góp được Nguyễn Hữu Cương
chuyển qua Ngô Quang Đoan và Lương Ngọc Quyến để đưa sang Nhật Bản
ủng hộ anh em.
Đầu năm 1906, Nguyễn Hữu Cương đã tổ chức cho Ngô Quang Đoan và
Đặng Tử Kính ( Người Nghệ An) đã xuất dương sang Nhật Bản thành công.
Sau đó, một số thanh niên Thái Bình khác lần lượt xuất dương như : Lê Văn
Tập, Hoàng Chuyên, Phan Thường, Nguyễn Phác, Nguyễn Để. Phạm Tư
Tề…Năm 1907, Ngô Quang Đoan được cử về nước để lo công tác vận động
kinh phí và liên lạc với những tướng lĩnh của phong trào Cần Vương còn sót
lại. Về nước trong bối cảnh mà thực dân Pháp thực hiện chính sách “ kinh tế
tuyệt” ( chặn hết đường tiếp viện) trong nước và “ ngoại giao cùng” ( câu kết
chính quyền Nhật Bản) để đàn áp phong trào Đông Du, nhưng Ngô Quang
Đoan vẫn tích cực hoạt động và đã vận động đươc một số nhân sĩ yêu nước
của Thái Bình đóng góp cho phong trào Đông Du, tiêu biểu như ông Bái Đạt
( Tiền Hải), Ngô Long ( Tiền Hải)…

Trong khi phong trào Đông Du phát triển mạnh mẽ thì ở Bắc Kỳ xuất
hiện thêm một phong trào yêu nước mới dưới hình thức vận động văn hoá –
Phong trào Đông Kinh Nghĩa Thục. Nhận thấy đây là một phong trào yêu
nước tiến bộ nên nhân dân Nam Định – Thái Bình đã hưởng ứng phong trào
Nghĩa Thục ngay từ khi mới thành lập. Một số sĩ phu Nam Định – Thái Bình
còn là sáng lập viên của trường Đông Kinh Nghĩa Thục ở Hà Nội như Đặng
Kinh Luân, Đặng Ngọc Đỉnh, Đặng Xuân Mậu, Đặng Xuân Viện, Đặng
Kinh Bang (Ở Nam Định), Đào Nguyên Phổ, Ngô Quang Đoan, Phạm Tư
Trực ( Thái Bình). Ông Lương văn Can đã nhiều lần tới ngôi nhà số 7 phố
Bến Ngự, thành phố Nam Định và nhà ông Nguyễn Hữu Cương để gặp gỡ
các sĩ phu yêu nước ở đây bàn về việc phát triển phong trào Nghĩa Thục trên
đất Nam Định, tại các nhà giáo, sĩ phu như Bùi Trình Khiêm, Lương Văn
Thăng…đã sử dụng văn thơ của Đông Kinh Nghĩa Thục để tuyên truyền,
vận động học sinh và thanh niên. Tại Thái Bình, các trường, lớp Nghĩa Thục
được mở khắp các huyện trong tỉnh, tiêu biểu như Quỳnh Phụ, Kiến Xương
và Hưng Hà.
Năm 1908, ở Hà Nội đã diễn ra vụ hà Thành đầu độc do nghĩa quân Yên
Thế của Hoàng Hoa Thám và một số nhân vật ở trường Đông Kinh Nghĩa
Thục của Hội Duy Tân phối hợp tổ chức. Nhân sự kiện đó, Nguyễn Hữu
cương định tổ chức thổ binh đánh úp tỉnh thái Bình nhưng không thành. Sau
đó một thời gian, ông và một số sĩ phu khác đã lãnh đạo nhân dân Thái Bình
nổi dậy đấu tranh chống thuế nhằm ủng hộ của cuộc đấu tranh chống thuế
của nhân dân Trung Kì ( 1908). Theo Nguyễn Hữu Cương, nông dân Thái
Bình phải bắt chước nông dân Quảng Nam chống thuế, phải kéo nhau lên
Toà Công sứ khiếu tố; nếu Toà Công sứ không trả lời thì cứ lên công đường
nằm lỳ ra đó không về vì không có lý do gì nhà nước giết hết dân được.
Cuộc đấu tranh chống thuế đã diễn ra mạnh mẽ từ làng Động Trung, sau đó
lan rộng ra nhiều làng khác như Xuân Vũ, An Bồi, Trình Phố, Cổ Ninh, Cổ
Am…Để đối phó lại phong trào chống thuế của nhân dân Thái Bình, thực
dân Pháp đã bắt giam nhiều người, trong đó có Nguyễn Hữu Cương, thủ lĩnh

của phong trào.
Từ sự tham gia của nhân dân Nam Định - Thái Bình với phong trào
Đông Du, ta có thể nhận thấy một số đặc điểm của phong trào Đông Du ở
Nam Định – Thái Bình :
Phong trào Đông Du ở Nam Định và Thái Bình có mối quan hệ chặt chẽ
với nhau. Do liền kề nhau nên quân dân Thái Bình đã vượt sông Hồng sang
Nam Định đánh Pháp ngay từ ngày đầu Pháp xâm lược theo tinh thần bảo vệ
Nam Định cũng chính là bảo vệ mình. Bên cạnh yếu tố địa lý, mối quan hệ
giữa các nhà Nho cũng góp phần thắt chặt hơn nữa tình thân của nhân dân
nơi đây. Cũng chính vì truyền thống nơi đây, nhân dân hai tỉnh đã tham gia
phong trào yêu nước nói chung và phong trào Đông Du nói riêng ngay từ rất
sớm và là một trong những trung tâm sôi nổi của phong trào. Nam Định là
nơi phong trào Đông Du được khởi xướng. Các sĩ phu Nam Định – Thái
Bình đã tụ hợp với nhau cùng nhân dân cả nước tham gia chống Pháp và
tham gia hưởng ứng mạnh mẽ phong trào Đông Du. Nho sĩ Nam Định sang
Thái Bình dạy học như Đặng Xuân Bảng đến Lại Trì ( Phủ Kiến Xương,
Thái Bình) dạy học ba năm theo lời mời của các nho sĩ làng này, Nguyễn
Hữu Cương là một trong những học trò của ông. Á nguyên Đặng Ngọc Toản
được bổ nhiệm làm giáo thụ phủ Kiến Xương. Phan Bội Châu tỏ ra rất tinh
tế khi nhận ra mối quan hệ giữa giới nho sĩ Nam Định – Thái Bình nên cùng
một lúc ông đến vận động các sĩ phu cả ở Nam Định – Thái Bình để tranh
thủ sự ủng hộ của họ. Dựa trên mối quan hệ truyền thống, sĩ phu Nam Định
và Thái Bình đã có sự phối hợp với nhau phát triển phong trào Đông Du. Hai
ông Nguyễn Công Chức ( Thái Bình) và Đặng Xuân Mậu ( Nam Định) đã
mời giáo sư Shiwara ( Thạch Xuyên Thị Sĩ Nguyên) về Động Trung thuyết
giảng tại nhà ông Nguyễn Hữu Cương, ông Shiwara đã trao đổi những thông
tin về nước Nhật Bản, dạy tiếng Nhật và xây dựng mạng lưới thanh niên
Việt Nam sang Nhật Bản cầu học.
Phong trào Đông Du ở Nam Định – Thái Bình đã lấy làng làm cơ sở phát
triển. Ban đầu hoạt động Đông Du ở Nam Định – Thái Bình chưa phát triển

trên quy mô toàn tỉnh mà tập trung diễn ra chủ yếu ở một số làng như làng
Hành Thiện ( Nam Định), làng Trình Phố, làng Động Trung ( Thái Bình). Rõ
ràng ở đây một lần nữa ta thấy rõ vai trò của làng đối với sự nghiệp bảo vệ
Tổ quốc. Từ những làng hạt nhân kể trên, những hoạt động Đông Du được
mở rộng sang nhiều làng khác nên nó có tính liên làng, đặc biệt là sự liên kết
giữa các làng Nho ở Nam Định – Thái Bình với nhau – Trình Phố, Động
Trung, Hành Thiện, trên thực tế đều là những làng khoa bảng và có rất đông
nho sĩ. Chính yếu tố làng và liên làng này đã tạo ra sự vững mạnh của phong
trào Đông Du Nam Định – Thái Bình.
Phong trào Đông Du ở Nam Định – Thái Bình nằm trong phạm trù ý thức
tỉnh, ý thức dân tộc mặc dù phong trào chống Pháp của Nam Định – Thái
Bình trước phong trào Đông Du đã có sự bắt mối và liên kết với các hoạt
động chống Pháp của các tỉnh khác như Hải Phòng, Hà Nam, Ninh Bình,
Thanh Hoá, Nghệ Tĩnh Phương pháp liên vùng nhưng trên thực tế nó vẫn
chỉ mang tính chất địa phương, liên vùng mà chưa đạt đến bình diện quốc
gia. Khi tham gia phong trào Đông Du, một phong trào có tính chất quốc
gia, phong trào chống Pháp ở Nam Định và Thái Bình đã vượt qua ngưỡng
chủ nghĩa địa phương để hoà mình vào chủ nghĩa quốc gia. Sự thức tỉnh ý
thức dân tộc còn được biểu hiện rõ nét qua việc các sĩ phu Nam Định và
Thái Bìnhđã gắn kết hoạt động Đông Du với hoạt động Nghĩa Thục và phối
hợp với nghĩa quân Yên Thế tổ chức vụ đầu độc binh lính Hà Thành. Hoạt
động yêu nước ở đây dựa trên tinh thần vừa bạo động đánh Pháp vừa khai
mở những ý tưởng canh tân đất nước.
Tham gia phong trào Đông Du ở Nam Định và Thái Bình đều do tầng lớp
sĩ phu yêu nước lãnh đạo và những thanh niên sang Nhật du học đều là con
em của họ.Phần lớn những yếu nhân của phong trào đều trực tíêp hoặc gián
tiếp tham gia các hoạt động chống Pháp nửa cuối thế kỉ XIX. Nguyễn Hữu
Cương từng lăn lộn trên chiến trường Nam Định và một số tỉnh khác ở Bắc
Kỳ. Năm 18 tuổi, Ngô Quang Đoan lên khu vực Yên Lập ( Phú Thọ) chịu
tang cha ( Ngô Quang Bích mất năm 1891), sau đó phối hợp với các chiến

hữu của cha mình như Đê Kiều, Lãnh Vân, Lãnh Mai, Đốc Ngữ…tiếp tục sự
nghiệp đánh Pháp. mặc dù quyết tâm đánh Pháp, từng lăn xả trên các chiến
trường, nhưng rốt cuộc họ đều thất bại. Từ kinh nghiệm thất bại của bản thân
và dân tộc, họ nhanh chóng tiếp nhận và thực hiện ý tưởng cứu nước mới
của Hội Duy Tân và Phan Bội Châu. Mặc dù thức thời và vẫn giữ vai trò là
lá cờ đầu trong phong trào Đông Du nhưng họ chưa thể biến nhữung ý tưởng
cứu nước mới thành một thắng lợi hoàn toàn. Họ chỉ là một thế hệ giữ vai
trò chuyển tiếp giữa hệ tư tưởng phong kiến sang hệ tư tưởng tư sản.
Phong trào Đông Du phát triển mạnh ở Nam ĐỊnh – Thái Bình là nhờ
vào vai trò hạt nhân của những dòng họ yêu nước. Họ Đặng ở Hành Thiện,
họ Ngô ở Trình Phố và họ Nguyễn ở Động Trung là những dòng họ khoa
bảng và yêu nước nổi tiếng trên phạm vi cả nước. Từ những người đỗ đạt
đàu tiên cho đến kì thi Hương cuối cùng ở trường thi Nam Định, làng Hành
Thiện có tới 352 người đỗ Tú tài tới Tiến sĩ, trong đó nổi bật là dòng họ
Đặng và Đặng Vũ với 143 người đỗ Tú tài tới Tiến sĩ ( 2 người là Tiến sĩ, 2
Phó bảng, 2 Giải nguyên, 2 Á Nguyên, 35 cử nhân, 99 Tú tài). người họ
Đặng đã từng giữ nhiều chức vụ quan trọng trong bộ máy chính quyrnf
phong kiến ( Thượng thư, Tổng đốc, Tuần phủ, Đốc học, Huấn đạo, tri phủ,
Giáo thụ, Thông phán…). Làng Trình Phố có Ngô Quang Bích và con là
Ngô Quang Đoan đều đỗ Tiến sĩ. Người họ Nguyễn ở Động Trung có tài và
hiếu học. Nhà họ Nguyễn có một thư viện sách rất đồ sộ để dành cho con
cháu và bạn hữu đến đọc và học. Chính có học vấn cao lại có truyền thống
yêu nước nên họ Đặng, Ngô và Nguyễn đều rất nhiệt tình tham gia phong
trào Đông Du. Riêng họ Đặng ở Hành Thiện đã có tới vài người xuất dương
sang Nhật Bản như Đặng Tử Mẫn, Đặng Vũ Nhã, Đặng Văn Giá… Khi sang
Nhật Bản họ đều gắng công học tập để phục quốc sau này. ĐẶng Tử Mẫn
được đánh giá là một người có tâm huyết trong số du học sinh Nhật Bản và
được giao trọng trách làm Uỷ viên Kinh tế Bộ trong Hội Công Hiến. Khi
phong trào giải tán, ông tìm kế lưu lại Nhật Bản làm khổ học sinh, sau đó
sang Xiêm với Phan Bội Châu chấp nhận cảnh ăn xin ở xứ người mà nuôi

chí phục quốc. Đặng Hữu Bằng đã tốt nghiệp Thủ khoa trường Chấn Võ và
được Thiên Hoàng Minh Trị trao tặng một chiếc đồng hồ có khắc tên và chữ
ký của nhà vua.
Các mối quan hệ bạn bè, thông gia, liên gia giữa các dòng họ yêu nước ở
Nam Định với Thái Bình cũng giữ một vai trò đáng kể trong phong trào
Đông Du. Tiến sĩ Doàn Khuê và Hoàng giáp Phạm Văn Nghị ( Nam Định )
có mối qun hệ thân giao với Nguyễn Mậu Kiến. Hai ông đã cử Nguyễn Mậu
Kiến làm quan trong triều Nguyễn và lên tới chức Án sát Lạng Sơn. Khi
Phạm Văn Nghị tổ chức lực lượng đánh Pháp ở Nam ĐỊnh, cha con Doãn
Khuê và Nguyễn Mậu Kiến đã sang trợ chiến cùng với nghĩa quân Phạm
Văn Nghị. Họ Nguyễn có quan hệ thông gia với họ Ngô ở Trình Phố.
Nguyễn Hữu Cương đã kết duyên với cô Ngô Thị Tảo ( là con gái của
Thượng Biện Ngô Đức Trạch, bạn thân của Nguyễn Mậu Kiến), mà ông
Trạch là anh ruột của Ngô Quang Bích. Nhờ mối quan hệ bạn bè, thông gia,
liên gia này mà phong trào Đông Du có thế đứng vững chắc ở Nam Định và
Thái Bình.
Làng và dòng họ ở Nam Định – Thái Bình cũng giữ một vị trí quan trọng
cho sự chuyển tiếp giữa phong trào yêu nước theo hệ tư tưởng phong kiến
sang hệ tư tưởng tư sản và vô sản. Sau khi phong trào Đông Du thất bại,
nhiều thanh niên Nam Định – Thái Bình đã tới Trung Hoa cùng Phan Bội
Châu thành lập Việt Nam Quang phục Hộ. Một số người về nước vận động
thanh niên xuất dương tham gia Việt Nam Quang phục Hội. Đông đảo thanh
niên Hành Thiện tham gia như Đặng Thế Mẫn, Đặng Quốc Kiều, Đặng Hữu
Quỳ, Đặng Vũ Giá, Nguyễn Xuân Thức, Nguyễn Xuân Khải, Đặng Kinh
Luân, Đặng Vũ Hoàn, Đặng Vũ Long, Đặng Mũ Mậu, Đặng Xuân Mậu,
Đặng Huy Quỳ, Đặng Văn Ngã, Đặng Ngọc Tỉnh…Trong số 12 người Thái
Bình xuất dương sang Trung Quốc tham gia Việt Nam Quang phục Hội, có
tới 8 người làng Động Trung như Nguyễn Nhị Kỳ, Nguyễn Công Năng,
Nguyễn Hồng Đính, Nguyễn Công Diệu, Nguyễn Công Chuẩn, Nguyễn
Công Viễn, Hoàng Chuyên, Phạm Tư Tề, ngoài ra còn có 4 người ở các địa

bàn khác trong tỉnh. Khi Việt Nam Quang Phục Hội tan rã, những thanh niên
Hành Thiện, Động Trung, Trình Phố đã nhanh chóng tham gia Hội Việt
Nam cách mạng thanh niên do Nguyễn Ái Quốc sáng lập năm 1925 tại
Quảng Châu ( Trung Quốc). Nguyễn Công Viễn, thế hệ thứ ba của Nguyễn
Mậu Kiến là 1 trong 7 thành viên sáng lập Tâm Tâm xã. Nguyễn Công Viễn
đã bắc nhịp cầu cho các thế hệ tiếp nối của dòng họ Nguyễn đến với Hội
Việt Nam Cách mạng thanh niên và Đảng Cộng sản Việt Nam như Nguyễn
Công Thu, Nguyễn Danh Thọ, Nguyễn Danh Đới, Nguyễn Danh Tề,
Nguyễn Công Việt…Làng Trình Phố là một trong những nơi có chi bộ
Thanh niên và sau đó là Chi bộ Cộng sản đầu tiên ở Thái Bình.
Nhìn chung, phong trào Đông Du ở Nam Định _ Thái Bình đã diễn ra sôi
nổi, mạnh mẽ trong thời kì 1905 đến 1908, qua đó đã đưa Nam Định – Thái
Bình trở thành một trong những trung tâm có hoạt động Đông Du mạnh ở
Bắc Kỳ nói riêng và cả nước nói chung.
3.2.2.3. Phong trào Đông Du ở Hải Phòng
3.2.2.4. Phong trào Đông Du ở Lạng Sơn
Lạng Sơn là một tỉnh biên giới phía Bắc giáp Trung Quốc, một vùng núi
hiểm trở với nhiều trận địa mai phục đánh giặc phía Bắc. Nếu Hải Phòng là
trung tâm của những chuyến xuất dương qua đường biển thì Lạng Sơn dược
coi là trung tâm của những chuyến đường bộ qua Trung Quốc. Hoà mình
trong không khí sôi nổi của phong trào cách mạng đầu thế kỉ XX và phong
trào Đông Dương nói riêng, Lạng Sơn trở thành một địa điểm gặp gỡ, trao
đổi và qua lại của những nhà yêu nước trong phong trào Đông Du. Phong
trào Đông Du ở Lạng Sơn gắn liền với vai trò của Nguyễn Quyền.
3.3. Đặc điểm và tác động của phong trào Đông Du với phong trào
cách mạng Bắc Kỳ đầu thế kỉ XX
Hoà vào không khí đấu tranh cách mạng của cả nước, phong trào
Đông Du ở Bắc Kỳ cũng mang dấu ấn và hơi thở cũng như đặc điểm của
cách mạng cả nước, nhưng bên cạnh đó, phong trào ở đây còn mang
những nét khác biệt độc đáo.

3.3.1. Đặc điểm của phong trào Đông Du ở Bắc Kỳ
3.3.2. Tác động của phong trào Đông Du với phong trào cách mạng Bắc
Kỳ đầu thế kỉ XX

×