Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Một số bệnh thường gặp ở cá bống tượng và biện pháp phòng trị pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (109.35 KB, 6 trang )


Một số bệnh thường gặp ở cá bống tượng và
biện pháp phòng trị






Hiện nay, phong trào nuôi cá bống tượng đang được bà con nhân rộng
do hiệu quả kinh tế mà loài đặc sản nước ngọt này mang lại. Nhằm giúp
người nuôi có những kiến thức cơ bản để chủ động trong công tác phòng
ngừa dịch bệnh xảy ra, góp phần mang lại hiệu quả kinh tế ổn định bền
vững, tôi xin giới thiệu các dấu hiệu nhận biết và cách phòng trị các bệnh
thường gặp trên cá bống tượng.
1. Bệnh ngoại ký sinh:
- Nguyên nhân và triệu chứng: bệnh do các sinh vật rất nhỏ bám vào
mang, da của cá để hút máu hoặc chất dinh dưỡng gây nên những vết
thương, xuất huyết. Khi bị bệnh màu sắc cá trở nên nhợt nhạt, cá thích tập
trung ở nơi có đường nước chảy vào. Bệnh xuất hiện khi mật độ nuôi dầy,
điều kiện vệ sinh kém, mưa kéo dài, thời tiết lạnh.
- Phòng trị bệnh:
+ Thả nuôi mật độ vừa phải, tránh để ao bị ô nhiễm.
+ Treo túi thuốc: chỉ dùng trong nuôi cá lồng, cho thuốc vào bao treo
ở thành lồng. Ưu điểm của phương pháp này là tiết kiệm thuốc, cách sử
dụng đơn giản, cá ít bị ảnh hưởng xấu của thuốc. Tuy nhiên, nhược điểm là
khả năng tiêu diệt sinh vật gây bệnh hạn chế, chỉ diệt được tác nhân ở xung
quanh khu vực treo túi thuốc. Để tránh những ảnh hưởng xấu tới cá, cần tính
toán lượng thuốc có thể tồn tại được 2-5 giờ, tùy vào từng loại thuốc và treo
liên tục trong vòng 3 ngày.
- Trị: dùng formol tạt xuống ao với nồng độ 20-25ml/m


3
hoặc dùng lá
xoan bó thành từng bó để dưới đáy hoặc đầu bè, liều lượng 0,6 kg lá/kg cá.
Cá sẽ chúi vào bó lá, nước lá xoan đắng sẽ làm trùng mỏ neo rời ra khỏi thân
cá.
2. Bệnh đốm đỏ:
- Nguyên nhân và triệu chứng: do vi trùng Pseudomonas punotata (sơ-
đô-mô-nát bun-nô-ta-ta) hay Aeromonas hydrophila (Ê-rô-mô-nát hy-rô-phi-
la). Thân và vùng bụng bị xuất huyết, vảy dựng lên, các gốc vây xuất huyết
và ứ nước vàng. Bụng cá trương to, chứa dịch và đỏ bầm. Ở một số cá bệnh
mắt, hậu môn lồi ra, một số vây cá bị rách xơ xác dần dần bị rụng, bên trong
thịt ứ máu và mủ. Cá lội lờ đờ, chậm chạp, ít ăn hoặc bỏ ăn. Nguyên nhân do
môi trường thay đổi, cá bị xây xát khi vận chuyển, đánh bắt, vi khuẩn xâm
nhập vào gây ra bệnh
- Cách phòng: không nuôi mật độ quá dày, cho ăn đầy đủ về số lượng
và chất lượng, môi trường ao nuôi luôn giữ ổn định và sạch sẽ. Định kỳ 15
ngày tạt vôi bột CaCO
3
với lượng 1-2kg/100m
3
(vôi hoà tan trong nước tạt
đều khắp ao).
- Trị bệnh: Sử dụng kháng sinh Neomycine (Nê-ô-mi-xin) 4g/100kg
cá bệnh và Vitamine C 3g/100kg cá bệnh, thuốc được trộn vào thức ăn, cho
ăn liên tục từ 5-7 ngày. Đối với nuôi lồng, có thể tắm cá bằng nước muối
nồng độ 4% trong 10 phút có sục khí.
3. Bệnh nấm thuỷ mi:
- Triệu chứng: khi nấm mới ký sinh, mắt thường khó nhìn thấy, phần
cuối của sợi nấm đâm sâu vào thịt cá, phần đầu sợi nấm lơ lửng trong nước.
Khi bệnh phát triển nhiều trên thân cá xuất hiện những đám bông màu trắng.

Cá có cảm giác ngứa ngáy, thân cá gầy, đen sẫm. Nấm ngày càng phát triển,
tạo điều kiện thuận lợi cho vi khuẩn xâm nhập làm bệnh nặng thêm.
- Phòng bệnh: tạo điều kiện sống thuận lợi cho cá, nhất là vào những
lúc trời lạnh, giữ môi trường trong sạch, không để cá bị suy dinh dưỡng
(thiếu ăn), không nuôi mật độ quá dầy hoặc làm cá bị xây xát.
- Trị bệnh: dùng thuốc tím (KMnO
4
) tạt xuống ao liều 3-5g/m
3
nước,
hoặc dùng dung dịch muối ăn 3% tắm cá trong 15 phút.
4. Bệnh lở loét (Hội chứng lở loét):
- Nguyên nhân: do nhiều nguyên nhân kết hợp như siêu vi (virus), vi
khuẩn, nấm thuỷ mi, nấm nội Aphanomyces, giáp xác ký sinh, môi trường
nước quá dơ bẩn, nhiệt độ thay đổi …
- Triệu chứng: Cá ít ăn hoặc bỏ ăn, hoạt động lờ đờ, bơi nhô đầu lên
mặt nước, da cá nhợt nhạt và xuất hiện các vết loét dần dần lan rộng có thể
ăn sâu đến xương. Cơ quan nội tạng hầu như không bị thương tổn.
- Phòng và trị bệnh:
+ Phòng bệnh: Luôn giữ môi trường sạch, định kỳ dùng vôi bột, các
hoá chất xử lý đáy ao. Khi trong khu vực xảy ra dịch bệnh cần hạn chế thay
nước hoặc nước phải được khử trùng trước khi đưa vào ao nuôi.
+ Trị bệnh: Dùng thuốc tím 3g/m
3
kết hợp với muối ăn 0,3kg/m
3
tạt
xuống ao. Đồng thời trộn kháng sinh cho ăn liên tục từ 5-7 ngày với liều
Oxytetracyline (Ô- xy-tê-tra-xi-lin) 2g/kg thức ăn, bổ sung vitamin C 3g/kg
thức ăn.

5. Bệnh mất nhớt:
- Nguyên nhân và triệu chứng bệnh: dễ xuất hiện khi cá bị xây xát, bị
sốc do đánh bắt vận chuyển hoặc do môi trường thay đổi đột ngột. Khi bị
bệnh khắp da cá có một lớp nhớt dày bao phủ. Cá tách đàn, bơi lội yếu ớt.
Cá kém ăn hoặc bỏ ăn. Trên thân từng vùng bị trắng. Bệnh nặng xuất hiện
các vết loét ăn sâu vào cơ là cơ hội để nấm và ngoại ký sinh phát triển. Bệnh
nặng cá chết chìm xuống đáy ao.
- Phòng bệnh: tránh các yếu tố gây sốc cho cá, định kỳ hoặc trước
những cơn mưa to tạt vôi bột CaCO
3
với liều 1 - 2kg/100m
3
vào ao nuôi.
- Trị bệnh: dùng formol 25ml cho 1m3 nước, ngâm cá để diệt nấm và
ngoại ký sinh, sau 24 giờ thay 1/2 nước rồi dùng lặp lại thuốc với liều trên
một lần nữa.

×