Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

LỊCH SỬ ĐỊA CHẤT VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (64.38 KB, 4 trang )

Thời gian Niên đại địa chất Sự kiện
2.070.000.000 TCN
cuối kỷ Tằng Xâm Thành tạo núi Nghĩa Lĩnh
570.000.000-500.000.000 TCN
đầu kỷ Cambri Khu vực mà ngày nay tạo thành vịnh Hạ Long, về cơ bản là đất liền, hứng
chịu quá trình xói mòn bởi mưa cuối kỷ Cambri Khu vực này bị ngập lụt, khởi đầu cho sự
tồn tại của vịnh Hạ Long
500.000.000-400.000.000 TCN
kỷ Ordovic và Silur Khu vực Đông Bắc Việt Nam về cơ bản là biển sâu, hứng chịu hoạt
động kiến tạo địa tầng không ngừng cuối kỷ Silur Đông Bắc Việt Nam trải qua pha
chuyển động ngược lại để tạo ra các dãy núi nằm sâu dưới nước
420.000.000-340.000.000 TCN
cuối kỷ Silur và trong suốt kỷ Đề-vôn Khu vực này phải chịu sự xói mòn mạnh do khí
hậu khô và nóng. Vào thời điểm này, Hạ Long là một phần của vùng đất liền rộng tạo
thành phần lớn biển Đông và thềm lục địa Trung Hoa ngày nay
400.000.000 TCN
Địa tầng lục địa, được hình thành từ thạch quyển cứng và giòn (hay lớp vỏ), dần dần
chuyển động ngang qua hành tinh, được tạo sức nổi do các chuyển động từ phía dưới,
trong lớp phủ của Trái Đất. Đôi khi các mảng kiến tạo tách ra thành nhiều mảnh; sự kết
hợp của các mảnh lục địa đã tan vỡ từ siêu lục địa thời tiền sử gọi là Gondwana
400.000.000-200.000.000 TCN
Một vài mảnh của lục địa đã vỡ di chuyển lên phía bắc để va chạm và hợp nhất với châu
Á tại các vĩ độ cao, trong quá trình tạo ra phần lớn khu vực ngày nay gọi là Việt Nam
cuối kỷ Đề-vôn Do hoạt động kiến tạo, khu vực Hạ Long và toàn bộ khu vực đông bắc đã
được nâng lên từ dưới sâu
340.000.000-255.000.000 TCN
cuối đại Cổ Sinh và đầu đại Trung Sinh Dãy Trường Sơn đã nâng lên trong các va chạm
diễn ra vào giai đoạn này
340.000.000-240.000.000 TCN
kỷ Than Đá và Permi Vịnh Hạ Long: sự hình thành của lớp đá vôi dày trên 1.000 m. Một
biển nông và ấm đã được tái hình thành, nó tồn tại trong khoảng 100 triệu năm. Nó tạo


thành 2 loại đá vôi: lớp đá vôi Cát Bà vào đầu kỷ Than Đá (dày 450 m); và lớp đá vôi
Quang Hanh vào giữa kỷ Than Đá và đầu kỷ Permi (dày 750 m). Hai lớp đá vôi này tạo
thành phần lớn các đảo của vịnh
trước 100.000.000 TCN
thời kỳ tân Tiến Tạo, kỷ Phấn Trắng - đại Trung Sinh Thành tạo núi Phan Xi Păng
67.000.000 TCN
cuối kỷ Phấn Trắng và kỷ đầu của đại Đương Thời (đại Tân Sinh) Vịnh Hạ Long tồn tại
trong môi trường đại lục núi cao do ảnh hưởng của các pha kiến tạo sơn mạnh giữa thế
Cổ Tân Vịnh Hạ Long: các chuyển động này vẫn liên tục và ổn định, trong khi quá trình
xói mòn mạnh đã bắt đầu, và sau vài triệu năm, dạng địa hình bán cao nguyên đã được
tạo ra. Sự liên tục của quá trình xói mòn này đã chia cắt dần dần từng nấc vùng cao
nguyên thành các khối với độ cao tương tự như các ngọn núi ngày nay
55.000.000-40.000.000 TCN
Muộn hơn, trong khi dãy Hy Mã Lạp Sơn đang dâng lên, khí hậu Trái Đất bắt đầu dao
động giữa các pha mát và ấm. Các sông băng lục địa được tạo ra và rút lui và, tương ứng
với nó là nước biển rút xuống và dâng lên. Khi nước biển rút xuống, thềm lục địa nông
Sunda bị lộ thiên (ngày nay nó nằm dưới các biển ở Nam Việt Nam)
50.000.000 TCN
Kiến tạo các sông Hồng, Lô, Đà với những đồi núi, đồng bằng, đầm hồ, xuất lộ bộ mặt
địa hình Vĩnh Phú, trong đó có dãy đồi 99 con coi chầu về đất Tổ
26.000.000-10.000.000 TCN
kỷ Tân Cận Sự phát triển của vùng lún Hạ Long
3.000.000 TCN
Rừng thường xanh ẩm ướt có thể đã tồn tại dai dẳng trên sườn đông của dãy Trường Sơn
mặc dù các dao động khí hậu là đột ngột một cách gia tăng. Các rừng mưa nhiệt đới này
có thể cung cấp nơi cư trú cho các loài phụ thuộc vào rừng trong các thời kỳ lạnh hơn,
khô hơn, mang tính chất mùa rõ nét hơn. Với kích thước lớn như vậy, mà môi trường sinh
sống dọc theo nó có thể mở rộng hay co lại theo thời gian, có thể giúp giải thích tại sao,
thậm chí trong vườn địa đàng của sự đa dạng sinh học như vậy của Việt Nam, mà dãy
Trường Sơn vẫn lộng lẫy hơn phần còn lại của đất nước này

2.000.000-11.000 TCN
thế Canh Tân của phân đại Đệ Tứ Quá trình xói mòn bắt đầu làm tan rã khu vực giàu đá
vôi Hạ Long, sau đó tạo thành vùng đồng bằng đá vôi là hoạt động mạnh nhất
bắt đầu 1.800.000 TCN
thế Canh Tân Mực nước biển thấp đã cho phép quần thực vật và động vật di cư từ đại lục
sang đảo Hải Nam và ngược lại. Ví dụ, khi xem xét tới một vài kiểu mẫu phân bố của
động vật lưỡng cư và bò sát. Đông Bắc Việt Nam chia sẻ trên 20 các loài này với đảo Hải
Nam và khu tự trị Quảng Tây của Trung Quốc
khoảng 800.000 TCN
Một viên thiên thạch rơi xuống khu vực mà ngày nay là Việt Nam, làm thay đổi hệ thống
sinh thái của Đông Nam Á một cách trầm trọng. Tuy nhiên, trong một khoảng thời gian
tương đối ngắn sau đó, trong khu vực có thể tìm thấy được các động vật thuộc Họ Người.
Các động vật này đã tìm được một đống đá mới nhồi lên, rất tốt trong việc chế tạo đồ đá
600.000 TCN
Người vượn đứng thẳng xuất hiện
200.000 TCN
Người vượn thông minh xuất hiện
68.000-9.000 TCN
giữa và cuối thế Canh Tân Vịnh Hạ Long: đánh dấu thời kỳ khi các hang động nổi tiếng
của khu vực được tạo ra giai đoạn văn hóa Sơn Vi Cách dãy biển tiến sau băng hà Vuyếc-
mơ, tràn vào ngập toàn bộ đồng đằng và vùng thấp ven đồi núi. Người nguyên thủy Sơn
Vi tạm lánh lên vùng núi Hòa Bình - Bắc Sơn
15.000 TCN
Các dải đồi hai bên bờ sông Thao có mấy chục thị tộc người nguyên thủy cư trú. Họ là
chủ nhân nền văn hóa hậu kỳ đồ đá cũ Sơn Vi đầu thế Toàn Tân Các đảo của vịnh Hạ
Long ngày nay về cơ bản là tàn dư của các dãy núi này bị ngập lụt. Nước mưa chảy vào
các kẽ hở trong đá vôi đã được hình thành từ hoạt động kiến tạo. Quá trình xói mòn đều
đều này liên tục mở rộng các đường rạn vỡ này, cuối cùng tạo ra các thành tạo đá của
ngày nay
9.000-5.000 TCN

thế Toàn Tân Vịnh Hạ Long: đáng chú ý vì sự dâng lên của biển
trước 5000 TCN
Nước biển rút khỏi đồng bằng. Sau đó trải hàng ngàn năm mưa lũ thau chua rửa mặn và
phù sa màu mỡ các con sông bồi đắp làm hồi sinh thảm thực vật. Quần thể động vật như
chim thú, cá tôm nhuyễn thể trở nên sầm uất, tạo nên môi trường sống hết sức thuận lợi
cho con người
5.000-2.000 TCN
Chuyển động dâng lên của biển đạt tới đỉnh điểm và tạo thành vịnh Hạ Long ngày nay
2.000-1.000 TCN
Với biển trong quá trình rút xuống đều đều, nền văn hóa Hạ Long đã bắt đầu phát triển
đầu của cuối thế Toàn Tân Vịnh Hạ Long: mực nước biển lại dâng lên một lần nữa, tạo
thành lớp nền lầy lội của các con kênh và suối, và tạo ra các dấu nước có thể nhìn thấy
trên các vách đá vôi ngày nay

×