Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Case study: Canh bạc lớn của George Soros ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (305.67 KB, 22 trang )

Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
LỜI MỞ ĐẦU
George Soros là nhà tỷ phú nổi tiềng khắp thế giới, ông sinh năm 1930, tại TP
Budapest,Hungary. Là nhà tài phiệt từng được mệnh danh là “Mozart của thị
trường chứng khoán”, “Robin Hood tài chính”. Xếp thứ 38 trong danh sách
những người giàu nhất thế giới (năm 2003), với giá trị tài sản 7 tỷ USD. Nổi
tiếng với những thương vụ kiếm bạc tỷ qua các vụ đầu cơ nghẹt thở. Nhà tỷ
phú thành công nhất trong lĩnh vực đầu tư tư bản. Một nhà đầu cơ tiền mặt “vĩ
đại” nhất của thế kỷ 20.
Thực hiện: Lê Thành Tuân
1
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
Mục Lục
Lời mở đầu
PHẦN 1: GEORGE SOROS TRƯỚC CUỘC KHỦNG HOẢNG
TÀI CHÍNH NƯỚC ANH 1992
1. Tiểu sử George Soros
2. George Soros trước 1992
PHẦN 2: GEORGE SOROS VỚI CUỘC KHỦNG TÀI CHÍNH
NƯỚC ANH 1992 :George Soros kiếm được hàng tỷ chỉ trong
một đêm là do may mắn hay do ông ta có một sự hiểu biết uyên
thâm về hệ thống Tài Chính Quốc Tế
1. Tình hình kinh tế nước Anh 1992
a. Kinh tế nước Anh đang trong giai đoạn suy thoái
b. Sự ra đời hệ thống tỷ giá Châu Âu (ERM)
2. Nguyên nhân khủng hoảng tài chính nước Anh: ngày thứ tư đen tối
(Black Wednesday)
3. Hành động của George Soros: Nhà đầu tư có một sự hiểu biết uyên
thâm về hệ thống tài chính quốc tế
a. Quá trình đầu cơ của George Soros
b. Các biện pháp chống đỡ của NHTW Anh


c. Khủng hoảng xảy ra
4. Nguyên tắc đầu tư của George Soros
a. Linh cảm của Soros
b. Nguyên tắc đầu tư
PHẦN 3: GEORGE SOROS LÀ MỘT ANH HÙNG HAY LÀ
MỘT TỘI ĐỒ CỦA THẾ GIỚI
Thực hiện: Lê Thành Tuân
2
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
1. George Soros là một anh hùng của thế giới
a. George Soros xứng đáng được coi là một anh hùng
b. George soros nhà hoạt động từ thiện quốc tế tích cực nhất của thế
kỷ 20
2. George Soros tội đồ thế giới
Thực hiện: Lê Thành Tuân
3
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
PHẦN 1
GEORGE SOROS TRƯỚC CUỘC KHỦNG HOẢNG TÀI
CHÍNH NƯỚC ANH 1992.
1. Tiểu sử George Soros.
George Soros được sinh ra với cái tên Dzichdzhe Shorak (phát âm là
“Shorosh”) ở Budapest năm 1930. Là con trai của một luật sư, ông đã trở thành
một siêu sao đầu tư của thế giới với giá trị tài sản ròng năm 2002 là $6,9 tỉ. Kể
từ khi được thành lập vào năm 1969, trong 32 năm hoạt động, quỹ đầu tư của
ông đã kiếm được mức lợi nhuận trung bình cao đến mức khó tin – 35%/năm.
Soros là người Do Thái, sinh ra ở Hungary vào ngày 12/8/1930. Tuổi
thơ của nhà tỉ phú này gắn liền với những ngày kinh hoàng khi phát xít
Đức tàn sát người Do Thái trong cuộc chiến tranh thế giới thứ hai. Khi còn
nhỏ, ông được dạy rằng người Do Thái có thể chạy chứ không được lẩn

trốn! Năm 1947, cậu bé Soros sang London một mình. Tại đây, Soros tốt
nghiệp trường Kinh doanh London vào năm 1952. Năm 1956, Soros sang
Mỹ đoàn tụ với bố mẹ và các anh chị em, và nhập quốc tịch Mỹ. Đây là nơi
ông bắt đầu khởi nghiệp với 5.000 USD ít ỏi.
Câu chuyện về cuộc đời của Soros có hai phần rõ rệt: một “máy làm
tiền”, và một nhà hoạt động từ thiện tích cực. Tuy nhiên, người ta thường
thích quan tâm đến tiền của Soros hơn là những mục tiêu lý tưởng mà ông
theo đuổi. Soros đã viết 7 cuốn sách mang nhiều tính triết lý. Cuốn sách
mới xuất bản gần đây nhất là cuốn “George Soros nói về toàn cầu hoá”,
xuất bản tháng 3/2002. Phương châm kinh doanh của Soros khá đặc biệt:
trong kinh doanh, việc bạn đúng hay sai không quan trọng, cái quan trọng
là nếu bạn đúng bạn sẽ có được bao nhiêu tiền, và nếu bạn sai bạn sẽ mất
bao nhiêu tiền.
Thực hiện: Lê Thành Tuân
4
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
2. George Soros trước 1992.
Năm 1956, Soros chuyển tới thành phố New York, tại đây ông làm việc
tại hai công ty chứng khoán trước khi gia nhập hãng Arnold & Bleichroeder
vào năm 1963.
Năm 1967, ông trở thành trưởng phòng nghiên cứu đầu tư, và ông đã
thành công trong việc tìm ra cơ hội đầu tư vào các cổ phiếu Châu Âu bị đánh
giá thấp hơn giá trị thực.
Năm 1969, ông thành lập một quỹ đầu tư mạo hiểm nước ngoài, sử dụng
$250.000 của riêng ông và khoảng $6 triệu của các nhà đầu tư không phải
người Mỹ khác mà ông quen biết. (Một quỹ đầu tư mạo hiểm là một công ty
hợp doanh đầu tư không bị hạn chế bởi quy định của các cơ quan chính phủ
như Uỷ ban Chứng khoán Hoa Kỳ. Mỗi quỹ đầu tư mạo hiểm có thể thiết lập
phong cách và chiến lược đầu tư của riêng mình, phong cách và chiến lược đầu
tư của các quỹ rất khác nhau: một số quỹ sử dụng chiến lược đầu tư tham gia

vào các loại đầu tư khác nhau, một số khác thì không. Người quản lý quỹ
thường thu phí và phần trăm của lợi nhuận kiếm được, đồng thời đầu tư toàn bộ
số tiền của mình vào quỹ.)
Chẳng bao lâu sau đó, Soros rời bỏ Arnold & Bleichroeder và mang đi
quỹ Soros do ông thành lập. Mặc dù thập niên 1970 là những năm nghèo túng
của thị trường chứng khoán Hoa Kỳ, nhưng quỹ Soros thì lại ăn nên làm ra.
Với tư cách là người quản lý quỹ, Soros tập trung tìm kiếm các lĩnh vực bị
đánh giá thấp hơn giá trị thật ở Hoa Kỳ và ở các nước khác. Ông mua các cổ
phiếu giá thấp không được ưa thích và bán non các cổ phiếu giá cao được ưa
thích.
Ông dự đoán cầu về dầu sẽ vượt xa cung về dầu nên đã mua cổ phiếu
của các công ty hoạt động trong ngành dịch vụ dầu mỏ và khoan dầu trước
cuộc khủng hoảng dầu đầu tiên năm 1973. Vào giữa thập niên 1970, ông đầu tư
rất nhiều vào các cổ phiếu của Nhật Bản. Năm 1979, ông đổi tên quỹ thành
Thực hiện: Lê Thành Tuân
5
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
Quantum Fund để tôn vinh nguyên lý dễ thay đổi trong cơ học lượng tử của
Heisenberg. Năm 1980, quỹ đạt lợi nhuận 103% với số vốn lên tới $380 triệu.
Năm 1981, tạp chí Institutional Investor gọi ông là “nhà đầu tư vĩ đại
nhất thế giới”. Nhưng năm 1981 là một năm khó khăn: quỹ lỗ 23% và một
phần ba các nhà đầu tư của quỹ rút tiền về. Song các nhà đầu tư đó đã phạm sai
lầm. Trong tương lai, quỹ vẫn tiếp tục thu được dòng lợi nhuận cực lớn.
Vào đầu tháng 9/1985, Soros tin rằng đồng đô-la Mỹ đang được đánh
giá quá cao so với đồng yên Nhật và đồng Mác Đức, và chẳng bao lâu sẽ có sự
điều chỉnh cho đúng với giá trị thực. Ông quyết định mua các hợp đồng đầu cơ
để kiếm lợi nhuận từ những thay đổi mà ông đoán trước là sẽ xảy ra. Chẳng hạn
như ông vay đô-la để mua yên và mác, đồng thời mua trái phiếu chính phủ của
Nhật và Đức. Tổng cộng ông đã cam kết mua các hợp đồng trị giá $800 triệu,
một cam kết có giá trị lớn hơn toàn bộ số vốn của quỹ. Vào cuối tháng 9, chính

phủ các nước phát triển tuyên bố Hiệp định Plaza, trong đó họ hứa sẽ hợp tác
hành động (như can thiệp vào các thị trường ngoại hối) để làm tăng giá trị của
các đồng tiền mạnh so với đồng đô-la Mỹ. Chỉ trong một tháng, do đồng đô-la
mất giá, Soros đã thu lợi nhuận $150 triệu.
Tổng lợi nhuận của quỹ năm 1985 là 122% vì ông còn đầu tư vào cổ
phiếu nước ngoài và trái phiếu dài hạn của Ngân khố Hoa Kỳ. Tất nhiên không
phải mọi hoạt động đầu tư của ông đều mang lại lợi nhuận. Chẳng hạn như
trong năm 1987, quỹ Quantum lỗ tới $840 triệu khi thị trường cổ phiếu Hoa Kỳ
và các nước khác sụp đổ vào tháng 10. Nhưng quỹ vẫn kiếm được 14% lợi
nhuận trong cả năm này.
Thực hiện: Lê Thành Tuân
6
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
PHẦN 2
GEORGE SOROS VỚI CUỘC KHỦNG TÀI CHÍNH NƯỚC
ANH 1992 :George Soros kiếm được hàng tỷ chỉ trong một đêm là do may
mắn hay do ơng ta có một sự hiểu biết un thâm về hệ thống Tài Chính
Quốc Tế.
1. Tình hình kinh tế nước Anh 1992.
a. Kinh tế nước Anh đang trong giai đoạn suy thối.
NHTW của các nước cơng nghiệp phát triển đã áp dụng chính sách thắt
chặt tiền tệ trong khi mặt bằng lãi suất của thế giới đang tăng cao. Trong giai
đoạn này tình hình kinh tế nước Anh đang suy thối nghiêm trọng phản ánh
qua một số chỉ tiêu sau:
Chỉ tiêu Trung bình
1988-1990
1991 1992
GDP thực tế 2,3 -2,2 -1,0
Tốc độ tăng trưởng KT - -1,8 -0,1
Tổng cầu thực tế 3,5 -3,2 0,1

Cán cân tài khoản vãng lai -3,6 -1,1 -2,1
Tỷ lệ lạm phát 9,5 5,9 3,8
Tỷ lệ thất nghiệp - 8,0 9,8
Thâm hụt ngân sách(/GDP) 1,3 2,8 6,6
Khối lượng xuất khẩu - 1,7 3,2
Khối lượng nhập khẩu - -2,8 6,7
b. Sự ra đời hệ thống tỷ giá Châu Âu (ERM).
Vào 13/3/1979 Hệ thống tỷ giá Châu Âu (ERM) được thành lập, hầu hết
các đồng tiền của EU bị buộc vào nhau theo Cơ chế Tỷ giá Hối đối (Exchange
Thực hiện: Lê Thành Tn
7
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
Rate Mechanism – ERM) của Hệ thống Tiền tệ Châu Âu (European Monetary
System). Hệ thống tỷ giá song phương giữa các đồng tiền thành viên được dao
động trong một biên độ nhất định(2.25%). Riêng nước Anh và Ý là 6%.
Đơn vị tiền tệ Châu Âu - ECU
Loại tiền tệ %tham gia Loại tiền tệ %tham gia
Marks Đức (DEM)
Francs Pháp (FFR)
Bảng Anh (GBP)
Đồng Lira Ý (ITL)
Guilders Hà Lan(NLG)
Francs Bỉ (BEF)
30.1
19.0
13.0
10.15
9.4
7.6
PesetaTâyBanNha (ESP)

KronesĐan Mạch (DKK)
Punts Ireland (IP)
Drachmas Hy Lạp (GRD)
Escudos Bồ ĐàoNha (PTE)
Francs Luxembourg (LUF)
5.3
2.45
1.1
0.8
0.8
0.3
Mặc dù đã gia nhập Cộng đồng kinh tế Âu Châu (ECC) từ tháng 4/1970
và đã kí hiệp định EMS nhưng nước Anh lại quyết định không tham gia hệ
thống tỉ giá hối đoái của ECC. Theo thể thức EMS, tỷ giá hối đoái của các
nước thành viên được duy trì trong các giới hạn cụ thể và cũng ràng buộc với
đơn vị tiền tệ Châu Âu và các đồng tiền của các nước thành viên này đều được
neo theo đồng Mark Đức đồng thời có thể dao động không quá 2,25% ( trừ Ý là
6%). Nhưng đến tháng 10/1990, Anh quyết định gia nhập ERM cùng với sự
đảm bảo của Chính Phủ là sẽ theo đuổi một chính sách kinh tế và tiền tệ sao
cho có thể phòng ngừa được những biến động về tỷ giá giữa đồng Bảng và
đồng tiền của các nước khác thuộc ERM trong một biên độ giao động tỷ giá là
6%.
Lúc này, đồng Pound được neo ở mức 1GBP= 2.95 DEM

Sau khi bức tường Berlin sụp đổ ngày 9/11/1989, hai miền Đông và
Tây Đức được thống nhất cả về địa lý lẫn chính trị và đồng Mark của Tây
Đức được chọn là đồng tiền chung cho đất nước. Vào thời điểm đó, 1 đồng
Mark của Tây Đức đổi được 4 đồng Mark của Đông Đức. Tình hình lạm
phát tại Đức tăng cao do người dân ở Đông Đức đổ xô đi đổi tiền Tây Đức.
Thực hiện: Lê Thành Tuân

8
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
Để tránh sự ảnh hưởng của lạm phát cao đến nền kinh tế mới được thống
nhất, NHTW Đức đã quyết định tăng lãi suất đồng Mark lên cao và duy trì
lãi suất cao này trong một thời gian dài. Khi đồng Bảng Anh neo giá cố
định theo đồng Mark Đức thì hiện tượng lãi suất cao tại Đức đã góp phần
làm cho giá trị thực của đồng Bảng bị giảm sút nghiêm trọng. Cũng chính
điều này đã gây rất nhiều khó khăn cho NHTW Anh trong việc duy trì tỷ
giá hối đoái cố định và chỉ có hai phương án lựa chọn cho NHTW Anh mà
thôi, đó là:
(1) Ngân hàng trung ương Anh phải chuẩn bị sẵn sàn để mua vào một
lượng đồng bảng Anh dư thừa trên thị trường bằng việc bán ra đồng DEM từ
kho dự trữ của mình
(2) Tăng lãi suất đồng bảng Anh lên một mức cao để khuyến khích các
nhà quản lý danh mục đầu tư.
2. Nguyên nhân khủng hoảng tài chính nước Anh: ngày thứ tư đen tối
(Black Wednesday).
- Cơ chế tỷ giá ERM được xem là “cơ chế tỷ giá
bò trườn” khi mà nó dựa trên một tỷ giá trung tâm, được tính toán dựa
trên tỷ giá bình quân gia quyền của tỷ giá hối đoái của các nước thành
viên với quyền số được ấn định dựa trên tổng sản phẩm quốc dân và hoạt
động mậu dịch nội bộ châu Âu tương ứng của các nước thành viên trong
khi giới hạn tỷ giá đồng tiền của các nước thành viên dao động trong một
biên độ hẹp ( 2.25%, trừ Ý và Anh là 6%). Khi có biến động bởi nền kinh
tế Đức hồi phục quá nhanh đã làm rối loạn tiền tệ của cơ chế này và tỷ giá
trung tâm phải điều chỉnh thường xuyên khiến cho nó trở nên mất ổn
định.
- Vào thời điểm này, nền kinh tế của các nước
châu Âu đang rơi vào tình trạng suy yếu và có khả năng xảy ra khủng
hoảng.

Các nhà đầu cơ bắt đầu có những hoài nghi về cam kết của các
chính phủ là bảo vệ cố định tỷ giá trung tâm thông qua công cụ lãi suất
Thực hiện: Lê Thành Tuân
9
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
cao và họ đã tấn công vào các đồng tiền thuộc ERM mà trước tiên là
hai đồng tiền có biên độ cao nhất là đồng Bảng Anh và đồng Lira Ý.
- Chính phủ và Ngân hàng trung ương Anh cố gắng để giữ tỷ giá ấn định
là 2.95 DEM/1bảng.
- Ngày 16/9/1992 chính phủ Anh chính thức thông báo tăng lãi suất đồng
bảng Anh từ 10% đến 12%, sau đó lại tiếp tục tăng tới 15%, đây là mức lãi suất
cao kỷ lục, do ngân hàng TƯ Anh không có đủ lượng dự trữ đồng DEM để giữ
ấn định mức giá neo 2.95DEM/1bảng.
- Những nhà môi giới, đầu cơ và những nhà quản lý danh mục đầu tư vẫn
tiếp tục bán đồng bảng Anh.
- Việc duy trì lãi suất cao của đồng bảng Anh không thể kéo dài được.
- Nước Anh buộc phải thực hiện thả nổi đồng Bảng và đồng bảng rớt giá
ngay lập tức.
- Tháng 9/1992, nước Anh rơi vào cuộc khủng hoảng kinh tế trầm trọng,
ảnh hưởng dây chuyền tới nền kinh tế một số nước và thế giới và do vậy nước
Anh rất cần phải duy trì lãi suất ở mức thấp.
3. Hành động của George Soros: Nhà đầu tư có một sự hiểu biết uyên
thâm về hệ thống tài chính quốc tế.
Theo giới chuyên môn, thành công của George Soros chính là sự hiểu
biết uyên thâm, nghị lực phi thường cộng với sự phấn đấu không biết mệt mỏi.
Ông thường làm việc liên tục với mỗi đêm chỉ ngủ 2 giờ. Trái với nhiều nhà
kinh tế, học thuyết cơ bản của ông về đầu tư là thị trường tài chính - nơi bất ổn
nhất. Tại đó, các mức giá cổ phiếu, trái phiếu, tiền tệ phụ thuộc vào người mua
và người bán mà đa số họ thường hành động theo cảm tính chứ không bằng
những tính toán lôgic.

a. Quá trình đầu cơ của George Soros.
Tháng 9/1992, Soros đưa ra lời dự đoán nổi tiếng nhất. Bằng khoản đầu tư
trị giá 10 tỷ USD vào đồng Bảng Anh (GBP), George Soros chính là người đã
làm cho đồng GBP phải rút khỏi hệ thống tỷ giá hối đoái châu Âu (ERM).
Thực hiện: Lê Thành Tuân
10
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
Sau sự kiện bức tường Berlin sụp đổ, đất nước Đức thống nhất hai miền
Đông và Tây. Để tránh tình trạng lạm phát cao, NHTW Đức đã quyết định tăng
lãi suất đồng Mark Đức, làm cho đồng Mark có xu hướng tăng giá so với các
đồng tiền khác và chính điều này đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến các đồng
tiền khác thuộc ERM. Theo đó, để giữ cho tỉ giá hối đoái được ổn định, Chính
phủ các nước khác thuộc ERM cũng sẽ phải tăng lãi suất cho đồng tiền của
mình và Soros tin rằng Chính phủ Anh cũng không ngoại lệ vì lúc này tình hình
kinh tế nước Anh đang trong tình trạng suy yếu, tỷ lệ thất nghiệp cao. Theo như
Soros dự đoán thì với tình hình này, trong tương lai không xa, nước Anh chỉ có
thể thực hiện một trong hai hành động sau: hoặc là nước Anh sẽ bán phá giá
đồng Bảng nếu muốn tiếp tục tham gia ERM, hoặc là rút khỏi ERM. Dù nước
Anh có hành động nào đi nữa thì chắc chắn là đồng Bảng cũng sẽ mất giá.
Quá trình đầu cơ
Thực hiện: Lê Thành Tuân
Vay GBP DEM
GBP
chuyển đổi
bán
trả tiền vay
Lợi nhuận (GBP)
11
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
Ông đầu cơ giá xuống vào đồng bảng và đầu cơ giá lên vào đồng Mác

bằng cách vay bảng mua Mác, đồng thời còn đầu tư vào các hợp đồng tương lai
và hợp đồng quyền chọn. Giá trị các hợp đồng này cực lớn - $10 tỷ. Khi Soros
và các nhà đầu tư khác thực hiện hợp đồng, họ bán đồng bảng, do vậy tạo nên
sức ép giảm giá với đồng bảng.
b. Các biện pháp chống đỡ của NHTW Anh.
Do lượng DEM dự trữ không đủ để đáp ứng nhu cầu thị trường nên đầu tháng
9/1992, NHTW Anh quyết định vay thêm một khoản khổng lồ là 20 tỉ DEM
nhằm đáp ứng nhu cầu thị trường và bảo vệ tỷ giá cố định so với đồng DEM
của đồng Bảng Anh. Không may là các lực thị trường quá mạnh, làn sóng tấn
công của các nhà đầu cơ vẫn dâng lên rất cao cùng với việc NHTW Đức không
muốn tung thêm đồng DEM ra thị trường ngoại hối vì muốn kìm giữ mức lạm
phát trong nước đã khiến cho mọi cố gắng chống đỡ của NHTW và Chính phủ
Anh bằng biện pháp can thiệp trực tiếp và thị trường ngoại hối trở nên vô hiệu.
Thực hiện: Lê Thành Tuân
12
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
Lạm phát của một số nước 1987-1993
Lúc này, NHTW Anh nghĩ đến biện pháp thứ hai là tăng lãi suất cho đồng
Bảng. Điều này đã khiến cho canh bạc tiền tệ trở nên đắt đỏ hơn đối với các
nhà đầu cơ khi mà họ vẫn sẵn sàng từ bỏ lãi suất cao cho đồng Bảng Anh để
nắm giữ đồng Mark bởi lãi suất tăng quá cao lại thể hiện rõ hơn sự bất lực của
Chính Phủ và NHTW Anh trong việc giải quyết khủng hoảng, càng làm tăng
rủi ro cho những ai nắm giữ đồng Bảng. Chính vì vậy mà cố gắng cuối cùng
của chính phủ và NHTW Anh vẫn thất bại khiến cho họ đi đến quyết định thả
nổi đồng Bảng .
Thực hiện: Lê Thành Tuân
Lãi suất tiền gửi
Tỷ giá E
t
GBP/DEM

E
par
=2.778
RET
D
RET
F
1
RET
F
2
RET
F
3
RET
D
i
D
1
i
D
2
i
D
3
1
2 3
1’
13
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ

c. Khủng hoảng xảy ra.
Các ngân hàng trung ương cố gắng bảo vệ tỷ giá cố định, nhưng chẳng
bao lâu chính phủ Anh đành buông tay và rút khỏi ERM. Đồng bảng mất giá
thảm hại so với đồng Mác. Như vậy mặc dù đã nỗ lực can thiệp trên thị trường
ngoại hối và nâng mức lãi suất tăng thêm 5% chỉ trong 1 ngày nhưng trước việc
tập trung tấn công vào đồng Bảng của các nhà đầu cơ đã buộc nước Anh phải
chấm dứt tư cách thành viên ERM vào ngày thứ 4 đen tối 16/9/1992 (Black
Wednesday).
Chỉ trong một tháng, quỹ Quantum thu lợi nhuận khoảng $1 tỉ từ các hợp
đồng đầu cơ giá xuống vào đồng bảng và $1 tỉ nữa từ các hợp đồng đầu cơ giá
lên vào các đồng tiền châu Âu khác. Tạp chí Economist gọi Soros là “người
phá sập Ngân hàng nước Anh.”
Từ đây, mọi hành động, mọi cử chỉ, lời nói của George Soros đều được
hầu hết cư dân ở phố Walls và thị trường tài chính London chú ý đến bởi họ
cho rằng ông là nhân vật số một trong giới tài chính của thế giới, là một người
có khả năng “ một tay che cả bầu trời” khi ông có thể làm mất giá bất kì đồng
tiền nào hay gây ra khủng hoảng kinh tế chỉ với một vài nhận định về thị
trường cho công chúng biết hay một hành động đầu tư một loại chứng khoán
hay đồng tiền nào. Cũng chính vì quan niệm này của mọi người mà ông thường
xuyên trở thành nhân vật bị cáo buộc là có liên quan hoặc là thủ phạm gây ra
các cuộc khủng hoảng hay các bất ổn về kinh tế - tài chínhđối với các quốc gia
mà ông từng đi qua, đã từng đầu tư vào, thậm chí nhiều quốc gia không cấp
visa cho ông nhằm ngăn cản ông bước vào lãnh thổ nước họ để tránh những bất
lợi có thể xảy ra cho đất nước.
4. Nguyên tắc đầu tư của George Soros.
Những kinh nghiệm đầu tư của George Soros đã chứng tỏ rằng ông là
một nhà đầu tư hiểu biết uyên thâm về hệ thống tài chính quốc tế. Trung tâm
trong nguyên tắc của Soros là sự khác biệt giữa hình ảnh và thực tại. Sự khác
Thực hiện: Lê Thành Tuân
14

Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
biệt lớn giữa Soros và Buffett là ở chỗ Buffett, theo đúng nguyên tắc của
Graham trước đây 40 năm, tính toán - hay vẫn nói rằng ông tính toán - trên cơ
sở các giá trị ẩn tàng của các tài sản, còn Soros thì đúng hơn là một nhà buôn
bằng trực quan, linh cảm.
a. Linh cảm của Soros.
Tại Học viện Kinh tế London, Soros đã được học về tâm lý học và cả xã
hội học nữa. Ông đã ứng dụng những điều đã học vào các chiến lược đầu tư của
mình khi ông cho rằng vấn đề đánh giá giá trị của cổ phiếu hay hàng hoá không
quan trọng bằng đánh giá các quan niệm về một tài sản và nhận ra được thời
điểm mà các tài sản hay quan niệm đó thay đổi. Và cũng chính những kiến thức
về tâm lý học và xã hội học đã giúp Soros hình thành nên những nguyên tắc
đầu tư cũng như những linh cảm trong kinh doanh của mình dù rằng không
phải lúc nào cũng đúng khi mà ông cũng đã nếm trải không ít thất bại cay đắng.
Ông cũng cho rằng thị trường giúp định hình giá trị và quan niệm. Theo
ông, giá trị không phải là một cái gì đó mà một kế toán viên lành nghề trong
một công ty có thể xác định được, mà là một thực thể thay đổi, linh động hơn
nhiều.
Soros đã tóm tắt lại tư tưởng của mình vào 6 giai đoạn phát triển của
một trạng thái đầu tư :
• Giai đoạn thứ nhất là một xu hướng chưa được nhận ra trên thị
trường.
• Giai đoạn hai là khi xu hướng trở nên rõ nét hơn. Sự sụt giá mạnh
của American Express năm 1982 từ 62 USD xuống 35 USD là một ví dụ điển
hình của chuyện này. Thị trường trong trạng thái lo sợ làm trầm trọng thêm xu
hướng giảm giá
• Giai đoạn thứ ba là một cái test (phép thử) thành công trên thị
trường. Đó có thể là một sự kiện tương tự đã xảy ra trước, với kết cục khẳng
định thêm xu hướng quan sát được.
• Giai đoạn thứ tư là sự phân hóa ngày càng lớn giữa thực tại và quan

niệm. Ví dụ, với những người đã chót “ôm” cổ phiếu đang có chiều hướng mất
Thực hiện: Lê Thành Tuân
15
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
giá, họ thường tự trấn an bằng cách tìm kiếm những thông tin để củng cố quan
niệm của mình (rằng cổ phiếu đang giữ sẽ lên giá).
• Cao trào là giai đoạn thứ năm, ví dụ, là những ngày “đen tối” - xảy ra
hoảng loạn với cao trào bán tháo trên thị trường, và là thời cơ vàng của những
nhà đầu cơ tấn công thị trường như Soros trong cuộc khủng hoảng tỷ giá bảng
Anh năm 1992.
• Giai đoạn cuối cùng được Soros gọi là “hình phản chiếu ngược qua
gương”, khi mà xu hướng thị trường quay ngược trở lại và giá cả phục hồi.
b. Nguyên tắc đầu tư.
George Soros là nhà đầu cơ ngắn hạn, hoạt động kinh doanh của ông
mang tính trục lợi rất cao, đầu tư những khoản tiền lớn nhưng mang nhiều tính
đánh bạc trên cơ sở những biến động của thị trường tài chính toàn cầu. Do đó,
sau sự kiện này, nhất cử nhất động của George Soros đều thu hút sự chú ý đặc
biệt của các quan chức Chính phủ và ngân hàng trung ương của tất cả các nước.
Nhiều chuyên gia kinh tế ở phố Walls cho rằng Soros là một con
người kì lạ, trong khi mọi người đi bên phải, riêng Soros đi bên trái nhưng
lại tỏ ra là mình đang đi đúng đường.
Trái với nhiều nhà kinh tế, học thuyết cơ bản của ông về đầu tư là thị
trường tài chính - nơi bất ổn nhất. Tại đó, các mức giá cổ phiếu, trái phiếu,
tiền tệ phụ thuộc vào người mua và người bán mà đa số họ thường hành động
theo cảm tính chứ không bằng những tính toán lôgic.
George Soros cho rằng các nhà đầu tư luôn chịu tác động lẫn nhau và có
xu hướng dịch chuyển theo số đông và ông cố gắng tìm để hiểu được số đông
đó muốn gì, hướng đi ra sao để đến một thời điểm mà ông cho là quyết định,
ông sẽ tách khỏi xu hướng chung và đi con đường riêng có lợi nhất cho mình.
Cái khó đối với mỗi nhà đầu tư là nhận định được chính xác và nhanh chóng

thời điểm quyết định đó sẽ đến vào lúc nào!
Nhiều người cho rằng George Soros là một kẻ liều lĩnh khi dám làm
những điều mà họ cho là đi ngược lại với số đông và có thể phải gánh chịu rất
Thực hiện: Lê Thành Tuân
16
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
nhiều rủi ro. Nhưng cả lý thuyết và thực tế đều cho thấy rằng tỉ suất sinh lợi sẽ
càng cao khi rủi ro càng lớn thì một thiên tài kinh doanh đầu cơ như Soros hiểu
rất rõ điều đó nên ông đã chấp nhận rủi ro và dám chịu rủi ro. Chính nguyên
tắc này đã giúp cho ông vượt qua tất cả các đối thủ nặng ký tại phố Walls vào
năm 1993 khi ông đạt được mức thu nhập kỉ lục 1.1 tỉ USD sau những phen
đầu tư có thể làm chết ngất những người yếu tim.
Cả thế giới biết đến Soros như kẻ làm mất uy tín của một trong những
đồng tiền có giá trị bậc nhất thế giới từ những quyết định bất ngờ đáng giá hàng
tỷ đô la!
Mỗi một doanh nhân thành đạt đều có những nguyên tắc kinh doanh và bí
quyết kinh doanh riêng cho mình. Từ những nguyên tắc trên, Soros đã vươn tới
rất nhiều thành công mà không ít lần nếm trải thất bại cay đắng nhưng ông vẫn
được mọi người biết đến như một nhà đầu cơ tiền tệ “vĩ đại” bậc nhất của thế
giới. Những quyết định của ông thường xuất phát từ những nhận định nhạy bén
về thị trường, từ những phán đoán dựa trên những nguyên tắc kinh doanh đã
đặt ra và sự thực dụng của một nhà kinh doanh lão luyện. Tuy nhiên, đi kèm
với những thành công của ông thường là những thất bại đau đớn của nhiều
người, của nhiều chính phủ trên thế giới bởi quyết định của ông có ảnh hưởng
rất lớn đến thị trường tài chính quốc tế.
Thực hiện: Lê Thành Tuân
17
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
PHẦN 3
GEORGE SOROS LÀ MỘT ANH HÙNG HAY LÀ MỘT TỘI

ĐỒ CỦA THẾ GIỚI.
1. GEORGE SOROS là một anh hùng của thế giới.
Cho đến nay vẫn có hai trường phái trái ngược nhau nhận định về
George Soros là anh hùng hay tội đồ của thế giới.
Nhóm các NHTW và các Chính phủ ở các Quốc Gia trong ERM: cho
rằng ông đáng bị “xử tử” vì đã làm mất lòng tin của nhân dân và những chính
sách của Chính Phủ, vì ông đã làm mất uy tín của một trong những đồng tiền
có giá trị nhất trên thế giới George Soros như là một tội đồ của thế giới.
Các nhà đầu cơ, dân chúng nhìn ông với thái độ ngưỡng mộ, khâm phục
và luôn dõi theo từng bước đi của ông trên thị trường, vì ông đã sữa chữa
những sai lầm của Chính Phủ, Ngân hàng TƯ và giúp đồng EURO ra đời hoàn
thiện và thành công hơn George Soros như là một anh hùng.
a. George Soros xứng đáng được coi là một anh hùng.
Với sự kiện đầu cơ ngoạn mục vào năm 1992 thì G.Soros xứng đáng
được coi là một anh hùng. Nhìn dưới góc độ chuyên môn để đánh giá, G. Soros
thực sự là một anh hùng trong lĩnh vực của ông, một lĩnh vực đòi hỏi con người
khi đã quyết tâm dấn thân vào thì phải có đầy đủ cả bản lĩnh kiến thức và lòng
đam mê để đạt đến mục tiêu cuối cùng.
Việc đầu cơ làm tăng thêm hoạt động mua và bán có liên quan đến đầu
cơ sẽ giúp cho việc tăng thêm “tính lỏng” hay tính “thanh khoản” cao cho thị
trường.
Giúp phát hiện ra những kẽ hở và điểm yếu trong nền kinh tế của mỗi
quốc gia để từ đó biết cách tự sửa chữa và hoàn thiện. việc làm của ông hiển
nhiên là việc làm của một nhà đầu tư khi theo ông thời điểm sinh lợi đang tới,
cho dù gây ra một hậu quả nặng nề khi đó, nhưng nhìn một cách khách, sau tai
nạn đó, chính phủ và NHTW nước Anh đã nhận ra những sai sót trong chính
sách của mình và giúp cho đồng Euro ra đời hoàn thiện và thành công hơn. Sự
Thực hiện: Lê Thành Tuân
18
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ

kiện này cũng giúp cho Chính Phủ các nước rút ra được bài học kinh nghiệm
để tránh đi vào vết xe đổ của Anh.
b. George soros nhà hoạt động từ thiện quốc tế tích cực nhất của thế
kỷ 20.
Khi giảm dần vai trò quản lý quỹ của mình xuống, Soros chuyển sang viết
báo, viết sách và làm từ thiện. George Soros đã xuất bản một số cuốn sách về
tài chính và vấn đề toàn cầu hóa khá nổi tiếng như The Alchemy of Finance
(1987), Soros on Soros (1995), George Soros on Globalization (2002) Ông
cũng nhận được học vị danh dự từ nhiều trường đại học danh tiếng trên thế giới
như Đại học Oxford, Yale, Đại học kinh tế Budapest. Những bài viết của ông
rất kỳ lạ. Ông đặc biệt chỉ trích chủ nghĩa cá nhân và chủ nghĩa tư bản thái quá
- cái mà ông gọi là “chủ nghĩa thị trường.” Ông cho rằng các thị trường tài
chính toàn cầu không được kiếm soát vốn dĩ không vững vàng, và ông kêu gọi
các quốc gia kiểm soát các thị trường tốt hơn và thành lập các tổ chức quốc tế
mới kiểu như một tổ chức bảo hiểm tín dụng quốc tế để bảo lãnh nợ cho các
nước đang phát triển.
Hiện mỗi năm hệ thống toàn cầu của Hiệp hội “Vì một xã hội mở” tiêu
tốn khoảng 500 triệu USD cho các hoạt động nhân đạo, chương trình hỗ trợ
kinh tế các nước đang phát triển. Khi đã trở thành một nhà tỷ phú, Soros bắt
đầu hoạt động từ thiện và sống suy tưởng hơn. Ông được mệnh danh là nhà
hoạt động từ thiện quốc tế tích cực nhất của thế kỷ 20. Nhưng Soros là một nhà
từ thiện đặc sệt kiểu Mỹ, ông không tài trợ tiền vào các nhà thờ, bảo tàng mà
ông rót tiền vào những quỹ học bổng giáo dục. Ông cũng có thể cam kết rút
tiền túi giúp những người nhập cư ở Mỹ 50 triệu đôla nếu ông thấy chính quyền
có những chính sách không công bằng với cộng đồng người nhập cư. Soros chủ
trương phát triển dân chủ trên thế giới. Mặc dù là một người Do Thái, ông
không e ngại khi nói rằng ông tẩy chay Israel. Ông đã phát biểu rằng với tư
cách là một người Do Thái, ông không tìm thấy niềm tin có thể khiến ông ủng
hộ Israel. Soros là một người tiên phong đấu tranh vì tự do và dân chủ và ông
không công nhận Israel là một nước có nền dân chủ. Tuy vậy, phần lớn những

Thực hiện: Lê Thành Tuân
19
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
đối tác làm ăn của Soros là người Do Thái. Thêm vào đó, điều đáng chú ý là
George Soros đã chi khoảng 10 triệu đôla cho một tổ chức có nhiệm vụ vận
động chống lại tổng thống G.W.Bush trong cuộc bầu cử sắp tới. Trong một bản
thông báo, Soros phát biểu rằng ông Bush đã lãnh đạo đất nước theo đường lối
sai lầm.
Mặc dù hiện này Soros không còn đóng vai trò tích cực trong các quyết
định đầu tư như trước, nhưng ông vẫn là tinh hoa trong lĩnh vực đầu tư đầu cơ
quốc tế. Tên ông đồng nghĩa với các quỹ đầu tư mạo hiểm, đặc biệt là các vụ
đầu cơ giá lớn. Ông bị các quan chức chính phủ, như Thủ tướng Mahathir
Mohamad của Malaysia năm 1997 chẳng hạn, buộc tội là nguyên nhân dẫn đến
các sức ép đầu cơ không chính đáng lên đồng tiền và thị trường tài chính nước
họ. Soros tiếp tục bảo vệ các hoạt động đầu tư của mình, tuyên bố rằng ông chỉ
nhận thức được những thay đổi chắc chắn sẽ xảy ra.
.c George Soros tội đồ thế giới.
Về phía công chúng Anh, đồng bảng Anh mất giá 10%. Ông đã làm mất
giá một đồng tiền mạnh tỷ lệ thất nghiệp tăng lên nhanh chóng, tất cả các
khoản thuế phần lớn rơi vào túi của ông ta.
Trước sự kiện “black Wednesday” khi nói đến những vật có ảnh hưởng
đáng ngờ đến thị trường chứng khoán thế giới thì người đầu tiên được người ta
nghĩ đến không ai khác chính là George Soros. Họ tin rằng ông có thể một tay
che cả bầu trời, làm mất giá bất kỳ đồng tiền mạnh nào, thậm chí gây ra một
cuộc khủng hoảng kinh tế. Khi thị trường chứng khoán của Nhật Bản bị đổ vỡ
vào năm 1990, người ta từng cho rằng có sự liên quan, dính líu của George
Soros bởi mối quan hệ khá mật thiết với Salomon Brothers. Trong vụ này,
Hãng đầu tư Salomon Brothers là thủ phạm khởi động nền kinh tế bong bóng
vào mùa đông năm 1989 và cũng chính hãng này làm nó đổ vỡ hoàn toàn vào
năm 1990 khiến người ta cho rằng George Soros cũng chính là đồng tác giả.

Thực hiện: Lê Thành Tuân
20
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
Trước khủng hoảng năm 1997, giá trị đồng Baht Thái được giữ ổn định
là Chính phủ Thái duy trì lãi suất cao hơn nhiều nước đồng thời tỷ giá hối đoái
được duy trì cố định ở mức USD/THB = 25 nên đã thu hút được rất nhiều nhà
đầu tư nước ngoài.
Người ta cho rằng với 1 triệu USD có trong một ngân hàng nước ngoài,
NHTW Thái có thể trả được 25 triệu Baht cộng với lãi ở tỷ giá USD/THB = 25,
hay thậm chí là 30 triệu Baht cùng với lãi nếu tỉ giá USD/THB = 30.
Tuy nhiên, vào khoảng giữa năm 1997, rất nhiều nhà đầu tư nhận ra tình
hình bất ổn này và họ đã ào ạt bán đồng Baht để mua đô la Mỹ khiến cho
khủng hoảng xảy ra. NHTW Thái đã cố gắng chống đỡ bằng cách dùng đồng
USD trong quỹ dự trữ để mua Baht và nhưng vẫn không thể đáp ứng nổi nhu
cầu mua này và đến ngày 2/7/1997, giá trị đồng Baht đã rớt xuống.
Người Thái tin rằng có rất nhiều người đang đầu cơ giá xuống bằng cách
bán đồng Baht để mua đô la Mỹ nhằm kiếm lời và họ cũng tin rằng kẻ đầu cơ
quyền lực và thành công nhất vào thời điểm đó chính là George Soros khi có
nhiều cáo buộc ông có liên quan đến việc này dù không có chứng cứ nào thực
sự rõ ràng. Thực sự mà nói thì bất cứ nhà đầu tư nhạy bén nào cũng có thể nhận
ra giống như George Soros mà thôi.
Ví dụ: lúc đầu, ta chỉ cần đi đến ngân hàng Thái vay 25 triệu Baht trong
3 tháng rồi sẽ trả lại 25 triệu Baht này bằng 1 triệu USD( để đơn giản ta bỏ qua
các khoản phí và lãi vay ngân hàng). Điều gì sẽ xảy ra nếu sau 3 tháng, tỉ giá
đồng Baht không còn được giữ ở mức USD/THB=25 mà tăng lên
USD/THB=30 ? ta sẽ không cần đến 1 triệu USD để trả khoản nợ này. Lợi
nhuận sẽ càng gia tăng khi giá trị đồng Baht càng mất giá.
Thị trưởng thành phố Bangkok đã phải phát biểu một cách đầy tức giận:
“Ông ta không biết xấu hổ khi nhìn thấy cảnh khổ sợ của chúng tôi do chính
ông ta gây ra bằng những hành động đầy nham hiểm như vậy sao? Ông ta

xứng đáng bị bắn vào đầu”.
Cựu thủ tướng Malaysia, Mahathir Mohamad đã gọi Soros là “quỷ dữ”
và buộc tội ông là đã nhằm vào đồng Rigit của Malaysia với động cơ chính trị.
Thực hiện: Lê Thành Tuân
21
Case study: Canh bạc lớn của George Soros GVHD: PGS.TS Trần Ngọc Thơ
Mahathir cho rằng Soros muốn trừng phạt khối ASEAN vì đã kết nạp chính
quyền quân sự Myanmar.
Nạn nhân tiếp theo của George Soros bị ảnh hưởng bởi dây chuyền
khủng hoảng kinh tế châu Á chính là Mỹ. Đợt sóng khủng hoảng này đã tràn
đến phố Walls vào tháng 10/1997 và đã gây tâm lý lo ngại sẽ kéo theo một loạt
sự sụp đổ các thị trường tài chính trên toàn cầu nên đã làm dấy lên làn sóng bán
cổ phiếu tại Mỹ vào ngày 27/10. Cũng vào ngày hôm đó, chỉ số Dow Jones rơi
vào một mức kỉ lục mới khi rớt 554,26 điểm, phá vỡ mức kỷ lục của “Ngày thứ
hai đen tối” ở Mỹ vào năm 1987.
Danh sách các nạn nhân của George Soros vẫn được kéo dài ra cho đến
nay, trong đó có nước Nga trong cuộc khủng hoảng tài chính tháng 8/1998 khi
giới đầu cơ quốc tế tấn công vào đồng Rúp. Ông đã đưa ra nhưng lời bình luận
không có lợi khiến ngay trong giờ đầu tiên giao dịch, chỉ số chứng khoán Nga
đã tụt 12%. 5 ngày sau đồng Rúp đã mất tới 25% giá trị.
NÓI TÓM LẠI, trong tâm trí của Chính phủ một số nước thì George
Soros bị coi là một kẻ phá hoại, một tên khủng bố man rợ đối với những chính
sách của họ, đối với nền kinh tế và đồng tiền của các quốc gia này nhưng trong
con mắt của rất nhiều người khác thì ông lại là một thiên tài về kinh doanh tài
chính và là một nhà từ thiện hào phóng nhất thế giới.
Thực hiện: Lê Thành Tuân
22

×