Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Quy định mới về khấu trừ chi phí quảng cáo, tiếp thị pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (127.01 KB, 13 trang )

Quy định mới về khấu trừ chi phí
quảng cáo, tiếp thị: Cơ hội và thử
thách đối với DN
Từ kỳ tính thuế năm 2009, những khống chế đối với việc khấu trừ
chi phí quảng cáo, tiếp thị được nới lỏng hơn thông qua việc Bộ
Tài chính ban hành Thông tư 130/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008
(sau đây gọi tắt là Thông tư 130).
Nhìn chung, Thông tư 130 tạo điều kiện cho các DN, nhất là DN
vừa và nhỏ đầu tư thâm nhập thị trường trong giai đoạn đầu và
mở ra cơ hội cho những DN đã có một chỗ đứng nhất định củng
cố thương hiệu và nâng cao thị phần.
Tuy nhiên, cơ hội luôn kèm theo thử thách, mà thử thách trong
việc khấu trừ thuế lại rất tốn kém, vì bên cạnh phần thuế đóng
thêm, DN còn phải chấp nhận những khoản tiền phạt kèm theo.
Ngoài việc cho phép DN khấu trừ toàn bộ những chi phí liên quan
đến nghiên cứu thị trường, trưng bày, giới thiệu sản phẩm như
trước đây (tức là theo Thông tư 134/2007/TT-BTC ngày
23/11/2007), theo quy định tại Thông tư 130, DN còn được phép
khấu trừ hoa hồng môi giới bảo hiểm theo quy định của pháp luật
về kinh doanh bảo hiểm và hoa hồng trả cho các đại lý bán hàng
đúng giá. Bên cạnh đó, đối với DN thành lập mới từ ngày
1/1/2009, mức khống chế được giảm trừ chiết khấu thương mại
trên doanh thu là 15% trong 3 năm đầu, kể từ khi được thành lập
(không áp dụng đối với DN được thành lập mới do hợp nhất,
chia, tách, sáp nhập, chuyển đổi hình thức DN, chuyển đổi sở
hữu).
Trong phạm vi bài viết này, chúng tôi sẽ chỉ đề cập đến loại chi
phí liên quan đến hoa hồng trả cho các đại lý bán hàng đúng giá,
chi phí trưng bày và giới thiệu sản phẩm.
1. Hoa hồng trả cho các đại lý bán hàng đúng giá


Theo Mục 4 Luật Thương mại 36/2005/QH11 ngày 14/6/2005,
sau đây gọi tắt là Luật Thương mại (từ Điều 166 đến Điều 177),
có một số điểm quy định cần chú ý về hoạt động đại lý như sau:
- Hợp đồng đại lý phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình
thức khác có giá trị tương đương;
- Bên giao đại lý là chủ sở hữu đối với hàng hóa hoặc tiền giao
cho bên đại lý;
-Về giá mua bán hàng hóa, có hai trường hợp: hoặc bên giao đại
lý ấn định giá mua, giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ cho
khách hàng để bên đại lý được hưởng hoa hồng tính theo tỷ lệ
phần trăm trên giá mua, giá bán hàng hóa, giá cung ứng dịch vụ;
hoặc bên giao đại lý không ấn định giá mua, giá bán hàng hóa,
giá cung ứng dịch vụ cho khách hàng, mà chỉ ấn định giá giao đại
lý cho bên đại lý để bên đại lý hưởng chênh lệch giá.
Nói cách khác, chi phí hoa hồng trả cho các đại lý để được khấu
trừ toàn bộ phải đáp ứng tất cả các điều kiện nêu trên, và chỉ chi
phí hoa hồng trả cho đại lý bán đúng giá mới được hưởng chính
sách này.
Trong thực tế, các DN thường ký hợp đồng phân phối trong đó
quy định việc nhà phân phối phải bán đúng giá và hưởng một tỷ
lệ chiết khấu nhất định (có thể là chiết khấu chung hoặc chiếu
khấu thương mại do đạt mức doanh số quy định). Tuy nhiên,
quyền sở hữu hàng hóa chuyển giao hoàn toàn cho nhà phân
phối và DN chỉ chấp thuận nhận lại hàng kèm theo một số điều
kiện nhất định. Trong trường hợp đó, khoản chiết khấu cho nhà
phân phối có khả năng không được khấu trừ toàn bộ như hoa
hồng cho đại lý bán đúng giá, vì không đáp ứng toàn bộ các yêu
cầu nêu trên của Luật Thương mại.
Tuy nhiên, DN vẫn có thể áp dụng một phương pháp khác, đó là
giảm trừ doanh thu đối với chiết khấu thương mại. Theo Công

văn 3997/TCT-CS ngày 27/09/2007 và Công văn 1644/TCT-CS
ngày 25/04/2008 của Tổng cục Thuế thì chiết khấu thương mại
do nhà phân phối đạt tổng doanh số mua nhất định theo quy chế
nội bộ của công ty sẽ được ghi giảm giá trên hóa đơn bán hàng
khi phát sinh khoản chiết khấu và khoản chiết khấu này được
xem là giảm trừ doanh thu không hạch toán vào chi phí.

Tóm lại, DN có hai lựa chọn trong việc hạch toán hoa hồng cho
nhà phân phối tùy vào đặc thù kinh doanh và thỏa thuận giữa DN
và các đại lý bán đúng giá hưởng hoa hồng để được khấu trừ
100%, hoặc thực hiện chiết khấu thương mại theo doanh số để
được giảm trừ doanh thu. Cho dù lựa chọn cách nào thì DN cũng
phải đảm bảo tính đầy đủ của hóa đơn chứng từ và phương pháp
hạch toán kế toán phù hợp.
2. Chi phí trưng bày
Hiện nay, chúng tôi chưa thấy có hướng dẫn cụ thể về loại chi phí
trưng bày được khấu trừ 100%. Đó là cơ hội và đồng thời là thử
thách cho DN.
Chi phí trưng bày DN phát sinh rất đa dạng, từ việc thuê kệ trong
các siêu thị, cửa hàng của nhà phân phối lớn đến các cửa hàng
nhỏ lẻ khắp mọi miền Việt Nam, từ bệnh viện cho đến phòng
khám tư nhân, từ nhà hàng sang trọng đến các quán ăn lề
đường, tùy đặc tính sản phẩm và thị trường tiêu thụ. Việc trưng
bày có thể để giới thiệu sản phẩm đến người tiêu dùng, có thể để
bán hàng, hoặc có thể cho cả hai mục đích này. Vậy thì nhóm
nào sẽ được khấu trừ 100%? Đây là câu hỏi còn đang bỏ ngỏ, đa
số DN sẽ chấp nhận rủi ro và ghi nhận toàn bộ khoản chi phí trên
vào nhóm chi phí trưng bày nói chung, trong khi chờ hướng dẫn
cụ thể từ Bộ Tài chính hoặc Tổng cục Thuế.
Dù cho toàn bộ chi phí trưng bày nêu trên được khấu trừ thì vẫn

còn một vấn đề khác phát sinh, đó là hóa đơn chứng từ liên quan.
Không kể các siêu thị, nhà hàng, cửa hàng lớn khi mà việc thực
hiện ký hợp đồng và xuất hóa đơn không phải là mối bận tâm,
các DN khi chi trả phí trưng bày cho các cửa hàng nhỏ lẻ, phòng
khám tư nhân đang phải đối mặt với thử thách rất lớn vì đa phần
sẽ không có hóa đơn, chứng từ, hoặc nếu có thì chỉ là biên bản
ký giữa hai bên và chứng từ chi tiền có chữ ký của bên nhận tiền.
Hình thức chứng từ như vậy có đáp ứng quy định pháp lý để
được khấu trừ chi phí thuế thu nhập DN? Đây cũng là một vấn đề
nữa cần hướng dẫn cụ thể từ cơ quan thuế. Do đặc thù thị
trường Việt Nam vẫn còn phổ biến loại hình kinh doanh nhỏ lẻ,
chúng tôi cho rằng, cơ quan thuế nên sớm có hướng dẫn cụ thể
hơn về những loại chi phí và tiêu chuẩn về hóa đơn, chứng từ
hợp lý, hợp lệ cho loại hình kinh doanh này nhằm hỗ trợ hoạt
động của DN và tăng thu nhập cho các cá nhân, hộ gia đình kinh
doanh nhỏ lẻ.
Hiện nay, một số DN bắt đầu có xu hướng ký hợp đồng trọn gói
với nhà phân phối, trên cơ sở đó nhà phân phối hoàn tất phần
trưng bày sản phẩm ở các kênh phân phối bao gồm cả các cửa
hàng nhỏ lẻ, chi phí trưng bày sẽ được nhà phân phối xuất hóa
đơn về cho DN. Thiết nghĩ, đây cũng là một trong những cách
khá hiệu quả giúp DN được khấu trừ chi phí trưng bày mà không
phải đối mặt với rủi ro do không đáp ứng yêu cầu về hóa đơn hợp
lệ. Tuy nhiên, rủi ro đó lại được chuyển qua cho nhà phân phối.
3. Chi phí giới thiệu sản phẩm
Tương tự như chi phí trưng bày, hiện nay chưa có hướng dẫn cụ
thể cho việc hạch toán và loại chi phí giới thiệu sản phẩm được
khấu trừ thuế.
hóm chi phí này khá đa dạng, có thể kể tên một số loại điển hình
như sau: mẫu sản phẩm mới phát cho người tiêu dùng sử dụng

thử bên ngoài các cao ốc, siêu thị, khu vui chơi , mẫu sản phẩm
mới đính kèm sản phẩm hiện có, chi phí liên quan đến thúc đẩy
việc tiêu thụ sản phẩm mới, chẳng hạn: mua một sản phẩm mới
tặng kèm một sản phẩm đang tiêu thụ, chi phí cho các nhân viên
giới thiệu sản phẩm, phát tặng sản phẩm, chi phí tổ chức trò chơi
để giới thiệu sản phẩm, chi phí quà tặng bốc thăm trúng thưởng
hoặc tham gia gian hàng trò chơi, chi phí thuê địa điểm tổ chức
giới thiệu sản phẩm, chi phí quảng cáo giới thiệu sản phẩm mới,
chi phí hội thảo giới thiệu sản phẩm mới
Các loại chi phí nêu trên ít gặp rủi ro về việc thiếu hóa đơn chứng
từ hợp lệ, vì hầu hết đều có hợp đồng, hóa đơn liên quan, rủi ro
lớn nhất là thiếu văn bản hướng dẫn cụ thể.cách thức hạch toán
và ghi nhận hay loại chi phí nào sẽ được khấu trừ toàn bộ. Vì
vậy, các DN có thể xem xét thực tiễn hoạt động kinh doanh của
mình để quyết định việc bao hàm nhóm này vào chi phí khống
chế hay chi phí được khấu trừ toàn bộ.
Hiện nay, vấn đề gây tranh cãi nhiều nhất là chi phí liên quan đến
nhân viên giới thiệu sản phẩm. Cụ thể, các nhân viên giới thiệu
sản phẩm có thể là nhân viên làm việc bán thời gian ký hợp đồng
trực tiếp với DN, hoặc nhân viên do bên thứ ba cung ứng. Các
nhân viên này hỗ trợ việc tiêu thụ sản phẩm, tùy trường hợp mà
có thể bao hàm cả sản phẩm mới và sản phẩm hiện đang tiêu thụ
trên thị trường. Thông tư 130 chỉ quy định “chi phí giới thiệu sản
phẩm” mà không nói rõ là giới thiệu “sản phẩm mới” hay “tất cả
các nhóm sản phẩm”, vậy về nguyên tắc chi phí “giới thiệu sản
phẩm” được khấu trừ 100% có thể bao gồm cả hai nhóm. Nói
cách khác, chi phí nhân viên giới thiệu sản phẩm có một cơ hội
nhất định để được khấu trừ 100%. Tuy nhiên, trong thực tế, đây
là nhóm chi phí thường bị các cơ quan thuế đưa vào nhóm khống
chế, do việc thể hiện nội dung công việc của các nhân viên giới

thiệu sản phẩm trong hợp đồng và trong việc phân định công việc
của họ không rõ ràng.
Như chúng tôi đã khẳng định ở phần giới thiệu bài viết này, hoạt
động quảng cáo, khuyến mại có vai trò ngày càng quan trong
trong hoạt động kinh doanh của DN, là công cụ giúp DN tới gần
người tiêu dùng và giúp người tiêu dùng hiểu biết hơn về sản
phẩm của DN. Tuy nhiên, làm sao để hạch toán các chi phí liên
quan đến các hoạt động đúng quy định của Nhà nước và đảm
bảo quyền lợi của DN đang là vấn đề cần sự quan tâm của các
cơ quan quản lý bằng việc ban hành những quy định và hướng
dẫn cụ thể hơn.
i


i

×