Tải bản đầy đủ (.doc) (124 trang)

100 đề và bài làm ngữ văn hay lớp 9

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (831.45 KB, 124 trang )

100 đề và bài ngữ văn lớp 9
đề số 1
Theo em, Phong cách Hồ Chí Minh có phải là một văn bản thuyết minh không ? Vì sao ?
Dàn ý
I. Mở bài
- Phong cách Hồ Chí Minh vận dụng kết hợp nhiều phơng thức biểu đạt, trong đó thuyết minh
là phơng thức biểu đạt chính.
- Bài viết giúp ngời đọc hiểu đợc phong cách Hồ Chí Minh là sự kết hợp hài hoà giữa truyền
thống và hiện đại, dân tộc và nhân loại, thanh cao và giản dị.
II. Thân bài
Tính chất thuyết minh của Phong cách Hồ Chí Minh thể hiện ở những khía cạnh sau :
1. Đối tợng thuyết minh của bài là một vấn đề trừu tợng: phong cách của Bác Hồ. Vẻ đẹp trong
phong cách của Bác đợc trình bày rõ trên hai phơng diện cơ bản :
a) Bác luôn tiếp thu có chọn lọc tinh hoa văn hoá nhân loại để tạo nên một nhân cách, một lối
sống rất Việt Nam, rất phơng Đông nhng cũng rất mới, rất hiện đại.
b) Bác có lối sống vô cùng giản dị nhng lại rất thanh cao, tiêu biểu cho nét đẹp trong lối sống
của dân tộc Việt Nam.
2. Phong cách Hồ Chí Minh đợc trình bày, giới thiệu một cách chính xác, khách quan bằng
những dẫn chứng, t liệu cụ thể, xác thực, không phải do h cấu, do tởng tợng mà ra.
3. Bài viết đã sử dụng các phơng pháp của văn bản thuyết minh nh : phơng pháp phân loại, phân
tích (các khía cạnh, các phơng diện, các biểu hiện của vẻ đẹp trong phong cách Hồ Chí Minh về văn
hoá, lối sống ); phơng pháp liệt kê (những nơi Bác đã qua nh châu Phi, châu á, châu Mĩ, châu Âu;
những ngoại ngữ mà Ngời thành thạo (tiếng Pháp, Anh, Hoa, Nga ); phơng pháp so sánh (lối sống
giảng dị của Bác với các vị hiền triết Nguyễn Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm)
4. Bài viết có sử dụng các yếu tố nghệ thuật nh kể chuyện, bình luận, nghệ thuật đối lập, văn
viết có cảm xúc, nhng tất cả những yếu tố này chỉ có vai trò phụ trợ. Nội dung giá trị cơ bản của văn
bản này vẫn là những tri thức xác thực, khách quan về phong cách Hồ Chí Minh.
III. Kết bài
- Phong cách Hồ Chí Minh là một văn bản nhật dụng, thuyết minh là một trong những phơng
thức biểu đạt chính.
- Bài viết đã giúp ngời đọc hiểu đợc vẻ đẹp phong cách Bác Hồ là sự kết hợp hài hoà giữa bản


sắc văn hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại, là sự giản dị một cách thanh cao.
- Bài viết làm cho chúng ta thêm tự hào, kính yêu Bác, khơi gợi ở chúng ta ý nguyện học tập, tu
dỡng, rèn luyện theo gơng của Bác.
đề số 2
Dựa vào văn bản Phong cách Hồ Chí Minh, kênh hình trang 6 (Ngữ văn 9 - Tập I) và những
hiểu biết của em, em hãy viết một văn bản thuyết minh có sử dụng các biện pháp nghệ thuật để giới
thiệu về nơi ở và làm việc của Bác tại phủ Chủ tịch.
I. Tìm hiểu đề
- Kiểu bài : Thuyết minh có sử dụng các biện pháp nghệ thuật.
- Yêu cầu : Thuyết minh, miêu tả, giới thiệu nơi ở và làm việc của Bác, chủ yếu là ngôi nhà sàn
nơi Bác ở.
II. Dàn ý
A. Mở bài
- Nếu có dịp đợc đến Hà Nội, vào lăng viếng Bác, bạn hãy đừng quên viếng thăm ngôi nhà sàn
đơn sơ nhỏ bé, nơi vị lãnh tụ kính yêu của chúng ta, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng sống và làm việc
nhiều năm ở đó.
- Đến đây, bạn sẽ thêm hiểu, thêm tự hào và kính yêu một con ngời vĩ đại mà vô cùng bình dị đã
đi vào lịch sử dân tộc Việt Nam nh một huyền thoại.
B. Thân bài
- 1 -
1. Địa điểm, không gian: Nơi ở và làm việc của Bác nằm giữa một khuôn viên yên tĩnh thơm
ngát hơng hoa.
a) Trớc nhà Bác ở là một cái hồ thả cá. Một hàng rào râm bụt chạy quanh trớc ngõ nh ở quê nhà
Nghệ An của Bác. Bác sống hoà mình với thiên nhiên, với đất trời, với quê hơng.
b) Xung quanh nhà Bác trồng rất nhiều loài cây và hoa. Hoa cam, hoa bởi tháng ba thơm ngào
ngạt; hàng dừa xoè bóng mát trên những lối đi; cây vú sữa, quà của đồng bào miền Nam tặng Bác đ-
ợc trồng ở hiên sau nhà; góc vờn trớc nhà, bốn mùa rau nối nhau tơi tốt.
2. Hình dáng ngôi nhà : Nơi Bác ở và làm việc là một ngôi nhà gác nhỏ đợc thiết kế nh kiểu nhà
sàn của đồng bào Việt Bắc. Nhà làm bằng gỗ, mái lợp ngói, bốn bề lộng gió.
3. Diện tích sử dụng : Khoảng hơn 70 m

2
. Ngôi nhà sàn đó chỉ có vẻn vẹn vài phòng để tiếp
khách, họp Bộ Chính trị, làm việc và ngủ.
4. Đồ đạc trong nhà hết sức mộc mạc, đơn sơ :
a) Phòng họp, phòng tiếp khách chỉ có một bộ bàn ghế, lọ hoa, bộ ấm chén uống nớc.
b) Phòng làm việc có một bộ bàn ghế nhỏ, một chiếc máy chữ, một chiếc đài phát thanh Liên
Xô cũ để Bác nghe tin tức, đặc biệt tin từ miền Nam và giúp Bác đỡ cảm thấy cô quạnh trong đêm
vắng
c) Đến thăm phòng ngủ của Bác càng thơng Bác hơn: chiếc giờng nhỏ bằng gỗ thờng, mộc mạc
không mùi sơn, trên trải chiếu cói, một chiếc gối vải đã sờn cũ. Trên gối, chiếc quạt nan nằm lặng
lẽ. Chiếc quạt nan này đã từng thức cùng vị Chủ tịch trong bao đêm hè oi ả, lòng nặng những lo toan
việc nớc. Góc phòng, bộ quần áo kaki bạc màu giản dị đợc treo gọn gàng trên móc áo. Trên ngực áo
không có một tấm huân chơng, nhng bên trong lần áo vải là một trái tim nóng bỏng, sáng ngời. Dới
chân giờng, đôi dép cao su mòn gót xếp ngay ngắn. Đôi dép ấy đã từng theo chân Bác đi suốt ngàn
dặm đờng đất nớc.
5. Bác sống ở đó, một mình, với một t trang ít ỏi, một chiếc vali con với vài vật kỉ niệm của một
cuộc đời dài, rộng và bất tử.
C. Kết bài
- Nơi ở của Bác, vị lãnh đạo cao nhất của Đảng và Nhà nớc, đơn sơ, giản dị nh câu chuyện về
một vị thần tiên trong thần thoại, cổ tích.
- Nơi ở của Ngời là do chính Ngời lựa chọn, sự lựa chọn ấy giúp chúng ta hiểu thêm phong cách
Hồ Chí Minh, tinh hoa của dân tộc Việt Nam.
đề số 3
Em hãy đóng vai là những đồ dùng cá nhân của Bác tự giới thiệu về mình.
Bài làm
Bác Hồ đã yên nghỉ, nhng ngày ngày, dòng ngời vào lăng viếng Bác vẫn nối dài từ sáng đến
chiều. Đến thăm nhà Bác ở, ngời ta trầm ngâm trớc từng di vật đơn sơ, mộc mạc đã gắn bó với Bác
trong suốt cả cuộc đời. Dờng nh đoán biết đợc ý nghĩ, lòng mong muốn của đồng bào, du khách,
những đồ vật đã cất lên tiếng nói tự giới thiệu về mình để du khách hiểu thêm về Bác. Chúng ta hãy
cùng nghe họ tự thuật nhé.

- Chúng tôi là những đồ dùng cá nhân của Bác Hồ. Chúng tôi đợc sống bên Bác, đợc phục vụ,
chăm sóc Bác và đợc Bác yêu mến nâng niu nh những đứa cháu nhỏ. Chúng tôi gồm : quần áo, giày
dép, mũ nón Chúng tôi sống rất hoà thuận, luôn bên nhau và luôn bên Bác.
Tôi thuộc dòng họ Quần áo. Họ hàng nhà chúng tôi có hai loại vải đợc Bác thờng dùng là vải
ka ki màu trắng đục và vải lụa màu nâu. áo ka ki cúc cài kín cổ, vạt buông, có bốn túi lớn, hai túi
trên ngực và hai túi ở hai vạt trớc. Anh chàng này thờng đợc Bác mặc khi đi công tác ở nớc ngoài,
khi ngoại giao, tiếp khách, hoặc khi Bác đi dự những hội nghị, hội thảo quan trọng trong nớc và
quốc tế Còn tôi, quần áo vải nâu, đợc may rộng nh kiểu quần áo của bà con nông dân. Tôi đợc
chăm sóc Bác thờng xuyên hơn, đợc Bác mặc khi đi thăm đồng ruộng, gặp gỡ bà con nông dân, các
bạn thiếu niên nhi đồng, lúc ở nhà, khi làm việc trong phòng riêng, lúc tới cây Bác thơng yêu,
nâng niu, đối xử với chúng tôi bằng tất cả tấm lòng của một Con Ngời. Có khi chúng tôi bị sờn rách,
các cô chú phục vụ định thay áo mới cho Bác, Bác biết, Bác không chịu, Bác nói vải hãy còn mới
hãy may vá lại cho Bác mặc. Chúng tôi cảm động đến nghẹn ngào trớc tấm lòng và phong cách sống
vô cùng giản dị của một vị lãnh tụ.
- 2 -
Tôi thuộc họ giày dép. Cùng với quần áo, tôi cũng rất vinh dự vì luôn đợc đi theo Bác. Tôi đợc
làm bằng chất liệu cao su, màu đen, có 4 quai, hai quai chéo ở phía trên và hai quai ngang ở phía d-
ới. Họ hàng chúng tôi, hàng vạn hàng triệu đôi dép nh thế đã từng theo bớc những chiến sĩ, thanh
niên xung phong chống Pháp rồi chống Mĩ trên khắp các chiến trờng Nam Bắc. Riêng tôi sung sớng
hơn là đợc ở bên Bác, phục vụ, chăm sóc Bác, đợc theo Bác đi trên mọi nẻo đờng.
Còn tôi là mũ lá. Chúng tôi tuy Bác dùng ít hơn, nhng cũng là nhiều lắm đối với những ai
không đợc ở bên Bác. Họ hàng nhà mũ chúng tôi cũng có hai loại: mũ cốt vải và mũ lá. Mũ cốt vải
làm bằng vải kaki màu xanh hoặc màu trắng đục. Anh chàng này thờng đợc Bác đội khi đi chiến
dịch, khi thăm hỏi đồng bào, chiến sĩ Còn tôi, mũ lá đợc làm bằng lá cọ, lá nón. Tôi đợc Bác dùng
khi đi xuống nhà máy, công xởng, khi ra đồng cùng với bà con nông dân gặt lúa, tát nớc chống hạn
hoặc xuống biển với ng dân kéo lới
Tôi nữa, tôi là khăn len. Tuy tôi chỉ đợc theo Bác vào mùa đông nhng cũng đợc Bác nâng niu,
yêu mến lắm. Tôi đợc dệt bằng sợi len, rộng chừng 30 cm, dài chừng 1,2m, hai đầu khăn thắt tua rua
bay nhè nhẹ mỗi khi gió thổi. Nếu trời không giá rét quá, tôi đợc Bác quàng quanh cổ Bác. Trời
lạnh, tôi đợc Bác choàng lên đầu. Tôi rất sung sớng vì đợc giúp ích cho Bác.

Chúng tôi là những đồ vật rất bình thờng, mộc mạc, đơn sơ, giản dị, nhng Bác đã chọn chúng
tôi. Không những thế, Bác còn yêu thơng, gìn giữ, nâng niu chúng tôi. Điều đó làm chúng tôi vô
cùng sung sớng và hạnh phúc. Vì vậy, chúng tôi sống bên Bác, đem hơi ấm cho Ngời, bảo vệ Ngời
khỏi những cơn thất thờng của thời tiết, làm mềm sỏi đá dới những nẻo đờng bàn chân Ngời đi qua.
Chúng tôi tuy nhỏ bé nhng chúng tôi tự hào vì đã giúp ích cho Bác, góp phần làm nên một phong
cách Hồ Chí Minh.
Khi vào thăm nhà Bác, đứng nhìn chúng tôi, nhiều ngời đã khóc. Chắc họ đang nghĩ đến Bác và
cảm động trớc tấm lòng bao la rộng lớn, lối sống giản dị thanh cao của Ngời.
đề số 4
Em hãy viết một bài văn giới thiệu phong cách Hồ Chí Minh dới dạng cuộc đối thoại giữa một
bạn học sinh trong nớc và một bạn học sinh Việt kiều đang chuẩn bị vào lăng viếng Bác.
Bài làm
Tại khuôn viên trớc lăng Bác, có hai bạn học sinh, một bạn là Việt kiều mới về thăm quê vào
lăng viếng Bác. Họ gặp nhau, làm quen với nhau và sau đây là câu chuyện thú vị giữa họ.
- Xin chào bạn !
- Chào bạn !
- Mình tên là H. , rất vui đợc làm quen với bạn.
- Mình tên là M. , rất vui đợc làm quen với bạn.
- Mình xa Việt Nam từ năm 2 tuổi, nay mới có dịp về thăm quê, đợc vào lăng viếng Bác. Mình
rất muốn đợc hiểu thêm về Bác, về phong cách của Bác. M. có vui lòng làm hớng dẫn viên cho mình
không?
- Mình rất sẵn lòng.
- Mình đợc biết, Hồ Chí Minh là một trong những nhân vật tiêu biểu nhất của thế kỉ XX. Vậy
bạn có thể nói rõ thêm cho mình biết về tầm vóc văn hoá của Bác đợc không ?
- Bác Hồ không những là một vị lãnh tụ thiên tài, nhà yêu nớc, nhà cách mạng vĩ đại của dân
tộc Việt Nam mà còn là một nhà văn hoá lớn của thế giới thế kỉ XX. Hiếm có vĩ nhân nào trên thế
giới đã hội tụ đợc danh hiệu Anh hùng dân tộc và Danh nhân văn hoá thế giới nh UNESCO đã
phong tặng Ngời. Phong cách của Bác là sự kết hợp hài hoà giữa truyền thống và hiện đại; giữa dân
tộc và nhân loại; uyên thâm nhng lại rất Việt Nam; vĩ đại, thanh cao nhng vô cùng giản dị. Vẻ đẹp
văn hoá chính là nét nổi bật trong phong cách Hồ Chí Minh.

- Bạn nói, Bác Hồ là một danh nhân văn hoá thế giới, uyên thâm nhng lại rất Việt Nam nghĩa là
thế nào ? Vốn tri thức văn hoá sâu rộng của Bác đã đợc hình thành ra sao ?
- Trong cuộc đời yêu nớc và hoạt động cách mạng của mình, Bác đã đi rất nhiều nơi, có dịp tiếp
xúc với văn hoá nhiều nớc, nhiều vùng trên thế giới, cả ở phơng Đông và phơng Tây. Bôn ba khắp
năm châu bốn biển để tìm đờng cứu nớc, trên những con tàu vợt trùng dơng, Ngời đã ghé lại nhiều
hải cảng, đã thăm các nớc châu Phi, châu á, châu Mĩ. Năm 1911, Ngời đến Pháp, năm 1912 - 1913
Ngời sống ở Mĩ, từ 1913 - 1917 ở Anh và sau đó Ngời lại trở lại Pháp. Đến đâu, Ngời cũng ham mê
tìm hiểu, học hỏi.
Để tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại, con đờng quan trọng đầu tiên là phải thông thạo ngoại
ngữ. Ngời biết rất nhiều ngoại ngữ, nói và viết thạo nhiều thứ tiếng nh tiếng Pháp, Anh, Hoa, Nga
- 3 -
Ngời viết báo bằng tiếng Pháp, tiếng Trung, sáng tác truyện ngắn bằng tiếng Pháp, sáng tác thơ bằng
tiếng Hán. Các tác phẩm nổi tiếng của Ngời nh: Bản án chế độ thực dân Pháp - tác phẩm chính
luận, các truyện ngắn Vi hành, Lời than vãn của Bà Trng Trắc, Những trò lố hay là Varen và Phan
Bội Châu, tập thơ Nhật kí trong tù không chỉ có ý nghĩa chính trị, thời sự mà còn giàu giá trị nghệ
thuật, có sức sống lâu bền trong lòng ngời đọc.
Trong cuộc đời cách mạng đầy gian nan vất vả, Ngời đã từng phải làm nhiều nghề để sống và
hoạt động cách mạng nh bồi bàn, đầu bếp, viết sách báo Nhng cũng chính qua công việc, qua lao
động, Ngời đã tìm hiểu, học hỏi đợc rất nhiều điều bổ ích cho công tác cách mạng cũng nh để hình
thành nên phong cách Hồ Chí Minh.
- Vậy phong cách Hồ Chí Minh có phải là sự tổng cộng giản đơn tinh hoa của các nền văn hoá
thế giới không ? Bác đã tiếp thu các nền văn hoá nhân loại nh thế nào ?
- ồ, câu hỏi của bạn thật là thú vị ! Có thể nói, ít có vị lãnh tụ nào lại am hiểu về các dân tộc
và nhân dân thế giới, văn hoá thế giới sâu sắc nh Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đến đâu Ngời cũng học
hỏi, tìm hiểu văn hoá, nghệ thuật đến mức khá uyên thâm. Nhng điều quan trọng là Ngời không chịu
ảnh hởng thụ động mà tiếp thu một cách có chọn lọc tinh hoa văn hoá nớc ngoài. Một mặt, Ngời
chịu ảnh hởng của tất cả các nền văn hoá, tiếp thu mọi cái đẹp, cái hay; mặt khác, Ngời cũng phê
phán những hạn chế, tiêu cực. Những ảnh hởng của văn hoá quốc tế đó đã nhào nặn với cái gốc văn
hoá dân tộc không gì lay chuyển đợc ở Ngời, để trở thành một nhân cách rất Việt Nam.
- Thật là kì diệu, một con ngời kì diệu ! Vậy còn lối sống, Bác sống, sinh hoạt ra sao ?

- Là một lãnh tụ có cơng vị cao nhất của Đảng và Nhà nớc nhng Bác có một lối sống vô cùng
bình dị, rất Việt Nam, rất phơng Đông.
Nơi ở và làm việc của Ngời hết sức đơn sơ. Lần đầu tiên trong lịch sử Việt Nam và có lẽ cả thế
giới, có một vị Chủ tịch nớc lấy chiếc nhà sàn bằng gỗ bên cạnh chiếc ao nh cảnh làng quê quen
thuộc làm ''cung điện" của mình. Chiếc nhà sàn đó chỉ vẻn vẹn có vài phòng. Đó cũng là nơi tiếp
khách, họp Bộ Chính trị, đồng thời là nơi Bác làm việc và nhỉ ngơi.
T trang của Bác hết sức giản dị, ít ỏi : bộ quần áo bà ba nâu, chiếc áo trấn thủ, đôi dép lốp thô sơ
đã đợc một tác giả phơng Tây ca ngợi nh một vật thần kì, một chiếc vali con đựng vài bộ quần áo
Việc ăn uống của Ngời cũng rất đạm bạc. Những món ăn dân tộc không chút cầu kì nh cá kho,
rau luộc, da ghém, cà muối, cháo hoa là thức Bác a thích.
Ngời sống trong ngôi nhà đơn sơ ấy, một mình, với một vài t trang ít ỏi, vài vật kỉ niệm nhỏ nhoi
của một cuộc đời dài, đầy truân chuyên và giông bão cách mạng. Có lẽ, hiếm có một vị lãnh tụ, một
vị tổng thống hay một vị vua hiền ngày trớc lại sống đến mức giản dị nh Bác.
- Liệu lối sống giản dị quá nh vậy có làm giảm vị thế
- à, mình hiểu ý bạn. Lối sống của Bác giản dị nhng lại vô cùng thanh cao, sang trọng. Đây
không phải là lối sống khắc khổ của những con ngời tự vui trong cảnh nghèo khó, cũng không phải là
cách tự thần thánh hoá, tự làm cho khác đời, cho hơn ngời mà là một quan niệm sống đẹp có cội rễ từ
các nhà hiền triết phơng Đông xa : cái đẹp là sự giản dị, tự nhiên.
Cách sống của Bác gợi ta nhớ đến các sống của các vị hiền triết trong lịch sử dân tộc nh Nguyễn
Trãi, Nguyễn Bỉnh Khiêm. Họ sống ở quê nhà với những thú quê đạm bạc :
Thu ăn măng trúc, đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen, hạ tắm ao
Lối sống thanh cao đó cũng là một cách di dỡng tinh thần có khả năng đem lại hạnh phúc, sự
bình yên cho tâm hồn và thể xác con ngời.
Nói nh một chính khách Pháp, "Hồ Chí Minh là ngời mang tính cách á Đông nhất, nhng cũng
là ngời cởi mở nhất với t tởng phơng Tây". Cốt lõi của phong cách Hồ Chí Minh là sự kết tinh văn
hoá dân tộc và tinh hoa văn hoá nhân loại. Từ những năm 1923, khi gặp Ngời ở Maxcơva, nhà thơ
Xô viết Ôxíp Mandenstam đã dự cảm : " Từ Nguyễn ái Quốc đã toả ra một thứ văn hoá, không
phải là văn hoá châu Âu, mà có lẽ là nền văn hoá của tơng lai". Năm 1990, UNESCO tổ chức lễ kỉ
niệm 100 năm ngày sinh của Bác. Trong bài phát biểu của Tiến sĩ M. Amed, giám đốc UNESCO

khu vực châu á - Thái Bình Dơng có đoạn : "Hồ Chí Minh đã thành công trong việc liên kết nhiều
sắc thái văn hoá vào một nền văn hoá Việt Nam duy nhất. Ngời đã làm đợc việc này nhờ sự hiểu biết
sâu sắc và tôn trọng những đặc điểm văn hoá khác nhau Cuộc đời của Ngời mang những ảnh hởng
và giá trị truyền thống dân tộc, có những đóng góp vào việc tạo nên một nền văn hoá hiện đại"
Tóm lại, chúng ta tự hào vì có Bác
- 4 -
-
- Bạn làm sao thế, bạn không đợc khoẻ phải không ? Bạn có cần tôi giúp gì không ?
- Không mình không sao, mình khoẻ Mình đang nghĩ, mình đã đợc gặp một Ông Tiên. Một
Ông Tiên ngoài đời thật chứ không phải trong truyện cổ tích. Ông Tiên ấy đang ở gần đây, bên cạnh
chúng mình. Mình thật sung sớng và cảm động. Cảm ơn bạn, ngời đồng hành đầy hiểu biết. Bây giờ
chúng mình hãy xếp hàng vào lăng viếng Bác nhé. Mai đây, hễ có dịp, mình sẽ lại xin bố mẹ về thăm
quê, vào lăng viếng Bác. Chúng mình sẽ còn gặp lại nhau chứ ?
- Nhất định là nh vậy rồi. Nào, chúng mình cùng đi gặp Tiên Ông thôi !
đề số 5
Em hãy tóm tắt những luận điểm, luận cứ chính của văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà
bình.
Bài làm
1. Luận điểm chính : Chiến tranh hạt nhân là một hiểm hoạ khủng khiếp đang đe doạ loài ngời và
sự sống trên trái đất, vì vậy nhiệm vụ cấp bách của toàn thể nhân loại là đoàn kết đấu tranh để loại bỏ
nguy cơ ấy.
2. Hệ thống luận cứ :
- Kho vũ khí hạt nhân đang tàng trữ có khả năng huỷ diệt, xoá bỏ mọi dấu vết của sự sống trên
trái đất và các hành tinh khác trong hệ mặt trời.
- Cuộc chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém đã làm mất đi cơ hội cải thiện đời sống cho hàng tỉ ng-
ời nghèo khổ nhất trên thế giới. Những con số cụ thể, những ví dụ so sánh trong các lĩnh vực xã hội, y
tế, tiếp tế thực phẩm, giáo dục với những chi phí khổng lồ cho chạy đua vũ trang đã cho thấy tính
chất cực kì phi lí của việc chạy đua vũ trang.
- Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngợc lại lí trí của loài ngời mà mà còn đi ngợc lại với quy
luật của tự nhiên, phản lại sự tiến hoá.

- Vì vậy, tất cả chúng ta phải có nhiệm vụ ngăn chặn cuộc chiến tranh hạt nhân, đấu tranh cho
một thế giới hoà bình, vì một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi ngời.
đề số 6
Dựa vào văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình, em hãy viết một văn bản thuyết minh về
nguy cơ chiến tranh hạt nhân (có sử dụng yếu tố miêu tả và các biện pháp nghệ thuật).
Bài làm
Chiến tranh và hoà bình luôn là mối quan tâm hàng đầu của toàn nhân loại bởi nó liên quan đến
cuộc sống, sinh mệnh của hàng triệu con ngời và sự còn mất của mỗi quốc gia. Lịch sử loài ngời gắn
liền với nhiều cuộc chiến tranh tàn khốc khiến nhân loại bao phen rơi vào cảnh máu chảy đầu rơi, nồi
da nấu thịt. Nguy cơ chiến tranh luôn đe doạ sự sống trên khắp hành tinh. Đặc biệt, ngày nay, sự phát
triển mạnh mẽ của vũ khí hạt nhân đã trở thành mối hiểm hoạ khủng khiếp nhất đe doạ toàn bộ sự
sống, loài ngời trên trái đất.
Trong thế kỉ XX, nhân loại đã phải trải qua hai cuộc chiến tranh thế giới vô cùng khốc liệt và
nhiều cuộc chiến tranh dân tộc, sắc tộc khác, làm thiệt mạng hàng trăm triệu ngời, làm bánh xe lịch
sử quay chậm lại hàng trăm năm. Chiến tranh thế giới thứ hai đã kết thúc cách đây sáu mơi năm,
nhng nguy cơ chiến tranh vẫn luôn tiềm ẩn. Đặc biệt, đó cũng là thời điểm đánh dấu sự ra đời của
ngành công nghiệp hạt nhân mà sự tiến bộ ghê gớm của nó đã có tầm quan trọng quyết định đối với
vận mệnh thế giới sau này. Năm 1945 ấy, cũng là năm Mĩ đã ném xuống Nhật Bản hai quả bom
nguyên tử làm hơn 40 vạn ngời chết, biến hai thành phố đông dân Hi-rô-xi-ma và Na-ga-da-ki thành
đống đổ nát, gây kinh hoàng cho toàn thế giới.
Kể từ đó, cuộc chạy đua vũ trang, cuộc chiến tranh hạt nhân chính thức bắt đầu, loài ngời hằng
ngày luôn bị đặt trớc nguy cơ tuyệt diệt.
Chỉ cần một vài ví dụ và làm một phép tính đơn giản nh nhà văn Cô-lôm-bi-a, Gác-xi-a Mac-
két, chúng ta đã có thể hình dung loài ngời đang ở trên bờ vực thẳm nh thế nào. Theo Mac-két, tính
đến ngày 8/8/1986, hơn 50.000 đầu đạn hạt nhân đã đợc bố trí khắp hành tinh. Nói một cách nôm
na, điều đó có nghĩa là tất cả mọi ngời trên trái đất, không trừ ngời già, trẻ con, mỗi ngời đang ngồi
trên một thùng 4 tấn thuốc nổ. Chỉ cần bấm một cái nút, tất cả khối thuốc nổ đó nổ tung lên, làm
tiêu biến hết thảy không phải một lần mà là mời hai lần mọi dấu vết của sự sống trên trái đất, tiêu
- 5 -
diệt tất cả các hành tinh đang xoay quanh mặt trời và bốn hành tinh khác nữa, phá huỷ thế thăng

bằng của hệ mặt trời.
Sự sống đợc nhen nhóm và tồn tại trên trái đất này không hề dễ dàng. Cũng theo G. Mac-két,
cha nói những gì to lớn, chỉ lấy những sự vật, sự việc nhỏ bé làm bằng chứng, chúng ta đã thấy rất
rõ. Từ khi có sự sống trên Trái Đất, phải trải qua 380 triệu năm con bớm mới bay đợc, 180 năm nữa
hoa hồng mới nở chỉ để làm đẹp cho đời. Theo nhà văn Nguyễn Tuân, một giọt mật mà con ong làm
ra là kết quả của 2.700.000 chuyến bay đi tìm hoa hút mật, một nửa lít mật ong là kết qủa của dặm
đờng lao động miệt mài 8.000.000 cây số mới có đợc Huống hồ những toà nhà chọc trời, những
cánh đồng xanh mát, những cây cầu vững chãi là mồ hôi công sức của hàng triệu ngời Vậy mà,
chỉ trong tích tắc, tất cả những thành tựu khó khăn và nhọc nhằn đó có thể biến thành tro bụi.
Đã có nhiều thảm hoạ hạt nhân nh các vụ nổ nhà máy hạt nhân ở Nga (Trécnôbn), ấn Độ làm
hàng nghìn ngời chết, gây ô nhiễm môi trờng nghiêm trọng. Đáng tiếc là, sau những thảm hoạ ấy,
cuộc chạy đua vũ trang vẫn tiếp tục, các nhà máy sản xuất vũ khí hạt nhân vẫn không ngừng mọc
lên trên thế giới; các loại vũ khí hạt nhân nh tàu ngầm, tên lửa, máy bay tối tân hiện đại vẫn không
ngừng đợc bổ sung Nhân loại vẫn từng ngày từng giờ phải đối mặt với nguy cơ bị huỷ diệt bởi vũ
khí hạt nhân.
Thế giới cũng đã có những cố gắng để giảm bớt mối đe doạ này, chẳng hạn các hiệp ớc cắt giảm
vũ khí tiến công chiến lợc đợc kí kết giữa Liên Xô (nay là Liên bang Nga) với Mĩ. Nhng chiến tranh
và hiểm hoạ hạt nhân vẫn luôn là mối đe doạ to lớn và thờng xuyên đối với các dân tộc, các quốc gia
và toàn thể loài ngời. Xung đột và chiến tranh vẫn diễn ra hàng ngày ở nhiều nơi, nhiều khu vực trên
thế giới, gần đây nhất là cuộc chiến của Mĩ, Anh ở Irắc, cuộc xung đột đẫm máu kéo dài giữa Ixraen
và Palextin, chủ nghĩa khủng bố hoành hành khắp nhiều nơi. Các nhà máy hạt nhân ở ấn Độ,
Pakistan, Iran, Triều Tiên, Trung quốc luôn là nguyên nhân của những cuộc tranh cãi, đàm phán
gay gắt, không kết quả. Vì vậy, nhận thức đúng về nguy cơ chiến tranh và tham gia vào cuộc đấu
tranh cho hoà bình là yêu cầu đặt ra cho mỗi công dân trên hành tinh.
Chúng ta đang sống trong thời đại hoàng kim của khoa học kĩ thuật và công nghệ. Song, chúng
ta cũng đang phải từng giây từng phút đối mặt với chiến tranh hạt nhân có nguy cơ bùng nổ bất cứ
lúc nào. Bởi vậy, con ngời không thể thờ ơ trớc vận mệnh của chính mình và vận mạng của toàn thể
nhân loại. Điều chúng ta có thể làm đợc là, mỗi ngời cần phải ý thức sâu sắc đợc nguy cơ tiềm ẩn
đó, cùng nhau đoàn kết đấu tranh ngăn chặn nó, vì một thế giới hoà bình và hạnh phúc.
đề số 7

Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của con ngời và quy luật của tự nhiên.
I. Tìm hiểu đề
- Đề bài này chỉ có một mệnh đề, không có câu mệnh lệnh, không nêu rõ kiểu đề, yêu cầu thực
hiện. Các em tự phải xác định vấn đề cần bàn và kiểu văn bản thích hợp để làm sáng tỏ vấn đề đó.
- Kiểu đề : Nghị luận kết hợp với thuyết minh.
- Phạm vi kiến thức cần sử dụng : Văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình và những thông
tin xác thực về tác hại của chiến tranh mà em đợc biết.
II. Dàn ý
A. Mở bài
- Chiến tranh đồng nghĩa với đau thơng, chết chóc, đổ máu và huỷ diệt.
- Chạy đua vũ trang là đua nhau tăng cờng vũ khí để chuẩn bị chiến tranh.
- Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của con ngời và tự nhiên.
B. Thân bài
1. Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của con ngời
a) Chi phí cho việc sản xuất vũ khí hạt nhân vô cùng tốn kém, tốn kém đến mức cực kì phi lí.
b) Chi phí tốn kém đó đã làm mất đi khả năng để con ngời đợc sống tốt đẹp hơn.
- Theo Tuyên bố của Hội nghị cấp cao thế giới về trẻ em năm 1990, hằng ngày có vô số trẻ em
khắp nơi trên thế giới phải chịu bao nỗi bất hạnh vì là nạn nhân của chiến tranh và bạo lực; hàng
triệu trẻ em phải chịu đựng những thảm hoạ của đói nghèo, dịch bệnh, mù chữ, môi trờng xuống
cấp. Mỗi ngày có tới 40.000 trẻ em chết do suy dinh dỡng và bệnh tật.
- Năm 1981, UNICEF đã định ra một chơng trình để cứu trợ cấp bách về y tế, tiếp tế thực phẩm
và nớc uống, xoá nạn mù chữ, cải thiện điều kiện vệ sinh cho 500 triệu trẻ em nghèo khổ nhất thế
- 6 -
giới. Để thực hiện đợc chơng trình này phải cần tới 100 tỉ đô la, nhng tất cả đã tỏ ra là một giấc mơ
không thể thực hiện đợc bởi số tiền quá lớn. Trong khi đó, số tiền này chỉ gần bằng chi phí cho 100
máy bay ném bom chiến lợc B.1B của Mĩ và 7.000 tên lửa vợt đại châu.
- Giá của 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để thực hiện một chơng trình phòng
bệnh trong 14 năm cho hơn một tỉ ngời, cứu hơn 14 triệu trẻ em châu Phi thoát khỏi cái chết.
- Chỉ hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá nạn mù chữ cho toàn thế giới, vv
Điều mong muốn lớn nhất của tất thảy con ngời trên trái đất này là sự sống sinh sôi, cuộc đời

của con ngời ngày càng tốt đẹp hơn lên. Nhng, cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân đã đi ngợc lại mong
muốn, khát vọng của con ngời. Cha nói đến việc chiến tranh hạt nhân bùng nổ, chỉ sự tồn tại của vũ
khí hạt nhân không thôi cũng đã gieo vào lòng chúng ta nỗi ám ảnh khủng khiếp về "cái cảnh tận
thế" do những bệ phóng hạt nhân mang lại, khiến chúng ta luôn sống trong nỗi lo lắng, bất an. Chi
phí quá tốn kém cho việc sản xuất vũ khí hạt nhân đã làm mất đi của thế giới nhiều điều kiện để cải
thiện cuộc sống, cớp đi nhiều cơ hội để cứu giúp hàng tỉ ngời, đặc biệt là trẻ em, thoát khỏi nghèo
đói, bệnh tật và chết chóc.
2. Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của tự nhiên
a) Lí trí của tự nhiên có thể hiểu là quy luật của tự nhiên, logíc tất yếu của tự nhiên.
b) Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngợc lại lí trí của con ngời, tiêu diệt loài ngời mà còn phản
lại sự tiến hoá của tự nhiên, huỷ diệt mọi sự sống trên trái đất.
- Sự sống ngày nay trên trái đất là kết quả của một quá trình tiến hoá lâu dài hàng trăm triệu
năm của tự nhiên với biết bao cuộc hoài thai nhọc nhằn, đau đớn. Theo G. Mac-két, cha nói những
gì to lớn, chỉ lấy những sự vật, sự việc nhỏ bé, từ khi có sự sống trên Trái Đất, phải trải qua 380
triệu năm con bớm mới bay đợc, 180 năm nữa hoa hồng mới nở chỉ để làm đẹp cho đời. Theo
Nguyễn Tuân, một giọt mật mà con ong làm ra là kết quả của 2.700.000 chuyến bay đi tìm hoa hút
mật, một nửa lít mật ong là kết qủa của dặm đờng lao động miệt mài 8.000.000 cây số mới có đợc
- Nhng nếu chiến tranh hạt nhân nổ ra, chỉ cần một tích tắc, tất cả những thành tựu khó khăn và
nhọc nhằn đó sẽ bị xoá sạch dấu vết; mọi thành quả của quá trình tiến hoá tự nhiên sẽ trở lại điểm
xuất phát ban đầu hoặc biến thành tro bụi vì những phát minh vĩ đại của chính con ngời. Nh vậy,
chiến tranh hạt nhân chính là sự phản lại quy luật và sự tiến hoá của thế giới tự nhiên. Năm 1945,
Mĩ ném hai quả bom nguyên tử xuống Hi-rô-xi-ma và Na-ga-da-ki thuộc Nhật Bản, biến hai thành
phố đông dân này trở về thời kì hồng hoang là một ví dụ tiêu biểu.
C. Kết bài
- Cuộc chạy đua vũ khí hạt nhân là một tai hoạ khủng khiếp đối với sự sống, loài ngời.
- Đấu tranh ngăn chặn chiến tranh hạt nhân, vì một thế giới hoà bình, vì cuộc sống ấm no hạnh
phúc của con ngời là nhiệm vụ của tất cả chúng ta.
đề số 8
Văn bản "Đấu tranh cho một thế giới hoà bình" của G.Mac-ket là một bài văn nghị luận sinh
động.

I. Tìm hiểu đề
- Đề bài này cũng chỉ có một mệnh đề, không có câu mệnh lệnh, không nêu rõ kiểu đề, yêu cầu
thực hiện. Các em tự phải xác định vấn đề cần bàn và kiểu văn bản thích hợp để làm sáng tỏ vấn đề.
- Kiểu đề : Nghị luận.
- Yêu cầu : Bằng lí lẽ và dẫn chứng, em phải phân tích, chứng minh, đánh giá làm sáng tỏ vấn
đề : Văn bản Đấu tranh cho một thế giới hoà bình có phải là một bài văn nghị luận sinh động hay
không.
II. Dàn ý
A. Mở bài
- G. Mác-két nổi tiếng là tác giả của nhiều tiểu thuyết và truyện ngắn đợc viết theo khuynh h-
ớng hiện thực huyền ảo. Ông là nhà văn châu Mĩ Latinh đã đoạt giải Nô-ben văn học năm 1982.
Qua tác phẩm của mình, Mác-két đã từng đấu tranh không mệt mỏi vì hoà bình và hạnh phúc của
con ngời và sự sống trên trái đất.
- Đấu tranh cho một thế giới hoà bình là một bài văn nghị luận sinh động. Bằng lập luận chặt
chẽ, chứng cứ phong phú, xác thực ; bằng trái tim nhiệt huyết của một nhà văn vì hoà bình, hạnh
phúc của con ngời, Mác-két đã phân tích làm rõ nguy cơ chiến tranh hạt nhân đang đe doạ sự sống
con ngời, kêu gọi mọi ngời hãy đoàn kết, đấu tranh ngăn chặn, xoá bỏ nguy cơ đó.
- 7 -
B. Thân bài
1. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình là một văn bản nghị luận bởi tác giả đã đặt ra một vấn
đề và bàn bạc, nêu quan điểm của mình về vấn đề đó. Luận điểm chính mà tác giả nêu ra trong bài
viết này là : "Chiến tranh hạt nhân là một hiểm hoạ khủng khiếp đang đe doạ loài ngời và sự sống
trên trái đất, vì vậy nhiệm vụ cấp bách của toàn thể nhân loại là đoàn kết đấu tranh để loại bỏ nguy
cơ ấy".
2. Để làm sáng tỏ vấn đề và thuyết phục ngời đọc, tác giả đã triển khai luận điểm đó trong một hệ
thống luận cứ sắc bén, toàn diện, mạch lạc và chặt chẽ :
a) Kho vũ khí hạt nhân đang tàng trữ có khả năng huỷ diệt, xoá bỏ mọi dấu vết của sự sống trên
trái đất và các hành tinh khác trong hệ mặt trời.
b) Cuộc chạy đua vũ trang vô cùng tốn kém đã làm mất đi cơ hội cải thiện đời sống cho hàng tỉ
ngời nghèo khổ nhất trên thế giới. Những con số cụ thể, những ví dụ so sánh trong các lĩnh vực xã

hội, y tế, tiếp tế thực phẩm, giáo dục với những chi phí khổng lồ cho chạy đua vũ trang đã cho thấy
tính chất cực kì phi lí của việc chạy đua vũ trang.
c) Chiến tranh hạt nhân không chỉ đi ngợc lại lí trí của loài ngời mà mà còn trái với quy luật tự
nhiên, phản lại sự tiến hoá.
d) Vì vậy, tất cả chúng ta phải có nhiệm vụ ngăn chặn cuộc chiến tranh hạt nhân, đấu tranh cho
một thế giới hoà bình, vì một cuộc sống tốt đẹp hơn cho tất cả mọi ngời.
3. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình giàu sức thuyết phục và gây đợc ấn tợng mạnh vì Mác-két
đã sử dụng nghệ thuật lập luận chặt chẽ, sắc bén kết hợp với chứng cứ phong phú, xác thực, cụ thể.
a) Để cho thấy tính chất hiện thực và sự khủng khiếp của nguy cơ chiến tranh hạt nhân, tác giả
đã bắt đầu bài viết bằng việc nêu cụ thể thời gian (hôm nay ngày 8-8-1986) và đa ra số liệu cụ thể
đầu đạn hạt nhân với một phép tính rất đơn giản, rất dễ hiểu : 50.000 đầu đạn hạt nhân chia bình
quân cho đầu ngời trên thế giới, mỗi ngời phải hứng chịu trung bình 4 tấn thuốc nổ. Nếu chỗ thuốc
nổ đó nổ tung lên sẽ làm tiêu biến hết thảy không phải một lần mà là mời hai lần mọi dấu vết của sự
sống trên trái đất, tiêu diệt tất cả các hành tinh đang xoay quanh mặt trời và bốn hành tinh khác nữa,
phá huỷ thế thăng bằng của hệ mặt trời
Cách vào đề trực tiếp, việc lựa chọn đợc những con số xác thực, rõ ràng của tác giả đã thu hút
ngay sự chú ý và gây ấn tợng mạnh đối với ngời đọc. Đọc qua một lần, chúng ta có ngay cái cảm
giác rùng mình về sự mong manh của sự sống, con ngời trên trái đất ; về khả năng huỷ diệt ghê gớm
của vũ khí hạt nhân; về tính chất hệ trọng của nguy cơ chiến tranh hạt nhân.
b) Để làm rõ tính chất phi lí của cuộc chạy đua vũ trang, tác giả đã đa ra hàng loạt so sánh hết
sức thuyết phục giữa chi phí cho vũ khí hạt nhân với chi phí cho các hoạt động cứu trợ, phát triển xã
hội, y tế, tiếp tế thực phẩm, giáo dục, đặc biệt ở các nớc nghèo :
- Nếu bỏ khoản chi phí cho 100 máy bay ném bom chiến lợc B.1B của Mĩ và 7.000 tên lửa vợt
đại châu sẽ có đủ số tiền hơn 100 tỉ đô la để cứu trợ cấp bách cho 500 triệu trẻ em nghèo khổ nhất
thế giới.
- Giá của 10 chiếc tàu sân bay mang vũ khí hạt nhân đủ để thực hiện một chơng trình phòng
bệnh trong 14 năm cho hơn một tỉ ngời, cứu hơn 14 triệu trẻ em châu Phi thoát khỏi cái chết.
- Chỉ hai chiếc tàu ngầm mang vũ khí hạt nhân là đủ tiền xoá nạn mù chữ cho toàn thế giới, vv
Thế nhng, tất cả những chơng trình cứu trợ trên chỉ là giấc mơ bởi số tiền đó đã đợc giành vào
việc sản xuất ra những vũ khí giết ngời hàng loạt. Chi phí quá tốn kém cho việc sản xuất vũ khí hạt

nhân đã làm mất đi của thế giới nhiều điều kiện để cải thiện cuộc sống, cớp đi nhiều cơ hội để cứu
giúp hàng tỉ ngời, đặc biệt là trẻ em, thoát khỏi nghèo đói, bệnh tật và chết chóc
Phép lập luận so sánh với những con số và hình ảnh biết nói đã thuyết phục sâu sắc ngời đọc,
khiến ngời đọc không khỏi sững sờ, ngạc nhiên trớc một sự thật hiển nhiên nhng lại cực kì phi lí, phi
lí nhng lại đang tồn tại trên trái đất này.
c) Để làm sáng tỏ luận cứ Chạy đua vũ trang là đi ngợc lại lí trí của tự nhiên, tác giả đã đa ra
những chứng cứ từ khoa học địa chất và và cổ sinh học về nguồn gốc, sự tiến hoá của sự sống trên
trái đất là kết quả của một quá trình tiến hoá lâu dài hàng trăm triệu năm: Phải trải qua 380 triệu
năm con bớm mới bay đợc, 180 năm nữa hoa hồng mới nở chỉ để làm đẹp cho đời. Nhng chỉ cần
bấm nút một cái, tất cả những thành tựu khó khăn và nhọc nhằn đó sẽ bị xoá sạch dấu vết, trở lại
điểm xuất phát ban đầu hoặc biến thành tro bụi. Từ đó, tác giả đi đến kết luận đầy thuyết phục:
Chiến tranh hạt nhân không những đi ngợc lại lí trí của con ngời mà còn phản lại quy luật và sự tiến
hoá của tự nhiên.
- 8 -
d) Sau khi chỉ ra một cách rõ ràng về hiểm hoạ hạt nhân, phần kết bài cũng là thông điệp mà tác
giả muốn gửi tới loài ngời : Tất cả mọi ngời hãy cất lên tiếng nói đòi hỏi một thế giới không có vũ
khí và một cuộc sống hoà bình, công bằng. Tiếng nói ấy, nếu vẫn không ngăn chặn đợc hiểm hoạ
hạt nhân thì chí ít nó cũng nói lên đợc ý nghĩ và nguyện vọng của loài ngời mong muốn đợc sống
trên trái đất này trong hoà bình, tình yêu và hạnh phúc.
Kết thúc bài viết, Mác-két nêu một đề nghị: Cần lập ra một ngân hàng lu giữ trí nhớ để các thời
đại sau có thể biết đợc đã từng có cuộc sống trên trái đất này, trớc khi thảm hoạ hạt nhân xảy ra. Đề
nghị của Mac-két có vẻ viễn tởng, hài hớc nhng điều ông quan tâm là chân thật, rằng : Nhân loại cần
giữ gìn kí ức của mình, lịch sử sẽ lên án những thế lực hiếu chiến đã đẩy nhân loại đến thảm hoạ
tuyệt diệt.
4. Đấu tranh cho một thế giới hoà bình giàu sức thuyết phục còn bởi cảm xúc mãnh liệt và nhiệt
huyết chứa chan của tác giả. Một nhà văn thế kỉ XVIII đã từng nguyền rủa thuốc súng nh một sự
sáng tạo của quỷ sứ. Đến lợt Mác-két, ông cũng nguyền rủa "những phát minh dã man nào, nhân
danh những lợi ích ti tiện nào" làm cho cuộc sống bị xoá bỏ khỏi vũ trụ này. Ông khẳng định :
"Trong thời đại hoàng kim này của khoa học, trí tuệ của con ngời chẳng có gì để tự hào vì đã phát
minh ra một biện pháp, chỉ cần bấm nút một cái là đã đa cả quá trình vĩ đại và tốn kém của hàng bao

nhiêu triệu năm trở lại điểm xuất phát của nó"
C. Kết bài
- Nh vậy, bằng lập luận sắc bén, chứng cứ phong phú, xác thực và nhiệt huyết của một nhà văn
vì hoà bình, hạnh phúc của con ngời, Mác-két đã nêu ra một cách rõ ràng, đầy sức thuyết phục về
mối hiểm hoạ hạt nhân đối với nhân loại ; chỉ rõ sự tốn kém vô cùng phi lí của cuộc chạy đua vũ
trang; từ đó thức tỉnh và kêu gọi mọi ngời phải hành động để ngăn chặn nguy cơ chiến tranh hạt
nhân, đấu tranh vì một thế giới hoà bình.
- Đấu tranh cho một thế giới hoà bình là một bài văn nghị luận xuất sắc của G. Mac-két.
đề số 9
Em hãy tóm tắt văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát triển của
trẻ em đợc trích in trong Ngữ văn 9, tập I.
bài làm
Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát triển của trẻ em năm 1990 đã nêu
rõ thực trạng cuộc sống của trẻ em trên thế giới hiện nay, tầm quan trọng của vấn đề chăm sóc, bảo
vệ trẻ em và sự quan tâm sâu sắc của cộng đồng quốc tế đối với vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em.
Văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát triển của trẻ em in trong
Ngữ văn 9 là một phần trích từ điều 1 đến điều 17 của văn bản trên , chia làm 4 phần :
Phần 1 (điều 1 và 2) khẳng định quyền đợc sống, quyền đợc phát triển của trẻ em, kêu gọi khẩn
thiết cả nhân loại hãy quan tâm và hành động để bảo đảm tất cả những quyền lợi này cho trẻ em.
Phần 2 (điều 3 - 7) nêu lên những thách thức trong việc bảo đảm các quyền lợi của trẻ em. Đó là
thực trạng cuộc sống đói nghèo, cực khổ trên nhiều mặt của trẻ em, tình trạng trẻ em bị rơi vào
những hiểm hoạ khôn lờng, tình trạng trẻ em không đợc chăm sóc, bảo vệ
Phần 3 (điều 8 - 9) chỉ ra những cơ hội, những điều kiện thuận lợi cơ bản giúp cho các quyền
của trẻ em đợc thực hiện tốt. Đó là sự liên kết, nhất trí của cộng đồng quốc tế trong vấn đề chăm sóc
và bảo vệ trẻ em; là sự hợp tác và đoàn kết quốc tế trong nhiều lĩnh vực tạo điều kiện thuận lợi cho
việc đảm bảo các quyền và phúc lợi cho trẻ em.
Phần 4 (điều 10-17) nêu lên một cách cụ thể, toàn diện nhiệm vụ cấp thiết của cộng đồng quốc
tế và từng quốc gia trong việc bảo vệ các quyền của trẻ em. Đó là, tăng cờng sức khoẻ và chế độ
dinh dỡng cho trẻ em, trẻ em tàn tật hoặc có hoàn cảnh sống đặc biệt khó khăn phải đợc quan tâm
đặc biệt ; trẻ em phải đợc học hết bậc giáo dục cơ sở; đảm bảo quyền bình đẳng giữa trẻ nam và trẻ

nữ; khuyến khích trẻ em tham gia các hoạt động văn hoá, xã hội
đề số 10
Dựa vào văn bản Tuyên bố thế giới về sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát triển của trẻ em,
em hãy viết một văn bản thuyết minh (có sử dụng yếu tố miêu tả và nghị luận) về thực trạng cuộc
sống của trẻ em trên thế giới hiện nay.
Dàn ý
A. Mở bài
- 9 -
- Trẻ em là tơng lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại. Trẻ em có quyền đợc sống, quyền đ-
ợc bảo vệ và quyền đợc phát triển.
- Nhng thực tế cuộc sống tuổi ấu thơ của trẻ em lại không hoàn toàn nh vậy.
B. Thân bài
1. Trẻ em có quyền đợc sống và đợc đáp ứng các nhu cầu cơ bản để tồn tại nh đợc nuôi dỡng, đ-
ợc chăm sóc sức khoẻ Nhng trong thực tế, theo thế giới Tuyên bố về sự sống còn của trẻ em ,
hằng ngày có hàng triệu trẻ em phải chịu đựng thảm hoạ của đói nghèo, khủng hoảng kinh tế, tình
trạng vô gia c, dịch bệnh, mù chữ, môi trờng xuống cấp Hơn 500 triệu trẻ em nghèo khổ nhất thế
giới không có những điều kiện thiết yếu để tồn tại nh thiếu thực phẩm, nớc uống, thiếu thuốc chữa
bệnh ở nhiều nớc đang phát triển, đặc biệt những nớc kém phát triển nhất ở châu Phi, trẻ em đang
phải chịu tác động nặng nề của nợ nớc ngoài, của tình hình kinh tế không giữ đợc mức độ tăng trởng
đều đặn hoặc không có khả năng tăng trởng.
- Mỗi ngày có tới 40.000 trẻ em chết do suy dinh dỡng, bệnh tật, kể cả hội chứng suy giảm
miễn dịch (HIV, AIDS) hoặc do thiếu nớc sạch, thiếu vệ sinh và do tác động của vấn đề ma tuý. Tỉ
lệ tử vong của trẻ em nói chung, trẻ sơ sinh nói riêng ở nhiều nơi trên thế giới hiện nay, theo Tuyên
bố thế giới cao đến mức không thể chấp nhận đợc.
- Việt Nam là nớc thứ hai trên thế giới kí và phê chuẩn Công ớc của Liên hiệp quốc về quyền
trẻ em. Đảng và Nhà nớc ta đã cố gắng rất nhiều trong việc xoá đói, giảm nghèo, đảm bảo quyền đ-
ợc sống cho trẻ em. Tuy nhiên, ở một số vùng nông thôn và miền núi khó khăn vẫn còn rất nhiều trẻ
em thiếu ăn, suy dinh dỡng, không đợc chăm sóc về mặt y tế.
2. Trẻ em có quyền đợc bảo vệ khỏi mọi hình thức phân biệt đối xử, bị bỏ rơi, bị bóc lột và xâm
hại. Nhng trong thực tế, cũng theo Tuyên bố thế giới về quyền đợc bảo vệ của trẻ em, hằng ngày có

vô số trẻ em khắp nơi trên thế giới bị phó mặc cho những hiểm hoạ khôn lờng. Chiến tranh vẫn nổ ra
liên miên trên khắp thế giới. Cuộc chiến ở Cô-sô-vô, Nam T; cuộc chiến tranh của Mĩ và Anh ở Irắc;
cuộc chiến ở Ap-ga-nis-tan; các cuộc xung đột ở Trung Đông; chủ nghĩa khủng bố hoành hành khắp
nơi đã biến trẻ em thành nạn nhân của chiến tranh và bạo lực, thậm chí, ở một số nớc châu Phi, ng-
ời ta tuyển mộ cả trẻ em vào quân đội, tay lăm lăm súng ống giáp mặt với giết chóc
Bên cạnh đó, hàng triệu trẻ em là nạn nhân của nạn phân biệt chủng tộc, chế độ Apácthai, nạn
khủng bố, bắt giữ con tin mà gần đây nhất là vụ khủng bố đẫm máu ở một trờng học nớc Nga
(Beslan) làm hàng trăm trẻ em bị giết, hàng trăm trẻ em sống sót trong nỗi kinh hoàng khôn tả
Cũng do chiến tranh và tình hình chính trị phức tạp, nhiều trẻ em trở thành ngời tị nạn, phải từ
bỏ gia đình sống tha hơng để trốn tránh nỗi hiểm nguy. Có nhiều trẻ em tàn tật đã trở thành nạn
nhân của sự lãng quên, ruồng bỏ, hoặc bị đối xử tàn nhẫn, bị bóc lột.
ở Việt Nam, đây đó, chúng ta vẫn có thể chứng kiến cảnh trẻ em bị đánh đập, xâm hại, bị lôi
kéo vào con đờng nghiện hút, bị bắt buộc làm việc nặng quá sức, bơ vơ không ai chăm sóc do cha
mẹ li hôn
3. Trẻ em có quyền đợc đáp ứng các nhu cầu cho sự phát triển một cách toàn diện nh đợc học
tập, đợc vui chơi giải trí, đợc tham gia các hoạt động văn hoá, thể thao Nhng trong thực tế hiện
nay, có hơn 100 triệu trẻ em không đợc đến trờng hoặc cha trải qua giáo dục cơ sở.
C. Kết bài
- Thực trạng cuộc sống của trẻ em trên thế giới hiện nay là một thách thức lớn đối với cộng
đồng quốc tế, là mối quan tâm sâu sắc của lơng tâm loài ngời.
- Các quyền của trẻ em cần phải đợc tôn trọng và thực hiện một cách đầy đủ, có trách nhiệm.
- Mỗi học sinh chúng ta hãy bằng khả năng và hành động thực tiễn của mình, phát huy tinh thần
tơng ái tơng trợ, yêu thơng giúp đỡ, nhờng cơm xẻ áo cho những bạn nhỏ gặp hoàn cảnh khó khăn
cũng là một hình thức hữu hiệu góp phần bảo vệ quyền lợi của trẻ em.
đề số 11
Suy nghĩ của em về tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em, về sự quan tâm của
cộng đồng quốc tế, chính phủ Việt Nam và chính quyền địa phơng các cấp đối với trẻ em hiện nay.
I. Tìm hiểu đề
- Kiểu bài : Nghị luận
- Yêu cầu : Em có thể dựa vào văn bản Tuyên bố thế giới trong Ngữ văn 9 và những hiểu biết

của em về vấn đề này để làm bài. Đề bài cho phép và khuyến khích suy nghĩ của riêng em. Tuy
nhiên, em nên làm rõ đợc một số ý cơ bản sau.
- 10 -
II. Dàn ý
A. Mở bài
- Bảo vệ, chăm sóc trẻ em là một trong những nhiệm quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia,
dân tộc bởi "Trẻ em hôm nay, thế giới ngày mai" (UNESCO).
B. Thân bài
1. Tầm quan trọng của vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em
a) Tơng lai của mỗi dân tộc và của toàn nhân loại phụ thuộc vào sự chăm sóc, giáo dục thế hệ
trẻ ; phụ thuộc vào sức khoẻ, trí tuệ, năng lực của thế hệ trẻ. Trong "Th gửi học sinh nhân ngày
khai trờng", Bác Hồ viết: "Non sông Việt Nam có trở nên vẻ vang hay không, dân tộc Việt Nam có
đợc vẻ vang sánh vai các cờng quốc năm châu đợc hay không, chính là nhờ một phần lớn ở công học
tập của các cháu". Trẻ em là ngời sẽ quyết định tơng lai, vị thế của mỗi dân tộc trên trờng quốc tế.
b) Qua vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em, chúng ta có thể nhận ra đợc trình độ văn minh và phần
nào bản chất của một xã hội.
2. Sự quan tâm của cộng đồng quốc tế, chính phủ Việt Nam, chính quyền địa phơng và các tổ
chức xã hội đối với trẻ em hiện nay.
a) Vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em đang đợc cộng đồng quốc tế quan tâm thích đáng :
- Năm 1989, Công ớc Liên hiệp quốc về quyền trẻ em ra đời đã ghi nhận các quyền cơ bản của
trẻ em nh các nhóm quyền sống còn, nhóm quyền bảo vệ, nhóm quyền phát triển và nhóm quyền
tham gia. Công ớc này thể hiện sự tôn trọng và quan tâm của cộng đồng quốc tế đối với trẻ em, là
điều kiện cần thiết để trẻ em đợc phát triển đầy đủ trong bầu không khí hạnh phúc, yêu thơng và
thông cảm.
- Năm 1990, Tuyên bố thế giới đã đề ra những nhiệm vụ cụ thể và toàn diện nhằm bảo vệ và
chăm sóc trẻ em cùng với một bản kế hoạch hành động khá chi tiết trên từng mặt cơ bản. Tuyên bố
này một lần nữa thể hiện sự quan tâm thích đáng của cộng đồng quốc tế đối với các quyền lợi và t-
ơng lai của trẻ em.
b) Vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em đợc chính phủ Việt Nam đặc biệt quan tâm. Việt Nam là nớc
thứ hai trên thế giới kí và phê chuẩn Công ớc của Liên hiệp quốc về quyền trẻ em. sau Hội nghị cấp

cao thế giới về trẻ em năm 1990, Hội đồng Bộ trởng nớc Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam đã
quyết định Chơng trình hành động vì sự sống còn, quyền đợc bảo vệ và phát triển của trẻ em Việt
Nam từ năm 1991 đến 2000, đặt thành một bộ phận của chiến lợc, kế hoạc phát triển kinh tế, xã hội
của đất nớc.
c) Trên cơ sở đờng lối, chiến lợc phát triển đó, chính quyền địa phơng các cấp đã vạch kế
hoạch, hành động cụ thể nhằm đảm bảo các quyền lợi của trẻ em nh các chính sách hỗ trợ kinh tế
đối với trẻ em nghèo để các em có thể đến trờng, quan tâm xây dựng cơ sở vật chất, trờng học, thiết
bị dạy học để nâng cao chất lợng giáo dục, kêu gọi các tổ chức xã hội và nhân dân đóng góp xây
dựng trờng lớp, giúp đỡ trẻ em khuyết tật, đóng góp quỹ vì ngời nghèo, vì trẻ em bị nhiễm chất độc
màu da cam, khuyến khích mở các lớp học tình thơng, các trung tâm bảo trợ trẻ em mồ côi, tàn tật,
lang thang không nơi nơng tựa
3. Suy nghĩ của em về sựu quan tâm của cộng đồng quốc tế, các chính quyền địa phơng đối với
vấn đề quyền lợi của trẻ em :
(Gợi ý : Em có vui và hoan nghênh những nỗ lực cố gắng của cộng đồng quốc tế, chính phủ
Việt Nam về vấn đề này hay không ? Vì sao ? ý kiến đề xuất của em, nếu có, để chính phủ, chính
quyền địa phơng nơi em sinh sống thực thi tốt hơn việc bảo đảm quyền lợi cho trẻ em ?)
C. Kết bài
- Vấn đề bảo vệ, chăm sóc trẻ em đã đợc cộng đồng quốc tế nói chung, chính phủ Việt Nam,
các cấp chính quyền địa phơng và các tổ chức xã hội Việt Nam nói riêng ý thức đầy đủ và có kế
hoạch hành động cụ thể, thiết thực.
- Để xứng đáng với sự quan tâm, chăm sóc ấy, mỗi học sinh chúng ta cần phải không ngừng nỗ
lực vơn lên trong học tập và rèn luyện để có thể gánh vác trọng trách là ngời chủ tơng lai của nớc
nhà sau này.
đề số 12
Em hãy tóm tắt văn bản Chuyện ngời con gái Nam Xơng trong 15 đến 20 dòng.
I. Tìm hiểu đề
- Kiểu đề : Tóm tắt văn bản tự sự.
- 11 -
- Yêu cầu : Tóm tắt cô đọng trong 15 - 20 dòng. Đây là một văn bản dài, em phải tìm các sự
kiện, chi tiết cơ bản nhất để qua 15 dòng này có thể dựng lại đầy đủ nội dung, diễn biến chính của

câu chuyện.
II. Bài làm
Xa có chàng Trơng Sinh, vì chiến tranh loạn lạc bị bắt đi lính, bỏ lại mẹ già và ngời vợ trẻ
ngoan hiền tên là Vũ Nơng đang bụng mang dạ chửa. Mẹ Trơng Sinh vì quá nhớ thơng chàng mà
ốm chết, Vũ Nơng hết lòng chăm sóc rồi lo ma chay chu tất cho bà. Giặc tan, Trơng Sinh trở về.
Vốn tính đa nghi, nghe lời trẻ thơ không suy xét, Trơng Sinh nghi Vũ Nơng không chung thuỷ,
mắng đuổi nàng đi. Vũ Nơng bị oan bèn gieo mình xuống sông tự vẫn. Cho đến một đêm, hai cha
con ngồi bên đèn, đứa con chỉ chiếc bóng trên tờng và nói đó là ngời đêm đêm đã đến với mẹ, Trơng
Sinh mới biết vợ bị oan. Phan Lang là ngời cùng làng với Vũ Nơng, do có ơn với thần rùa Linh Phi,
khi chết đuối đợc Linh Phi cứu mạng. Phan Lang gặp lại Vũ Nơng dới thuỷ cung. Khi Phan Lang trở
về trần gian, Vũ Nơng gửi chiếc hoa vàng cùng lời nhắn Trơng Sinh. Trơng Sinh nghe Phan Lang kể,
thơng nhớ vợ vô cùng, bèn lập đàn giải oan trên bờ Hoàng Giang. Vũ Nơng trở về trên một chiếc
kiệu hoa giữa dòng, đa tạ chàng rồi biến mất.
đề số 13
Em hãy đóng vai Vũ Nơng kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả.
Tìm hiểu đề
- Kiểu bài : Kể chuyện có sử dụng yếu tố miêu tả.
- Yêu cầu : Sử dụng yếu tố miêu tả khi miêu tả khung cảnh và miêu tả nội tâm để làm rõ hơn
tâm trạng của Vũ Nơng trớc các sự kiện, biến cố của cuộc đời nàng. Câu chữ có thể khác nhng nội
dung thì phải trung thành tuyệt đối với nguyên bản.
Bài làm

Tôi tên là Vũ Nơng, quê ở Nam Xơng. Mọi ngời trong làng yêu mến thờng khen tôi là nết na,
thuỳ mị, xinh đẹp. Họ cầu mong cho tôi sẽ lấy đợc một ngời chồng xứng đáng và đợc hởng hạnh
phúc. Tôi đã gặp và thành vợ chàng Trơng. Chàng rất mực yêu thơng tôi, nhng lại cũng rất đa nghi.
Biết vậy, tôi cố gắng từ lời ăn tiếng nói cho đến hành động đều giữ đúng khuôn phép nên gia đình
luôn đợc êm ấm.
Cuộc sống của tôi đang êm ềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, chồng tôi phải ghi tên tòng quân.
Buổi tiễn chồng ra biên ải, lòng tôi trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nghĩ chàng phải đi vào nơi gió cát
nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật, việc quân khó liệu, thế giặc khôn lờng, lòng tôi thơng chàng

vô hạn. Tôi không mong chàng lập công để đợc ấn phong hầu mà chỉ mong chàng bình an trở về là
tôi đã thoả nguyện. Giờ phút chia tay đã hết. Chàng dứt áo ra đi, tôi thẫn thờ dõi theo bóng chàng,
mắt nhoà lệ, lòng tái tê chua xót.
Ngày tháng khắc khoải trôi qua. Trong lòng tôi, mùa xuân tơi vui bớm lợn đầy vờn ; hay mùa
đông giá băng ảm đạm, mây che kín núi cũng chỉ là một, bởi nỗi nhớ chàng luôn đằng đẵng, thờng
trực trong lòng. Đến kì sinh nở, tôi sinh đợc một bé trai và đặt tên cháu là Đản. Nhng mẹ chồng tôi,
vì nhớ thơng con mà ốm đau mòn mỏi. Tôi đã hết lòng thuốc thang, động viên nhng vì bệnh tình
trầm trọng, cụ đã qua đời. Cảm động trớc tình mẫu tử thiêng liêng mẹ dành cho chồng tôi, xót thơng
mẹ vô hạn, tôi đã lo ma chay chu tất cho mẹ.
Sau bao nhiêu chờ đợi mỏi mòn, nhớ thơng khôn xiết, cuối cùng Trơng Sinh đã trở về. Tôi vô
cùng sung sớng và hạnh phúc. Nhng cuộc đời, có ai mà đoán trớc đợc số phận. Chàng về tới nhà,
biết mẹ đã qua đời liền bế con đi viếng mộ mẹ. Lúc trở về, chàng bỗng dng nổi giận la mắng om
sòm. Chàng cho rằng tôi đã phản bội chàng, không giữ tình yêu chung thuỷ với chàng. Tôi bàng
hoàng sửng sốt. Nớc mắt tôi ứa ra. Tôi vừa khóc thổn thức vừa giải thích : "Thiếp vốn con nhà nghèo
khó, đợc nơng tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng
sum họp cha đợc bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì khác. Trong ba năm cách biệt,
thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén gót chốn chơi bời, một mực
nhớ thơng và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp, đừng nghi oan cho thiếp mà tội
nghiệp". Nhng bao nhiêu lời nói chân thành, tha thiết cũng không làm chàng tin. Hàng xóm thơng
tôi cũng bênh vực và biện bạch giúp nhng rốt cuộc chẳng có kết quả gì. Chàng mắng nhiếc tôi thậm
tệ rồi đánh đuổi tôi đi. Lòng tôi đau đớn, xót xa, cay đắng đến tuyệt vọng. Tôi đã nơng dựa vào
- 12 -
chàng những mong có một gia đình đầm ấm, hoà thuận, hạnh phúc. Nhng giờ đây, trâm gãy bình
tan, tình cảm vợ chồng sứt mẻ. Dù vẫn thơng chồng, thơng con tha thiết, nhng tôi đâu còn mặt mũi
nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Nghĩ vậy, tôi bèn tắm gội sạch sẽ rồi ra bến Hoàng Giang
ngửa mặt lên trời mà than rằng : "Con duyên phận hẩm hiu, bị chồng con ruồng bỏ. Nếu con giữ gìn
trinh tiết mà bị oan thì khi thác xuống xin đợc làm Mị Nơng hoặc cỏ Ngu mĩ. Nếu con phản bội
chồng con thì chết đi xin làm mồi cho cá tôm, diều quạ và chịu để mọi ngời phỉ nhổ". Sau đó, tôi
gieo mình xuống sông tự vẫn. Thần linh thấu hiểu và thơng tình đã cho các nàng tiên dới thuỷ cung
cứu vớt, cho tôi nơng nhờ trong cung điện của Linh Phi.

Xuống thiên cung, tôi gặp lại Phan Lang - ngời cùng làng. Nghe Phan Lang kể gia cảnh chồng
con tôi, nhà cửa, vờn tợc hoang vu, phần mộ mẹ cha cỏ gai rợp mắt, lòng tôi xót thơng, ai oán. Đợc
biết chàng Trơng đã hiểu dúng ngọn ngành sự việc và vẫn thơng nhớ tôi, tôi rất vui, bối rối nhng lại
cũng cảm thấy tủi cực bởi mình vẫn cha đợc minh oan. Khi Phan Lang trở lại trần gian, tôi bèn gửi
cho Trơng Sinh một chiếc hoa vàng và nhắn chàng nếu còn nhớ tới chút tình xa nghĩa cũ xin lập
một đàn giải oan ở bến sông, tôi sẽ về. Trơng Sinh liền làm theo. Tôi ngồi trên kiệu hoa về gặp
chàng. Thấy tôi, chàng vội gọi. Nhìn chàng và nghe tiếng chàng gọi, lòng tôi bồi hồi, xót xa khôn
xiết. Nhng giữa chúng tôi đã có một khoảng cách không sao hàn gắn đợc. Tôi cũng đã thề với đức
Linh Phi nên không thể trở về nhân gian đợc nữa. Tôi tạ ơn chàng đã lập đàn giải oan rồi quay lại
thuỷ cung dù trong lòng còn bao lu luyến cõi trần.
đề số 14
Em hãy đóng vai Trơng Sinh kể lại cuộc đời mình, có sử dụng yếu tố miêu tả.

Bài làm
Tôi là Trơng Sinh ở Nam Xơng, cùng quê với Vũ Nơng, sau này là vợ tôi. Câu chuyện thơng
tâm của gia đình tôi đã xảy ra cách đây mấy năm, nhng mỗi lúc nghĩ đến, tôi vẫn thấy dờng nh mới
chỉ xảy ra hôm qua.
Vũ Nơng là một cô gái nết na, thuỳ mị và xinh đẹp. Khuôn mặt nàng thanh tú, đôi mắt đen dịu
hiền, mái tóc dày óng mợt. Nàng đẹp một vẻ đẹp dịu dàng, đằm thắm và phúc hậu. Tôi đem lòng
yêu mến nàng nên đã xin mẹ cới nàng về làm vợ. Nàng là một ngời vợ hiểu lễ giáo, phép tắc, nói
năng nhỏ nhẹ, một lòng thơng chồng, phụng dỡng mẹ già nên dù tôi có tính đa nghi nhng gia đình
tôi luôn đợc êm ấm.
Cuộc sống của chúng tôi đang êm ềm trôi qua thì chiến tranh xảy ra, tôi phải ghi tên tòng quân.
Buổi tiễn đa, nàng buồn rời rợi, lòng trĩu nặng lo âu, phiền muộn. Nàng thơng tôi phải đi vào nơi gió
cát nghìn trùng xa cách, đói rét, bệnh tật. Nàng lo cho tôi rồi đây giáp mặt với giặc dữ, cận kề cái
chết. Nàng không mong tôi lập công đợc đeo ấn phong hầu mà chỉ mong tôi bình an trở về. Tay
nàng nắm chặt áo tôi chẳng rời, mắt nàng rng rng khiến tôi cầm lòng không đợc. Giờ phút chia tay
đã đến. Tôi dứt áo ra đi, nàng thẫn thờ nhìn theo, mắt nhoà lệ. Tôi vừa đi vừa ngoái lại, bóng dáng
nhỏ bé của ngời vợ hiền dần khuất sau ngàn dâu xanh thẳm. Lòng tôi nhớ thơng, chua xót không
cùng.

Khi tôi đang ở nơi khói lửa chiến trờng thì Vũ Nơng đến kì đã sinh đợc một bé trai. Cháu đợc
đặt tên là Đản. Nhng mẹ tôi, vì quá nhớ thơng tôi mà ốm đau mòn mỏi. Vũ Nơng đã thay tôi hết
lòng thuốc thang, động viên nhng vì bệnh tình trầm trọng, cụ đã qua đời. Hàng xóm kể lại, Vũ Nơng
rất mực thơng xót, lo ma chay chu tất nh cha mẹ đẻ. Nàng là một ngời trọn tình, vẹn nghĩa, trọn đạo
hiếu khiến tôi càng yêu thơng, nể phục.
Cuối cùng, tôi cũng đợc bình an trở về sau bao nhiêu gian khổ hiểm nguy. Mấy năm xa cách
nhớ thơng, nay đoàn tụ, vợ chồng mừng mừng, tủi tủi. Hay tin mẹ qua đời, lòng tôi buồn khổ quá.
Tôi hỏi thăm mộ mẹ rồi bế con đi viếng. Dọc đờng, bé Đản khóc, tôi dỗ : "Nín đi con, bà mất, lòng
cha buồn khổ lắm rồi". Bé Đản liền nói tôi không phải là cha nó, cha nó là ngời trớc đây đêm nào
cũng đến bên mẹ. Tôi choáng váng. Đất dới chân tôi nh sụp xuống. Tôi cứ nghĩ Vũ Nơng là một ng-
ời vợ ngoan hiền, đức hạnh, ngờ đâu nàng trở nên h hỏng nh vậy sao? Tôi bỗng thấy căm giận Vũ
Nơng. Mối nghi ngờ trong tôi mỗi lúc càng đợc thổi bùng lên, không có cách gì dập tắt đợc. Về đến
nhà, tôi la mắng om sòm cho hả giận. Vũ Nơng bàng hoàng sửng sốt. Nàng vừa khóc vừa thanh
minh : "Thiếp vốn con nhà nghèo khó, đợc nơng tựa nhà giàu, vẫn lấy sự nết na thuỳ mị, công dung
ngôn hạnh làm đầu. Vợ chồng sum họp cha đợc bao lâu, chia xa chỉ vì lửa binh chứ không vì lí do gì
khác. Trong ba năm cách biệt, thiếp một mực giữ gìn tiết hạnh, không tô son điểm phấn, không bén
- 13 -
gót chốn chơi bời hoa liễu, một mực nhớ thơng và chung thuỷ với chàng. Xin chàng hãy tin thiếp,
đừng nghi oan cho thiếp mà tội nghiệp ". Nhng bao nhiêu lời nói chân thật cũng không làm dịu đợc
mối nghi ngờ trong tôi. Hàng xóm thơng Vũ Nơng cũng ra sức bênh vực và biện bạch cho nàng, nh-
ng tôi không nghe ai hết. Ngọn lửa hờn ghen đang đốt cháy mọi cảm xúc, ý nghĩ của tôi. Tôi mắng
nhiếc không tiếc lời rồi đánh đuổi nàng đi. Cảm thấy không thể thuyết phục đợc tôi, Vũ Nơng bất
đắc dĩ nói trong đau đớn, xót xa, cay đắng rằng : nàng đã nơng dựa vào tôi là vì mong có một gia
đình đầm ấm, hạnh phúc. Nhng bây giờ, trâm gãy bình tan, tình cảm vợ chồng sứt mẻ, nàng không
còn mặt mũi nào mà sống ở trên đời này thêm nữa. Rồi nàng tắm gội sạch sẽ, ra bến Hoàng Giang
than khóc, thề nguyền và gieo mình xuống sông tự vẫn.
Về phần tôi, mối nghi ngờ không chỉ làm hại Vũ Nơng mà còn làm khổ tôi, dằn vặt tôi không
phút nào yên. Tuy giận Vũ Nơng thất tiết nhng khi nàng tự vẫn, tôi cảm thấy lòng đau nhói. Tôi lang
thang đi tìm vớt xác nàng nhng không thấy tăm hơi. Hoá ra, lời thỉnh cầu của nàng đã linh nghiệm.
Thần linh thấu hiểu và thơng tình đã cho các nàng tiên dới thuỷ cung cứu vớt, cho nàng nơng nhờ

trong cung điện của Linh Phi.
Hai cha con tôi sống những ngày tháng cô đơn, buồn bã đằng đẵng. Một đêm, phòng không
vắng vẻ, tôi ngồi dới ngọn đèn khuya, bóng in trên vách. Bé Đản thấy thế liền chỉ tay lên chiếc bóng
và nói : "Cha Đản lại đến kia kìa!". Tôi ngỡ ngàng rồi hiểu ra. Hỡi ơi, tôi đã hại chết Vũ N ơng rồi!
Tôi đau đớn, ân hận, xót xa, day dứt vô hạn. Bây giờ tôi mới hiểu vợ tôi bị oan, rằng nàng đã chết
trong nỗi oan ức và tuyệt vọng. Nhng việc đã lỡ rồi, tôi chẳng biết làm gì hơn là đau khổ, buồn th-
ơng, day dứt.
Một hôm, Phan Lang - ngời cùng làng tôi đến kể cho tôi nghe là đã gặp Vũ Nơng dới thuỷ
cung. Ban đầu tôi không tin, nhng khi chàng đa chiếc hoa vàng cho tôi, tôi sửng sốt vì đó chính là
vật vợ tôi đem theo lúc ra đi. Phan Lang nói, Vũ Nơng vẫn cảm thấy tủi cực vì cha đợc minh oan,
vẫn thơng nhớ chồng con, đau xót ứa nớc mắt khi nghe kể cảnh buồn tủi của cha con tôi, cảnh nhà
cửa, vờn tợc hoang vu, phần mộ mẹ cha cỏ gai rợp mắt Đợc biết nàng vẫn thơng nhớ chồng con,
tôi rất vui. Lòng tôi chứa chan hi vọng đợc gặp lại nàng. Tôi làm theo lời nhắn của nàng, lập một
đàn giải oan ở bến sông, những mong nàng sẽ tha thứ cho lỗi lầm của tôi mà trở về, để tôi có thể bù
đắp lại những đau khổ, thiệt thòi mà tôi đã gây ra cho nàng. Quả nhiên, Vũ Nơng đã trở về. Giữa
dòng Hoàng Giang mênh mông sóng nớc bỗng hiện lên một chiếc kiệu hoa vàng lộng lẫy, rực rỡ.
Nàng ngồi trên chiếc kiệu hoa ấy, mắt phợng mày ngài, dáng vẻ thanh thoát, cử chỉ khoan thai nh
một nàng tiên. Theo sau nàng, hơn 50 chiếc xe cờ tán, võng lọng rực rỡ đầy sông, lung linh trong
ánh nến thoáng ẩn, thoáng hiện. Cả dòng sông nh một lâu đài nguy nga tráng lệ mà nàng là ngời chủ
lâu đài đó. Tôi vội gọi, khẩn thiết, chới với. Nàng nghe tiếng tôi nhng cứ đứng giữa dòng, đôi mắt
buồn thăm thẳm. Rồi nàng nói vọng vào, cảm tạ tình tôi, nhng đã hứa với Linh Phi nên không trở về
trần gian đợc nữa. Tôi đau khổ quá mức, nhng còn biết làm sao đợc. Tuy vẫn còn thơng nhớ nhau
nhng cốc nớc đầy một khi đã đổ xuống đất thì dù có cố gắng thế nào cũng không thể vớt lại cho đầy
đợc. Giữa chúng tôi đã có những khoảng cách không thể nào bù đắp.
Còn cha hết cay đắng, ngậm ngùi thì khói sơng đã phủ, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần rồi
biến mất.
Câu chuyện của tôi, những sai lầm của tôi là có thật. Tôi đã đánh mất hạnh phúc của mình. Kể
ra câu chuyện đau lòng này, tôi chỉ muốn mọi ngời đừng xử sự nông nổi, cả giận mất khôn nh tôi.
Hãy tin yêu con ngời, thực lòng yêu thơng ngời thân để gia đình không rơi vào những bi kịch đau
đớn.

đề số 15
Em hãy liệt kê các yếu tố miêu tả có trong Chuyện ngời con gái Nam Xơng và chọn phân tích
giá trị biểu đạt của một trong số những yếu tố miêu tả đó.
Dàn ý
1. Những yếu tố miêu tả trong Chuyện ngời con gái Nam Xơng :
- Vũ Nơng "tính đã thuỳ mị, nết na lại thêm t dung tốt đẹp".
- "Nhìn trăng soi thành cũ, lại sửa soạn áo rét gửi ngời ải xa, trông liễu rủ bãi hoang, lại thổn
thức tâm tình, thơng ngời đất thú !"
- "Ngày qua tháng lại, thoắt đã nửa năm, mỗi khi thấy bớm lợn đầy vờn, mây che kín núi, thì
nỗi buồn góc bể chân trời không thể nào ngăn đợc."
- 14 -
- "Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh ma tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trớc gió; khóc tuyết bông
hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nớc thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu kia
nữa."
- "Một đêm phòng không vắng vẻ, chàng ngồi buồn dới ngọn đèn khuya "
- "Một đêm chiêm bao thấy ngời con gái áo xanh đến kêu xin tha mạng "
- "Linh Phi bấy giờ mặc áo gấm dát ngọc, chân đi giày có vân nạm vàng, cời bảo Phan Lang
rằng "
- "Dự tiệc hôm ấy có vô số những mĩ nhân quần áo thớt tha, mái tóc búi xễ "
- "Nhà cửa tiên nhân của nơng tử, cây cối thành rừng, phần mộ tiên nhân của nơng tử, cỏ gai rợp
mắt "
- "Vũ Nơng ngồi trên một chiếc kiệu hoa đứng ở giữa dòng, theo sau có đến 50 chiếc xe cờ tán,
võng lọng, rực rỡ đầy sông, lúc ẩn, lúc hiện."
- Rồi trong chốc lát, bóng nàng loang loáng mờ nhạt dần mà biến đi mất
2. Chọn phân tích giá trị biểu đạt của một yếu tố miêu tả trong truyện.
(Gợi ý : Em có thể chọn một yếu tố miêu tả bất kì mà em cho là có giá trị gợi hình, gợi cảm
cao).
Ví dụ, em có thể chọn phân tích yếu tố miêu tả trong đoạn sau :
"Nay đã bình rơi trâm gãy, mây tạnh ma tan, sen rũ trong ao, liễu tàn trớc gió; khóc tuyết bông
hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn, nớc thẳm buồm xa, đâu còn có thể lại lên núi Vọng Phu

kia nữa".
- Cả đoạn này ý nói tình vợ chồng lâu nay gắn bó giữa Trơng Sinh và Vũ Nơng giờ đã tan vỡ,
hạnh phúc đã tiêu tan. Nhng Vũ Nơng không nói trực tiếp ý đó mà mợn các hình ảnh mang tính biểu
tợng để thể hiện sự việc và tâm trạng của mình. Trâm gãy bình tan thể hiện sự tan vỡ; mây tạnh ma
tan gợi tả tình cảm vợ chồng nguội lạnh; sen rũ trong ao liễu tàn trớc gió gợi tả sự tàn lụi của tình
yêu, hạnh phúc; khóc tuyết bông hoa rụng cuống, kêu xuân cái én lìa đàn gợi tả những cố gắng níu
giữ hạnh phúc trong vô vọng Tất cả những hình ảnh đó đã diễn tả một cách ấn tợng và xúc động
tâm trạng của Vũ Nơng. Đó là nỗi đau đớn, luyến tiếc cuộc sống gia đình đầm ấm hạnh phúc, là nỗi
thất vọng đến tuyệt vọng trớc những oan trái của cuộc đời. Tuy là thủ pháp ớc lệ của văn học trung
đại, nhng do tài lựa chọn khéo léo, hợp tình hợp cảnh nên các hình ảnh miêu tả trên vẫn có tác dụng
gợi hình, gợi cảm cao. Nếu không sử dụng các yếu tố miêu tả nh vậy, tâm trạng của Vũ Nơng không
đợc khắc hoạ sâu sắc, câu chuyện sẽ vì thế mà kém hẳn phần hấp dẫn.
đề số 16
Có ý kiến cho rằng, nguyên nhân cái chết của Vũ Nơng là do Trơng Sinh cả ghen. ý kiến khác
lại khẳng định, đó là do chiến tranh phong kiến Suy nghĩ của em về nguyên nhân cái chết của Vũ
Nơng?
I. Tìm hiểu đề
- Kiểu bài : Nghị luận văn học.
- Yêu cầu : Em phải nắm vững nội dung, giá trị của tác phẩm, vận dụng những hiểu biết đó để lí
giải nguyên nhân cái chết của Vũ Nơng một cách thoả đáng. Trong quá trình bộc lộ suy nghĩ, cách lí
giải của mình phải kết hợp bình luận, đối chiếu với hai cách lí giải đã nêu ở đầu bài.
II. Dàn ý
A. Mở bài
- Vũ Nơng, nhân vật chính trong "Chuyện ngời con gái Nam Xơng" là một ngời phụ nữ nhan
sắc, đức hạnh nhng cuộc đời lại chịu nhiều nỗi oan khiên, ngang trái.
- Xung quanh nguyên nhân cái chết của Vũ Nơng có khá nhiều ý kiến không thống nhất. Bài
viết muốn nêu lên suy nghĩ của riêng em về nguyên nhân cái chết oan khuất của ngời phụ nữ này.
B. Thân bài
1. Tóm lợc những sự kiện chính của truyện ; phân tích, khái quát những nét chính về nhân vật
Vũ Nơng:

a) Ngoại hình : dung nhan xinh đẹp.
b) Tính cách, phẩm chất :
- Nết na, thuỳ mị : nói năng nhỏ nhẹ, giữ gìn khuôn phép, lễ giáo, đợc mọi ngời yêu mến.
- 15 -
- Đảm đang tháo vát, hiếu thảo, nhân hậu: một mình nuôi con; thơng yêu, phụng dỡng mẹ
chồng, ma chay chu tất, trọn đạo hiếu.
- Thuỷ chung son sắt : thơng chồng thơng con, giữ trọn phẩm tiết, một lòng chung thuỷ chờ
chồng.
- Trong sáng, ngay thẳng : bị oan khuất, tự vẫn để giải oan
c) Một ngời phụ nữ xinh đẹp, phẩm hạnh nh vậy lẽ ra phải đợc hởng hạnh phúc nhng lại có một
kết cục thảm thiết. Vậy nguyên nhân nào dẫn đến cái chết của Vũ Nơng ?
2. Nguyên nhân cái chết của Vũ Nơng :
a) Xung quanh cái chết của Vũ Nơng có rất nhiều cách lí giải khác nhau. Hai ý kiến, một khẳng
định do Trơng Sinh cả ghen, một cho rằng do chiến tranh phong kiến đều có cơ sở. Tuy nhiên, mỗi ý
kiến mới chỉ đúng ở một khía cạnh.
b) Trơng Sinh cả ghen là nguyên nhân trực tiếp dẫn tới cái chết của Vũ Nơng : nếu Trơng Sinh
biết kìm chế nóng giận, sáng suốt suy xét, tin ở vợ chứ không tin vào sự ngây thơ của con trẻ kết
cục sẽ khác.
c) Chiến tranh phong kiến là nguyên nhân gián tiếp dẫn đến cái chết của Vũ Nơng. Có ngời nói,
Vũ Nơng chết khi Trơng Sinh đã trở về, nh vậy không thể nói là Vũ Nơng chết do chiến tranh đợc.
Hiểu nh vậy là tách rời cái chết của Vũ Nơng ra khỏi toàn bộ diễn biến câu chuyện. Chính Trơng
Sinh phải đi lính xa nhà nên mới xảy ra sự hiểu lầm đáng tiếc.
d) Ngoài ra, do con thơ vô tình hại mẹ, do Vũ Nơng yếu đuối, do lễ giáo phong kiến khắt khe
cũng góp phần đẩy Vũ Nơng đến cái chết. Song, bao trùm và sâu xa hơn cả, đó là do chế độ xã hội
phong kiến đã không bảo đảm đợc quyền sống, quyền hạnh phúc cho ngời phụ nữ. Số phận họ mỏng
manh ; tai hoạ, oan khiên có thể giáng lên đầu họ bất cứ lúc nào vì những lí do không đâu mà không
đợc bất kì sự bảo vệ nào. Chi tiết "cái bóng" rất ngẫu nhiên, phi lí nhng chính cái ngẫu nhiên phi lí
đó lại đã quyết định số phận một con ngời. Nh vậy, bi kịch của Vũ Nơng đã vợt ra khỏi giới hạn bi
kịch của một gia đình. Đó là bi kịch số phận của một lớp ngời trong xã hội. Giá trị hiện thực và giá
trị nhân đạo của truyện cũng vì thế mà có tầm khái quát cao hơn.

C. Kết bài
- Cái chết của Vũ Nơng gieo vào lòng ngời đọc nỗi thơng xót những ngời phụ nữ bất hạnh trong
xã hội cũ.
- Trong xã hội ta hôm nay, tuy phụ nữ đợc pháp luật bảo vệ, Đảng và Nhà nớc tạo diều kiện, nh-
ng vẫn là giới chịu nhiều thiệt thòi, bất hạnh. Đó đây vẫn còn cảnh những ngời vợ bị chồng tra tấn,
đánh đập tàn nhẫn ; những cô gái bị mua bán, dụ dỗ vào con đờng làm ăn bất lơng; những phụ nữ bị
coi thờng, rẻ rúng vì t tởng trọng nam khinh nữ Bởi vậy, đấu tranh vì sự bình đẳng nam nữ, sự phát
triển của phụ nữ vẫn là cuộc cách mạng lớn của hôm nay. Yêu thơng và giúp đỡ những phụ nữ bất
hạnh là lơng tâm, trách nhiệm của tất cả chúng ta.
đề số 17
Em hãy tóm tắt văn bản Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh trong 10 dòng.
Bài làm
Chúa Trịnh (Trịnh Sâm) vốn ăn chơi xa xỉ đã cho xây dựng nhiều cung điện, đình đài làm hao
tốn rất nhiều tiền của.
Mỗi tháng ba bốn lần, Trịnh Sâm ra cung Thuỵ Liên bên bờ Hồ Tây để đi chơi ngắm cảnh, binh
lính, quan lại theo hầu đông đúc.
Chúa đi đến đâu, mọi thứ chim quý, thú lạ cho đến những cây cổ thụ to lớn đều vơ vét sạch,
sai quân lính khiêng về phủ bày biện.
Bọn hoạn quan nhờ gió bẻ măng, nửa đêm thờng lẻn vào nhà dân ăn trộm cây hoa, chậu cảnh
rồi buộc họ tội "đem giấu vật cung phụng" dậm doạ lấy tiền, khiến ngời dân phải bỏ tiền của kêu
xin, hoặc phá tan vờn hoa, cây cảnh để khỏi gặp tai hoạ.
đề số 18
Một đêm, bọn hoạn quan trong phủ chúa Trịnh đã lẻn vào một nhà dân ăn trộm cây cảnh để
doạ nạt kiếm tiền. Dựa vào văn bản Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh, em hãy đóng vai là một tên
trong bọn chúng kể lại cảnh đó (có sử dụng yếu tố tả cảnh và miêu tả nội tâm).
- 16 -
Tìm hiểu đề
- Kiểu đề : Kể chuyện kết hợp với miêu tả.
- Yêu cầu : Dựa vào các tình tiết chính trong văn bản "Chuyện cũ trong phủ chúa Trịnh" kết
hợp với tởng tợng, hình dung để miêu tả cụ thể hơn các khung cảnh ăn trộm, tâm trạng của bọn hoạn

quan và ngời dân bị doạ nạt tống tiền.
Bài làm
Ta tên là Ngô Lại, hoạn quan trong phủ chúa Trịnh. Chúa Trịnh vốn là ngời ham mê vui chơi,
thích ngao du ngắm cảnh và su tầm chim quý, thú lạ. Trong những chuyến ngao du, hễ thấy nhà dân
nào có đồ vật quý giá, ngài thờng ra lệnh thu lấy bằng hết đem về bày biện trong phủ.
Theo đóm ăn tàn, nhờ gió bẻ măng, bọn ta, phần vì để lấy lòng Chúa, phần vì muốn kiếm chác
chút đỉnh nên nhân cơ hội này nghĩ ra nhiều mánh hay để kiếm tiền và ra oai với lũ dân đen. Ta
nghĩ, thú ăn chơi của Chúa, mọi ngời đã biết cả rồi. Mà ý Chúa là tối thợng, ai dám chống lại? Ta cứ
lẻn vào bất cứ nhà nào có cây hoa chậu cảnh, chim tốt khiếu hay, nói là : "Tại sao dám chống lại ý
Chúa, giấu vật cung phụng? Ta vâng mệnh Chúa thì hô hô ta muốn làm gì mà chả đợc.
Khoái chí với ý nghĩ đó, ngày ngày bọn ta đi dò la xem nhà nào có đồ quý thì biên ngay hai chữ
"phụng thủ" (lấy để dâng lên Chúa). Đêm đến, ta sai ngời lẻn vào lấy trộm. Sáng ra, ta xông thẳng
vào gọi chủ nhà dậy quát nạt, vu cho tội đem giấu vật cung phụng. Thế là vừa đợc của, vừa đợc tiền
đút lót chạy tội.
Một đêm tháng sáu oi ả, mây vần vũ trên bầu trời không trăng không sao báo hiệu một cơn ma
rào sắp tới. Lợi dụng lúc mọi nhà cửa đóng then cài im ỉm để trốn chạy ma gió, bọn ta ăn vận đồng
phục màu đen, nhẹ nhàng lẻn qua tờng rào vào nhà một lão thầy đồ cuối xóm. Nhà này nghèo rớt
nhng lại có mấy chậu phong lan rất đẹp. Nghe đâu của học trò cũ làm việc trên mạn ngợc mới về
thăm, tặng thầy giáo cũ. Ban chiều, bọn ta đã ghé qua và biên giấy "phụng thủ", hẹn ngày mai sẽ tới
đem dâng Chúa. Còn bây giờ, ta đang đứng dới hai giò phong lan. Ta vội vàng sai bọn lính mang đi
rồi rón rén trèo trở ra. Ơn trời, mọi sự đều trót lọt.
Tờ mờ sáng, khi cơn giông đã tạnh, ngôi sao mai còn vằng vặc phía cuối trời, bọn ta đã băm bổ
xông đến nhà lão thầy đồ. Bọn lính lên giọng quát tháo :
- Cây cảnh đâu, đem phụng thủ !
Lúc ấy, cả nhà thầy đồ mới lục tục chạy ra. Họ dáo dác tìm kiếm, nhng mấy giò phong lan tối
qua còn đung đa dới dàn mớp hơng, nay đã không cánh mà bay. Vợ thầy đồ mặt tái mét, miệng lẩm
bẩm :
- Dạ bẩm quan bẩm quan Quả thực nhà con
- Sao ? Mấy giò phong lan đâu ? Nhà chúng mày đã đem giấu rồi phải không ?
- Dạ bẩm quan oan cho chúng con, quả thật, tối qua chúng còn ở đây, vậy mà sao hay là có

kẻ nào đó đã lẻn vào ăn trộm
Ta quắc mắt quát :
- Láo ! Chúng mày can tội đem giấu vật cung phụng, làm trái lệnh Chúa, tội đáng chết. Quân
bay, giải cả nhà chúng nó về phủ cho ta !
Lão thầy đồ tái mặt, đám trẻ la khóc om sòm, vợ lão ta run lẩy bẩy, quỳ mọp xuống đất cầu
xin :
- Bẩm, xin quan thơng chúng con. Quan là đèn trời soi xét, xin quan tìm cách cứu giúp chúng
con khỏi tai hoạ
Ta khoái trá nhng cố nén cời và nói :
- Thôi đợc, nghĩ thơng gia cảnh nhà chúng mày cơ khổ, bần hàn, ta sẽ kêu xin giúp cho. Có bao
nhiêu tiền trong nhà, chúng mày phải đem hết ra đây.
Con mẹ run rẩy, lật bật đi mở tráp. Tìm mãi, tìm mãi chỉ đợc mấy lạng bạc lẻ. Không bõ. Ta cáu
tiết liền sai sục sạo khắp nhà xem có gì đáng giá không. Bọn lính khám xét hồi lâu, thu đợc thêm
một chiếc l hơng bằng đồng, một đôi đèn bạc trên bàn thờ. Món đồ cũng kha khá tiền đây ! Ta hài
lòng sai đem đi. Trớc khi đi, bọn lính còn tranh thủ vơ vét tất cả những gì có thể dùng đợc trong
tiếng khóc van ai oán, tức tởi của vợ con thầy đồ.
Trên đờng về phủ, ta hớn hở, chắc mẩm mấy giò phong lan kia đem ra chợ bán cũng kiếm chác
đợc ít nhiều. Tạ ơn Chúa Trịnh đã thơng lũ hoạn quan chúng con nghèo khổ mà tạo cơ hội cho
chúng con làm ăn. Cầu thần linh phù hộ cho ngài và cho chúng con đêm mai lại hành động trót lọt,
làm ăn thuận lợi.
- 17 -
đề số 19
Em thử tởng tợng mình là Trịnh Sâm tự kể lại ý thích, thói quen ăn chơi xa xỉ của mình, có sử
dụng yếu tố miêu tả.
Bài làm
Ta, Trịnh Vơng, thông minh sáng suốt, từng một tay dẹp yên các phe phái đối lập, lập lại trật tự
kỉ cơng xã hội. Nay, binh đao đã tắt, nớc nhà vô sự, không còn việc gì phải lo lắng, ta chỉ thích ngao
du sơn thuỷ,uống rợu, ngâm thơ cho thoả chí. Ta đã cho xây dựng rất nhiều cung điện, đền đài. Hiện
nay, công việc xây dựng vẫn cứ liên tục, liên tục. Số lợng ngày một nhiều, không lo thiếu chỗ ăn
chơi. Công việc xây dựng tiêu tốn khá nhiều tiền của, nhng không hề gì, miễn là ta thích.

Ta thờng xuyên ngự ở các li cung trên Tây Hồ, núi Tử Trầm, núi Dũng Thuý. Đó là những cung
điện nguy nga tráng lệ, lại rất nên thơ. Cứ mỗi tháng độ 3, 4 lần ta ra cung Thuỵ Liên trên bờ Tây
Hồ ngắm cảnh. Hồ Tây mênh mông, sóng gợn êm đềm, khói sơng bảng lảng khiến lòng ta vô cùng
khoan khoái. Thỉnh thoảng, bọn nhạc công ngồi trên gác chuông chùa Trấn Quốc hoặc dới bóng cây
một bến đá nào đó quanh hồ hoà vài khúc nhạc du dơng réo rắt, trầm bổng, ta tởng nh đang lạc giữa
chốn Bồng Lai tiên cảnh. Ta rất thích thú với cảnh binh lính dàn hầu đông đúc vòng quanh bốn bề
mặt hồ rộng lớn; cảnh các nội thần, thái giám hoá trang đầu bịt khăn, mặc áo đàn bà, bày bách hoá
chung quang bờ hồ để bán. Thật vui, thật ngộ nghĩnh. Thuyền ngự đi đến đâu, các quan hỗ tụng đại
thần tuỳ ý ghé vào bờ mua các thứ nh ở cửa hàng trong chợ. Thật là náo nhiệt. Suốt ngày ta chỉ nghĩ
là nên đi đâu, chơi trò gì, bày đặt ra trò giải trí gì để thoả sức hởng thụ. Các quan lại trong triều tha
hồ cung phụng, chiều theo ý thích của ta. Cuộc sống đối với ta thật dễ chịu!
Ta có cái thú chơi cao sang là su tầm những đồ vật quý trong thiên hạ. Đi đến đâu, cũng sai bọn
hầu cận lùng sục trong dân chúng xem có cái gì đáng giá là tịch thu ngay đem về phủ Chúa. Bao
nhiêu những chim quý, thú lạ, những phiến đá có hình thù kì lạ, chậu hoa cây cảnh ở chốn nhân gian
đều vào tay ta, không thiếu một thứ. Có khi ta lấy cả những cây đa to, cành lá rờm rà cổ thụ, mọc
trên đỉnh núi, phải sai hàng trăm tên mới khiêng nổi, lại phải cho 4 đứa đi kèm, tay cầm gơm, tay
đánh thanh la đốc thúc quân lính khiêng đi cho đều tay.
Trong phủ ta, chỗ này bày hình núi non, sông nớc; chỗ kia vuốt hổ, ngà voi Nửa đêm thanh
vắng, từ trong phủ vang lên tiếng vợn hót chim kêu, thú gầm dữ dội ; khắp bốn bề lúc thì líu lo ríu
rít, lúc thì ồn ào nh trận ma sa gió táp, vỡ tổ tan đàn làm lay động đất trời. Dân chúng khắp nơi nô
nức truyền nhau, xem là sự lạ.
Ta làm bất cứ những gì mà ta thích. Bởi vì ta là một vị Chúa thông minh, tài giỏi và có nhiều
công lao nhất.
đề số 20
Em hãy tóm tắt văn bản Hoàng Lê nhất thống chí, hồi thứ mời bốn một cách đầy đủ, ngắn gọn.
Bài làm
Khi Quang Trung - Nguyễn Huệ kéo quân ra Bắc lần thứ hai để bắt Vũ Văn Nhậm, sợ thanh
thế Tây Sơn, sau khi Nguyễn Huệ đã rút về Phú Xuân, vua Lê Chiêu Thống sợ hãi sang cầu cứu triều
đình Mãn Thanh. Giặc Thanh ồ ạt kéo sang, nhân cơ hội này muốn thôn tính nớc ta làm quận,
huyện. Đợc tin, vua Quang Trung rất giận, bèn bàn bạc với tớng sĩ, sắp sẵn kế hoạch tiến đánh, mở

cuộc duyệt binh, đích thân an ủi và kêu gọi binh sĩ đoàn kết đánh đuổi giặc ngoại xâm.
Quang Trung mở tiệc khao quân, chia quân thành 5 đạo, thân hành cầm quân ra trận, tối 30 tết
lên đờng, hẹn ngày mồng 7 tết sẽ mở tiệc ăn mừng thắng lợi ở kinh thành Thăng Long.
Quân Tây Sơn ra đến sông Gián, quân giặc trấn thủ ở đó tan vỡ, toán quân Thanh đi do thám bị
bắt sống hết. Nửa đêm mồng 3 tết Kỉ Dậu (1789), vua Quang Trung tới Hà Hồi, Thợng Phúc, lặng lẽ
vây kín thành. Quân giặc bấy giờ mới biết, rụng rời sợ hãi xin hàng.
Mờ sáng ngày mồng 5 tết, quân Tây Sơn dàn trận "chữ nhất" tiến sát đồn Ngọc Hồi. Quân
Thanh chống cự không nổi, bỏ chạy tán loạn, giẫm đạp lên nhau mà chết. Tớng giặc là Sầm Nghi
Đống phải thắt cổ tự tử. Phía đông thành Thăng Long, vua Quang Trung nghi binh dồn giặc xuống
đầm Mực, cho voi giày đạp khiến quân giặc kinh hồn bạt vía, chết nh ngả rạ. Giữa tra hôm ấy, quân
Tây Sơn tới thành Thăng Long. Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị đang vui yến tiệc, nghe tin cấp báo, sợ mất
mật. Tớng sĩ chen chúc, giẫm đạp lên nhau chạy trốn về nớc. Vua Lê Chiêu Thống cũng hốt hoảng
chạy trốn sang Trung Quốc. Quân Tây Sơn toàn thắng trớc sự đại bại của quân Thanh.
- 18 -
đề số 21
Hình ảnh ngời anh hùng dân tộc Quang Trung - Nguyễn Huệ qua văn bản Hoàng Lê nhất thống
chí, Hồi thứ mời bốn.
I. Tìm hiểu đề

- Kiểu bài : Nghị luận văn học.
- Yêu cầu : Phân tích, miêu tả hình tợng ngời anh hùng dân tộc Nguyễn Huệ qua đoạn trích hồi
thứ mời bốn.
II. Dàn ý
A. Mở bài
- Trong lịch sử các triều đại Việt Nam, Quang Trung là một vị vua văn võ toàn tài, có công lao
lớn trong sự nghiệp đánh đuổi giặc ngoại xâm.
- Nhân vật lịch sử đó đã đi vào văn chơng nh một hình ảnh đẹp. Đoạn trích Hồi thứ mời bốn,
Hoàng Lê nhất thống chí đã làm toát lên vẻ đẹp hào hùng của ngời anh hùng áo vải trong chiến công
lẫy lừng đại phá quân Thanh.
B. Thân bài

1. Quang Trung là một vị vua yêu nớc thơng dân
a) Nếu Lê Chiêu Thống là một ông vua hèn hạ, sẵn sàng bán nớc để cứu vãn cái ngai vàng sắp
sụp đổ của mình thì Quang Trung là một vị vua đầy khí phách. Khi nghe tin quân Thanh kéo sang
thôn tính nớc ta, vua Quang Trung "giận lắm, liền họp các tớng sĩ, định thân chinh cầm quân đi
ngay".
b) Khi nói chuyện với quân lính, ông khẳng định chủ quyền của dân tộc "đất nào sao ấy", chỉ rõ
tội ác và âm mu xâm lợc của giặc, nêu cao truyền thống đánh giặc giữ nớc của dân tộc ta từ thời Bà
Trng, kêu gọi tớng sĩ "đồng tâm hiệp lực để dựng nên công lớn".
Chỉ vài chi tiết nhỏ, tác giả đã gợi mở cho ngời đọc nhận rõ tấc lòng của một vị vua vì nghĩa
lớn.
2. Vua Quang Trung là ngời có trí tuệ sáng suốt, có tầm nhìn xa trông rộng.
a) Ông rất sáng suốt trong việc nhận định thời cuộc. Ông không chỉ tính sẵn "phơng lợc tiến
đánh" mà còn tính sẵn cả kế hoạch ngoại giao sau khi chiến thắng để "dẹp việc binh đao"; sáng suốt
trong việc xét đoán và dùng ngời, khen chê đúng ngời đúng việc. Lời phủ dụ quân lính của ông nh
một bài hịch ngắn, ý tứ chặt chẽ, sâu xa, có tác dụng khích lệ lòng yêu nớc của nghĩa quân.
b) Quang Trung đặc biệt sáng suốt, nhạy bén trong việc dùng binh: Cuộc hành binh thần tốc do
nhà vua chỉ huy cho đến nay vẫn làm chúng ta không khỏi kinh ngạc. Chỉ trong 5 ngày, ông vừa
tuyển quân, vừa tổ chức đội ngũ, duyệt binh, vừa hành quân đi bộ từ Huế ra Thăng Long. Ông hoạch
định trong 7 ngày sẽ vào ăn mừng chiến thắng ở Thăng Long, nhng chỉ mới 5 ngày, quân Thanh đã
đại bại, quân Tây Sơn thắng lợi lẫy lừng. Tài dụng binh nh thần đã chứng tỏ tầm vóc trí tuệ phi th-
ờng của ngời anh hùng áo vải.
3. Vua Quang Trung là ngời có ý chí, hành động mạnh mẽ, quyết đoán. Từ đầu đến cuối đoạn
trích, ông luôn là một con ngời hành động, hành động quả quyết với ý chí quyết tâm cao.
a) Từ khi nghe tin giặc kéo đến, chỉ trong vòng một tháng, nhà vua đã làm đợc biết bao nhiêu
việc : "tế cáo trời đất", lên ngôi vua, hành quân đánh giặc
b) Mới khởi binh đánh giặc đã hẹn chắc ngày mừng chiến thắng.
c) Quang Trung là một vị anh hùng lẫm liệt trong chiến trận.
a) Không chỉ ra trận trên danh nghĩa để khích lệ ba quân, hoàng đế Quang Trung thân chinh
cầm quân xông pha chốn tên bay đạn lạc. Ông là một vị tổng chỉ huy trực tiếp trên chiến trờng: vừa
vạch kế hoạch tác chiến, vừa tổ chức quân sĩ, tự mình thống lĩnh một đạo quân, một mũi tiến công,

thân chinh chinh cỡi voi đi đốc thúc, xông lên phía trớc Đối lập với Lê Chiêu Thống đê hèn, một
vị hoàng đế quyết hi sinh tính mạng để giành lại vận mệnh dân tộc là một hình ảnh cao đẹp về sự
quên mình vì nghĩa lớn.
b) Hình ảnh Quang Trung cỡi voi xông pha giữa trận mạc, áo bào sạm khói súng, thống soái ba
quân hiệp đồng tiến đánh tứ phía thành Thăng Long khiến quân giặc kinh hồn bạt vía bỏ chạy tháo
mạng là một hình ảnh đầy chất thơ.
- 19 -
c) Khung cảnh chiến trờng với khí thế thừa thắng tiến công rộng khắp của quân Tây Sơn càng
tôn lên vẻ đẹp của vị tổng chỉ huy tài giỏi, anh hùng.
C. Kết bài
- Vua Quang Trung trong đoạn trích là hình ảnh ngời sáng của một vị anh hùng, tiêu biểu cho
sức mạnh quật cờng của dân tộc Việt Nam.
- Hình tợng vua Quang Trung để lại trong lòng chúng ta niềm tự hào về truyền thống đấu tranh
bất khuất chống ngoại xâm của nhân dân ta, cho ta thêm yêu thêm quý và biết ơn những ngời đã có
công lớn với đất nớc.
đề số 22
Sau khi học xong đoạn trích Hồi thứ mời bốn, Hoàng Lê nhất thống chí, em có cảm nghĩ gì về
nhân vật hoàng đế Quang Trung.
Tìm hiểu đề

- Kiểu đề : Nghị luận kết hợp với bộc lộ cảm xúc.
- Yêu cầu : Nêu đợc những cảm xúc và suy nghĩ cuả em về tính cách, phẩm chất của nhân vật
Quang Trung và nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả.
- Để thực hiện đợc yêu cầu trên cần phải :
1. Xác định các đặc điểm của nhân vật Quang Trung.
2. Nêu, phát biểu cảm nghĩ qua từng đặc điểm
3. Nêu nghệ thuật xây dựng nhân vật của tác giả.
(Xem thêm dàn ý đề số 21)
đề số 23
Dựa vào văn bản Hoàng Lê nhất thống chí, Hồi thứ mời bốn, kết hợp sử dụng yếu tố miêu tả nội

tâm, em hãy đóng vai vua Quang Trung kể lại chuyện đánh bại giặc Thanh xâm lợc.
Bài làm
Năm ta kéo quân ra Bắc lần thứ hai để bắt Vũ Văn Nhậm, sợ thanh thế Tây Sơn, sau khi ta rút
về Phú Xuân, Lê Chiêu Thống hèn hạ sang cầu cứu triều đình Mãn Thanh. Giặc Thanh chỉ đợi có
thế, ồ ạt kéo sang, nhân cơ hội này muốn thôn tính nớc ta làm quận, huyện. Đợc tin, ta vô cùng căm
giận. Ta căm lũ giặc tham tàn, độc ác ; giận lũ vua quan bù nhìn bán rẻ đất nớc. Lòng ta nh lửa đốt,
đứng ngồi không yên. Ta liền bàn bạc với tớng sĩ định thân chinh cầm quân đi ngay. Nhng lúc này
lòng dân cha yên, ta đành nghe theo lời khuyên của quần thần, tế cáo trời đất, lên ngôi hoàng đế rồi
mới hạ lệnh xuất quân.
Xong xuôi mọi việc, ta đại hội binh mã thuỷ bộ, sắp sẵn kế hoạch tiến đánh, mở cuộc duyệt
binh, an ủi và kêu gọi binh sĩ đoàn kết đánh đuổi giặc ngoại xâm, mở tiệc khao quân, chia thành 5
đạo, thân hành cầm quân ra trận. Tối 30 tết lên đờng, thời điểm mà quân giặc chủ quan nhất. Ta hẹn
chắc chắn với tớng sĩ là ngày mồng 7 tết sẽ dẫn đại quân vào mở tiệc ăn mừng thắng lợi giữa kinh
thành Thăng Long.
Quân ta ra đến sông Gián, binh lính giặc trấn thủ ở đó tan vỡ. Toán quân Thanh đi do thám bị
bắt sống hết. Nửa đêm mồng 3 tết Kỉ Dậu (1789), quân tiến tới Hà Hồi, Thợng Phúc, lặng lẽ vây
kín thành, bắc loa gọi vào trong. Chỉ đến lúc đó, quân giặc mới biết, rụng rời sợ hãi xin hàng, bao
nhiêu lơng thực khí giới đều bị quân ta tịch thu.
Mờ sáng mồng 5 tết, quân tiến sát đồn Ngọc Hồi. Ta truyền lệnh lấy sáu chục tấm ván, cứ ghép
liền 3 tấm làm một bức, bên ngoài lấy rơm dấp nớc phủ kín, cứ mời ngời khiêng một bức dàn thành
trận chữ "nhất".
Nhân gió bắc, quân Thanh bèn dùng ống phun khói lửa ra để tiêu diệt quân ta nhng không ngờ
trời lại đổi gió nam thiêu đốt lại bọn chúng. Quân Thanh chống cự không nổi, bỏ chạy tán loạn,
giẫm đạp lên nhau mà chết. Tớng giặc là Sầm Nghi Đống phải thắt cổ tự tử. Lờng trớc rằng thế nào
quân Thanh cũng tìm lối chạy trốn, ta bèn sai một toán quân theo bờ đê Yên Duyên kéo lên, mở cờ
gióng trống đánh nghi binh ở phía đông. Quân Thanh tháo chạy trông thấy lại càng hoảng sợ bèn
tìm lối tắt theo đờng Vịnh Kiều. Ta lại cho quân đón đờng, dồn giặc xuống đầm Mực, cho voi giày
đạp khiến quân giặc kinh hồn bạt vía, chết nh ngả rạ. Giữa tra hôm ấy, quân ta tới thành Thăng
Long. Tổng đốc Tôn Sĩ Nghị bấy giờ vẫn đang vui yến tiệc, nghe tin cấp báo, sợ mất mật, không kịp
- 20 -

mặc áo giáp bỏ chạy. Tớng sĩ chen chúc, giẫm đạp lên nhau đến nỗi các cây cầu không chịu nổi đều
bị đứt sập. Sông Nhị Hà vì thế mà tắc nghẽn. Lê Chiêu Thống cũng hốt hoảng chạy trốn sang Trung
Quốc.
Ta vô cùng sung sớng vì đã trả đợc món nợ nớc, rửa sạch vết nhơ nô lệ. Ta đờng hoàng dẫn
quân vào kinh thành Thăng Long, mở tiệc khao quân mừng thắng lợi. Hôm ấy vẫn đang ngày mồng
5 Tết Kỉ Dậu.
đề số 24
Từ văn bản Chị em Thuý Kiều, em hãy kể chuyện tài sắc chị em Thuý Kiều bằng lời của mình.

Bài làm
Vơng Ông và Vơng Bà sinh đợc hai cô con gái đầu lòng vô cùng xinh đẹp. Cô chị tên là Thuý
Kiều, cô em tên là Thuý Vân. Cả hai nàng vóc dáng mảnh mai, thanh tú nh cây hoa mai; tinh thần
trắng trong, tinh khiết nh tuyết. Mỗi ngời đẹp một vẻ, không ai giống ai. Vẻ đẹp của họ đạt đến mức
lí tởng, hoàn mĩ, trọn vẹn mời phân vẹn mời, tởng nh không còn gì có thể đẹp hơn.
Trớc hết nói về Thuý Vân. Thuý Vân đẹp một vẻ đẹp phúc hậu, đoan trang, quý phái hơn ngời.
Khuôn mặt nàng đầy đặn, ngây thơ, trong sáng nh trăng rằm ; nét lông mày cong, đậm; miệng cời t-
ơi nh hoa nở ; tiếng nói trong trẻo nh ngọc rung ; mái tóc đen óng, mợt mà hơn mây ; làn da trắng
mịn màng hơn tuyết. Nét nào ở nàng cũng hoàn hảo hơn những vẻ đẹp vốn có trong trời đất.
Thuý Vân đã đẹp thế, nhng Thuý Kiều còn đẹp hơn. Cả tài và sắc Thuý Kiều đều nổi bật hơn
em. Thuý Kiều đẹp "sắc sảo mặn mà". Một vẻ đẹp nổi bật, có sức hấp dẫn, cuốn hút mạnh mẽ ngời
khác. Đôi mắt nàng trong biếc, xanh thăm thẳm nh làn nớc mùa thu dợn sóng. Đôi lông mày thanh
tú càng tôn thêm vẻ đẹp sâu thẳm của đôi mắt. Đôi mắt ấy thể hiện cái sắc sảo của trí tuệ, sự mặn
mà của tâm hồn nàng. Vẻ đẹp của nàng khiến hoa phải "ghen" ghét vì thua sắc thắm, liễu phải đố kị
vì kém xanh; khiến ngời ta ngẩn ngơ, nghiêng nớc nghiêng thành.
Không chỉ đẹp, Kiều còn rất có tài. Vốn sinh ra, Thuý Kiều đã là một cô gái tài giỏi thông
minh. Theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến, ngời tài là ngời hội đủ cả bốn khả năng : cầm, kỳ, thi,
hoạ. Thuý Kiều là ngời tài theo đúng nghĩa đó. Nàng biết làm thơ, vẽ tranh, biết ca ngâm, thành thạo
âm nhạc và đặc biệt ở lĩnh vực nào cũng xuất sắc hơn ngời. Nàng thuộc lòng các cung bậc âm thanh
ngón đàn điêu luyện. Tự tay nàng đã soạn thảo một bản nhạc có tên là "Bạc mệnh" nói về ngời phận
mỏng, xấu số khiến ai nghe cũng phải sầu não, buồn thơng rơi lệ.

Gia đình Vơng Viên ngoại thuộc tầng lớp phong lu, nền nếp. Hai nàng thiếu nữ họ Vơng dù
xuân xanh đã sắp đến tuổi lấy chồng nhng vẫn sống một cuộc sống yên bình, phẳng lặng, khuôn
phép : "Êm đềm trớng rủ, màn che - Tờng đông ong bớm đi về mặc ai".
đề số 25
Vẻ đẹp của Thuý Kiều, Thuý Vân qua đoạn trích Chị em Thuý Kiều.

Bài làm
Có thể nói, trong "Truyện Kiều", dới ngòi bút miêu tả bậc thầy của thiên tài Nguyễn Du, mỗi
nhân vật dù chính diện hay phản diện đều hiện lên với một chân dung hết sức sinh động, gợi cảm.
Đó là Kim Trọng "phong lu tài mạo tót vời", là Từ Hải "râu hùm hàm én, mày ngài", là Mã Giám
Sinh "mày râu nhẵn nhụi áo quần bảnh bao", là Hồ Tôn Hiến "lạ cho mặt sắt cũng ngây vì tình"
Đặc biệt, nổi bật trong số đó là bức chân dung chị em Thúy Kiều.
Mở đầu đoạn trích "Chị em Thuý Kiều", Nguyễn Du giới thiệu khái quát về hai chị em Thuý
Kiều. Lời giới thiệu cũng chính là một lời ca ngợi :
" Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi ngời một vẻ, mời phân vẹn mời".
Bằng bút pháp ớc lệ, tác giả đã gợi tả vẻ đẹp duyên dáng, thanh cao, trong trắng của ngời thiếu
nữ. Đó là vẻ đẹp của "cốt cách", dáng vẻ thanh tú nh cành mai ; là vẻ đẹp của "tinh thần" trong
trắng, thanh khiết nh tuyết. Câu thơ : "Mỗi ngời một vẻ, mời phân vẹn mời" đã khẳng định sự hoàn
mĩ, hơn ngời của hai nàng và ý thức lý tởng hoá cao độ vẻ đẹp ngời con gái của nhà thơ.
Sau lời giới thiệu chung, lẽ ra theo đúng trật tự nghi lễ phong kiến, tác giả phải giới thiệu Thuý
Kiều trớc. Nhng ở đây, Nguyễn Du lại bắt đầu bằng việc gợi tả vẻ đẹp Thuý Vân :
- 21 -
Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn nét ngài nở nang
Hoa cời ngọc thốt đoan trang
Mây thua nớc tóc, tuyết nhờng màu da.
Nguyễn Du đã sử dụng những hình ảnh thiên nhiên có vẻ đẹp đặc biệt trong trắng, rực rỡ, vững
bền để miêu tả vẻ đẹp của Thuý Vân nh: khuôn trăng, hoa cời, ngọc thốt, mây tuyết Nhà thơ nhấn
mạnh tính chất "trang trọng, đoan trang" của vẻ đẹp Thuý Vân. Khuôn mặt nàng đầy đặn, phúc hậu

tựa trăng rằm ; lông mày cong, đậm ; miệng cời tơi nh hoa nở ; tiếng nói trong trẻo nh ngọc rung;
mái tóc đen óng, mợt mà hơn mây, làn da trắng mịn màng hơn tuyết. Nét nào ở Thuý Vân cũng
hoàn hảo hơn những vẻ đẹp vốn có trong thiên nhiên, trời đất. Nhng điều quan trọng là, vẻ đẹp ấy
luôn tạo đợc sự hoà hợp, êm ấm với xung quanh, báo trớc một cuộc đời bằng phẳng, suôn sẻ. Chỉ với
4 câu thơ, Nguyễn Du đã vẽ nên một chân dung Thuý Vân với những dự cảm về số phận nhân vật.
Thuý Vân đã đẹp, nhng Thuý Kiều còn đẹp hơn. Để thể hiện vẻ đẹp, tài năng của nàng Kiều, tác
giả đã dùng đến 12 câu thơ :
Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh
Một hai nghiêng nớc, nghiêng thành
ấn tợng chung về bức chân dung này là vẻ đẹp "sắc sảo mặn mà" - một vẻ đẹp nổi bật, có sức
hấp dẫn, cuốn hút mạnh mẽ. Nếu miêu tả Thuý Vân, Nguyễn Du đã dừng ở nhiều chi tiết trên khuôn
mặt nàng, thì ngợc lại, khi tả Thuý Kiều tác giả chỉ tập trung vào đôi mắt. Đôi mắt là phần gợi cảm
nhất, phần hồn của khuôn mặt. Đôi mắt thể hiện sự tinh anh của trí tuệ. Đôi mắt Kiều đợc ví nh làn
nớc mùa thu biếc xanh thăm thẳm. Nét lông mày thanh tú càng tôn thêm vẻ đẹp sâu thẳm của đôi
mắt. Nguyễn Du đã thực sự công phu, tinh vi trong việc đặc tả đôi mắt - nơi thể hiện cái sắc sảo của
trí tuệ, cái mặn mà của tâm hồn Thuý Kiều. Bằng sự lựa chọn đó, thi hào đã làm nổi bật chân dung
nhân vật mà ông trân trọng và yêu thơng nhất.
Vẻ đẹp của Thuý Vân khiến mây "thua", tuyết "nhờng", nhng vẻ đẹp của Kiều thì khiến hoa
phải "ghen", liễu phải "hờn". Tuy là ớc lệ, nhng những hình ảnh trên cũng đủ gợi cho ngời đọc ấn t-
ợng mạnh mẽ về vẻ đẹp của một giai nhân tuyệt thế.
Không chỉ đẹp, Kiều còn rất tài :
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi hoạ, đủ mùi ca ngâm
Cung thơng, làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trơng
Khúc nhà tay lựa nên chơng

Một thiên "bạc mệnh" lại càng não nhân".
Theo quan niệm thẩm mỹ phong kiến, ngời tài là ngời hội đủ cả bốn khả năng: cầm, kỳ, thi,
hoạ. Nếu vậy, có thể nói tài năng ở Kiều đã đạt tới mức lý tởng theo quan niệm ấy. Nàng biết làm
thơ, vẽ tranh, biết ca ngâm, thành thạo âm nhạc và đặc biệt ở lĩnh vực nào cũng xuất sắc hơn ngời.
Tài thơ của nàng khiến cho Đạm Tiên phải thốt khen :
Ví đem vào tập Đoạn trờng
Thì treo giải nhất chi nhờng cho ai.
Tài đàn của nàng làm cho chàng Kim, một con ngời "vào trong phong nhã, ra ngoài hào hoa"
cũng phải "ngơ ngẩn". Khúc "Bạc mệnh" do chính nàng soạn làm cho ngời nghe buồn thơng rơi lệ.
Tiếng đàn ấy cũng chính là tiếng lòng của một trái tim nhạy cảm, đa sầu, đa cảm.
Có thể nói, vẻ đẹp của Kiều là sự kết hợp hài hoà giữa sắc và tài. Vẻ đẹp hoàn hảo "mời phân
vẹn mời" khiến tạo hoá cũng phải ghen ghét. Trong quan niệm xa, vẻ đẹp thiên nhiên vốn đợc xem
là chuẩn mực, là thớc đo vẻ đẹp con ngời. Đến Nguyễn Du, chuẩn mực đó dờng nh quá chật hẹp so
với vẻ đẹp của con ngời. Thế nên ông mới miêu tả sự đố kị của tạo vật trớc vẻ đẹp nàng Kiều ("hoa
ghen", "liễu hờn"). Đó cũng chính là sự sắc sảo của Nguyễn Du. Sự đố kị của thiên nhiên dự báo
một cuộc đời đầy sóng gió, giông bão đang đón đợi Kiều. Khúc "Bạc mệnh" ai oán đợc phổ bởi
chính tay nàng giữa tuổi thanh xuân tơi đẹp nhất báo hiệu một số phận éo le, đau khổ của kiếp hồng
- 22 -
nhan. Bởi vậy miêu tả vẻ đẹp của chị em Thuý Kiều, Nguyễn Du qua đó còn muốn gợi tả tính cách,
dự báo số phận, thân phận của mỗi ngời sau này.
Trình tự miêu tả nhân vật của Nguyễn Du mang đầy dụng ý. Trớc hết tác giả miêu tả Thuý Vân
- một bức chân dung đẹp tởng không còn vẻ đẹp nào hoàn hảo hơn. Đến Thuý Kiều, mặc dù cũng
gợi tả bằng vài hình ảnh ớc lệ và đặc tả đôi mắt, tài năng "vốn sẵn tính trời" của nàng, thế nhng dờng
nh bức chân dung Thuý Vân đã trở nên khiêm nhờng trớc bức hoạ nàng Kiều. Đó là nghệ thuật đòn
bẩy, "hoạ mây lẩy trăng" đầy tài tình của tác giả. Mặt khác, gợi tả tài sắc chị em Thuý Kiều, Nguyễn
Du trân trọng, đề cao vẻ đẹp toàn vẹn, lí tởng của con ngời - tác phẩm nghệ thuật hoàn hảo nhất của
tạo hoá. Nó mang đậm cảm hứng ngỡng mộ, ngợi ca của thi hào Nguyễn Du.
Nhân vật là hình thức khái quát đời sống, là nơi bộc lộ quan điểm của nhà văn về con ngời.
Nhân vật Thuý Vân, Thuý Kiều không chỉ chuyển tải đợc những chức năng ấy, mà cao hơn đã trở
thành điển hình nghệ thuật, chuẩn mực của văn học trung đại. Liệu còn bức chân dung nào "đoan

trang" trong sáng hơn Thuý Vân, đẹp và tài năng hơn Thuý Kiều?
đề số 26
Có ý kiến cho rằng, Cảnh ngày xuân là một trong những bức tranh đẹp vào loại bậc nhất
Truyện Kiều. Em có đồng ý với ý kiến này không? Cảm nghĩ của em sau khi đọc đoạn trích.
Tìm hiểu đề
- Kiểu đề : Nghị luận kết hợp với miêu tả, bộc lộ cảm xúc.
-Yêu cầu :
. Đánh giá chung vẻ đẹp, giá trị của bức tranh ngày xuân.
. Phân tích đoạn trích, qua đó bộc lộ cảm xúc, nhận xét của riêng em về giá trị nội dung, nghệ
thuật của đoạn trích.
Bài làm
Trong thơ xa, thiên nhiên không chỉ là trung tâm của cái đẹp mà còn là nơi gửi gắm tâm sự, t t-
ởng, tình cảm của thi nhân. Với Truyện Kiều bất hủ, thi hào Nguyễn Du đã giành đến 222 câu miêu
tả thiên nhiên. Ai đã từng yêu Truyện Kiều không thể không nhớ, không yêu bộ tứ bình xuân, hạ,
thu, đông bằng thơ tuyệt đẹp đợc đan cài trong tác phẩm :
Mùa xuân :
Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa.
Mùa hạ :
Dới trăng quyên đã gọi hè
Đầu tờng lửa lựu lập loè đâm bông
Mùa thu :
Long lanh đáy nớc in trời
Thành xây khói biếc non phơi bóng vàng
Mùa đông :
Sen tàn cúc lại nở hoa
Sầu dài, ngày ngắn, đông đà sang xuân.
Bây giờ chúng ta thử đi vào Cảnh ngày xuân, nơi diễn ra cuộc du xuân của ba chị em Thuý
Kiều. Đoạn trích mở đầu bằng khung cảnh rất đặc trng của mùa xuân : Bầu trời rực rỡ ánh sáng; trên
cao, từng đàn chim én bay liệng nhịp nhàng. Hình ảnh "con én đa thoi" vừa gợi sự trôi chảy của thời

gian (thời gian thấm thoắt nh chiếc thoi dệt vải, ngày xuân thoắt đến rồi sẽ thoắt qua) ; vừa gợi
không gian (những cánh én rộn ràng bay liệng nh thoi đa giữa bầu trời trong sáng).
Nhng có lẽ cái thần thái tuyệt đẹp của mùa xuân nằm ở 2 câu thơ :
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa"
Trớc mắt ta mở ra một không gian mênh mông trải rộng tới chân trời. Trên cái nền xanh tơi
sáng vô tận của cỏ non, nhà hoạ sĩ ngôn từ điểm xuyết vài bông lê trắng muốt. Vẻ đẹp của mùa xuân
đợc gợi lên với tất cả sự mới mẻ, tinh khôi, thanh khiết, giàu sức sống. Nguyễn Du quả là bậc thầy
về khả năng sử dụng ngôn ngữ. Trong thơ ông, tiếng Việt không chỉ giàu, đẹp, trong sáng mà còn
hết sức tinh tế, gợi cảm. Bốn câu thơ đầu đã phác hoạ một bức tranh thiên nhiên diễm lệ và tơi sáng.
- 23 -
Cảnh sắc mùa xuân của thiên nhiên đất trời hoà hợp tuyệt đẹp với lòng ngời, với cuộc sống con ng-
ời :
Thanh minh trong tiết tháng ba
Lễ là tảo mộ hội là đạp thanh
Gần xa nôn nức yến anh
Chị em sắm sửa bộ hành chơi xuân
Dập dìu tài tử giai nhân
Ngựa xe nh nớc, áo quần nh nêm
Khung cảnh lễ hội thật tng bừng, náo nhiệt. Tiết thanh minh, khí trời mát mẻ, trong trẻo ; ngời
ngời đi viếng thăm, sửa sang phần mộ để tởng nhớ ngời thân đã khuất và du xuân thởng ngoạn.
Từng đoàn ngời nhộn nhịp, nô nức kéo nhau đi, ríu rít nh chim oanh chim én mùa xuân. Thanh minh
cũng là dịp hội ngộ của tuổi thanh xuân. Những ngời trẻ tuổi, nam thanh nữ tú, trai tài gái sắc "ngựa
xe nh nớc, áo quần nh nêm" dập dìu gặp gỡ, hẹn hò Một không khí đông vui, náo nức. Một mùa
vui đang bao trùm cả đất trời, cả nhân gian.
Nhng tiệc vui nào rồi cũng đến hồi kết thúc. Những ngời tảo mộ đang hoàn thành nốt phần việc
cuối cùng của mình là rải vàng mã, đốt hoá vàng tiền để gửi xuống cho ngời thân đã khuất theo tục
lệ :
Ngổn ngang gò đống kéo lên
Thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay.

Ngày dần tàn. Mặt trời đã chênh chếch phía tây. Cùng với hoàng hôn của cảnh vật, lòng ngời d-
ờng nh cũng đang chìm trong một cảm xúc, một trạng thái bâng khuâng khó tả :
Chị em thơ thẩn dan tay ra về
Bớc dần theo ngọn tiểu khê
Lần xem phong cảnh có bề thanh thanh
Nao nao dòng nớc uốn quanh
Dịp cầu nho nhỏ cuối ghềnh bắc ngang.
Trong văn chơng, hình ảnh hoàng hôn, chiều tà thờng gợi lên cảm giác buồn thơng, tàn tạ, thê l-
ơng. Cuộc du xuân thởng cảnh vừa náo nức, tng bừng là thế giờ đã lặng lẽ chìm vào cô tịch. Tâm
trạng con ngời không khỏi lu luyến, bâng khuâng, hụt hẫng. Gam màu tơi sáng rực rỡ của bức tranh
mùa xuân đến đây đợc thay bằng màu nhạt nhoà của nắng chiều bảng lảng. Cảnh vật vẫn đẹp, vẫn
nên thơ với "dòng nớc uốn quanh", "nhịp cầu nho nhỏ" nhng đã thiếu vắng đi rất nhiều hơi thở của
con ngời. Bớc chân thơ thẩn trên dặm đờng về của chị em Kiều nh có cái gì đó giăng mắc, khó nói.
Các từ láy "tà tà", "thanh thanh", "nao nao" không chỉ gợi tả cảnh vật, gợi cảm giác nuối tiếc về
ngày vui trôi mau mà còn linh cảm một điều gì đó không mấy tốt lành sắp xảy ra trong tâm hồn đầy
nhạy cảm của Thuý Kiều.
Có thể thấy, phong cảnh thiên nhiên trong Truyện Kiều nói chung và "Cảnh ngày xuân" nói
riêng có những điểm khác với "thiên nhiên truyền thống" trong thơ ca á Đông xa. Cảnh ở đây
không tĩnh tại mà thờng đợc mở ra theo không gian, thời gian, theo bớc chân, cái nhìn, cảm xúc của
con ngời. Do vậy, cảnh ấy "thật" hơn, có hồn hơn.
Nh vậy, có thể nói, "Cảnh ngày xuân" là một trong những bức tranh thiên nhiên đẹp nhất
"Truyện Kiều". Bức hoạ thiên tài gồm hai mảng màu vừa tơng phản vừa hài hoà. Sáng xuân tinh khôi
náo nức và chiều tà bảng lảng gợi những liên tởng xa xôi về số phận cuộc đời nhân vật chính - Thuý
Kiều. Cảnh sắc ấy gắn với tháng ngày thanh xuân trong sáng, êm đềm của nàng. Cuộc du xuân là sự
kiện mở màn cho cuộc đời thiếu nữ phong lu và xuân sắc của Thuý Kiều. Cũng chính nơi này, nàng
sẽ gặp định mệnh cuộc đời và tình yêu buổi ban đầu đầy mê say, để rồi sau đó không bao giờ còn
gặp lại phút thanh thiên dạo gót vô t thời thiếu nữ.
Đoạn thơ để lại trong em bao niềm vui xen lẫn nỗi tiếc nuối xót xa. Một nàng Kiều tài hoa, xinh
đẹp và đáng yêu nh thế, một khởi đầu cuộc đời đẹp đẽ, êm đềm nh thế lại kết thúc bằng một chuỗi
những đau khổ đoạn trờng suốt mời lăm năm lu lạc. Trong lòng em vọng lên một câu hỏi lớn : Làm

thế nào để mùa xuân ở lại mãi với cuộc đời một con ngời ?
đề số 27
Trong mơ, em đã lạc vào chốn du xuân và gặp gỡ chị em Thuý Kiều trong tiết thanh minh. Em
hãy kể lại cuộc gặp gỡ thú vị đó.
- 24 -
Bài làm
Cha đọc xong cho bà nghe một đoạn Kiều, tôi đã ngủ lúc nào không biết. Tôi thấy mình đang
đứng giữa một vùng trời đất bao la rộng lớn trong một buổi sáng mùa xuân.
Cảm giác nh hơi thở mùa xuân vơng trên vạn vật. Bầu trời trong xanh, từng tia nắng xuân lấp
lánh đậu trên những cành cây, sơng long lanh treo trên từng ngọn biếc. Khí trời mát mẻ và trong
trẻo. Từng đàn chim én ríu rít chao liệng giữa bầu trời nh muốn tận hởng hết sắc xuân. Tôi phóng
tầm mắt ra xa và choáng ngợp trớc một khung cảnh còn tuyệt diệu hơn. Một tấm thảm óng mợt nh
nhung đợc dệt từ muôn ngàn sợi tơ làm từ cỏ non trải rộng khắp mặt đất, hắt lên nền trời một sắc
xanh bất tận. Trên cái nền xanh vô tận ấy, một vài bông hoa lê trắng muốt điểm xuyết khoe sắc cùng
vạn vật. Có lẽ chỉ có khoảnh khắc này đây, mùa xuân mới đẹp đến thế, tơi tắn và tinh khôi đến thế.
Buổi sáng mùa xuân diễm lệ và tơi sáng quá. Bất chợt, hai câu Kiều văng vẳng bên tai tôi :
"Cỏ non xanh tận chân trời
Cành lê trắng điểm một vài bông hoa".
Tôi mải mê đi, mải mê ngắm cảnh, rồi không biết tự lúc nào chân đã lạc bớc vào một khung
cảnh lễ hội náo nức. Tiết thanh minh, ngời ngời, nhà nhà du xuân thởng ngoạn cảnh đẹp ; viếng
thăm, sửa sang phần mộ để tởng nhớ những ngời thân đã khuất. Cảnh tợng nhộn nhịp, nô nức, ríu rít
nh chim oanh chim én mùa xuân. Nơi gặp lại linh hồn những ngời đã khuất cũng là nơi hội ngộ của
những ngời đang sống, nơi tụ hội tuổi thanh xuân. Từng đoàn ngời trẻ tuổi, nam thanh nữ tú, trai tài
gái sắc "ngựa xe nh nớc, áo quần nh nêm" dập dìu gặp gỡ, hẹn hò Tởng nh một mùa vui đang bao
trùm cả nhân gian, trời đất.
Tôi nh mê đi cùng với cảnh vật. Lòng mỗi lúc thêm xốn xang. Chân cuốn theo dòng ngời tảo
mộ. Đâu đâu cũng thấy "thoi vàng vó rắc, tro tiền giấy bay". Đang bớc, tôi bỗng khựng lại. Không
thể tin vào mắt mình, dờng nh , không, chắc chắn rồi, kia là 3 chị em nàng Kiều của cụ Nguyễn
Du: Vơng Quan, Thuý Vân và Thuý Kiều. Tôi nhận ra Thuý Vân và Thuý Kiều giữa muôn ngời qua
lại bởi vẻ đẹp mời phân vẹn mời không dễ thấy ở hai nàng. Này đây, rõ ràng là nét "trang trọng khác

vời", "khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang", phúc hậu của nàng Vân. Còn đây đúng là vẻ đẹp "sắc
sảo mặn mà" nghiêng nớc nghiêng thành với "làn thu thuỷ, nét xuân sơn" chỉ có ở nàng Kiều. Quả
thật, "mỗi ngời một vẻ, mời phân vẹn mời". Họ thớt tha, yêu kiều, e lệ trong những bộ xiêm y lộng
lẫy. Họ rực rỡ trong ánh nắng xuân, nổi bật giữa dòng ngời du xuân trẩy hội đông đúc. Khi họ xuất
hiện giữa lễ hội, thiên nhiên dờng nh càng đẹp hơn, bầu trời nh trong xanh hơn, chim én thêm rộn
ràng tung cánh và cỏ cây hoa lá cũng nh muốn rung rinh, toả hơng theo gót hai nàng. Họ đi đến đâu,
những ánh mắt ngỡng mộ, yêu mến đổ dồn theo đến đấy. Tôi bèn ráng hết sức, rẽ đám đông tiến lại
gần chị em Thuý Kiều và cất tiếng chào :
- Em chào hai chị, chào anh. Hai chị và anh đi chơi có vui không ạ ?
Ba ngời nhìn tôi, mỉm cời thân thiện rồi nhẹ nhàng gật đầu :
- Chào em. Vui lắm em ạ Chúc em đi chơi vui nhé
Tôi cha kịp đáp lại, dòng ngời đã đẩy tôi ra xa. Tôi đành tìm một nơi thoáng đãng đứng dõi mắt
theo hai nàng. Mãi ngắm họ, tôi quên mất thời gian trôi qua, trời về chiều từ lúc nào không biết. Mặt
trời ngả bóng về phía tây. Khắp không gian đang dần khoác lên mình tấm áo màu hoàng hôn vàng
êm dịu. Rồi không khí nhộn nhịp, tng bừng của buổi du xuân tha vắng dần. Ngày vui đi qua trả lại
sự yên lành và chút lặng lẽ vốn có nơi mộ địa.
May sao trên đờng trở về tôi lại gặp chị em Thuý Kiều. Tôi định chạy tới tiếp tục chuyện trò
với họ, nhng có một cái gì đó ngăn tôi lại. Hai nàng Kiều dờng nh cha muốn về. Họ bâng khuâng b-
ớc, vừa đi vừa tha thẩn ngắm cảnh lúc chiều buông. Hoàng hôn thờng gợi trong lòng ta cảm giác
buồn thơng, tàn tạ. Cuộc du xuân thởng cảnh vừa náo nức, tng bừng là thế, giờ đã lặng lẽ chìm vào
cô tịch. Tâm trạng hai nàng Kiều chắc không khỏi lu luyến, hụt hẫng. Dù cảnh vẫn đẹp, vẫn nên thơ
với "dòng nớc uốn quanh", "nhịp cầu nho nhỏ" nhng có cái gì đó đã mất, đã thiếu vắng. Bớc chân
thơ thẩn trên dặm đờng về của hai nàng, đặc biệt trong cái dáng đăm chiêu thẫn thờ của Thuý Kiều
nh ẩn chứa nỗi bồi hồi khôn tả. Dờng nh nàng đang mong ngày vui đừng qua nhanh, những điều tốt
lành luôn ở lại. Nhng số phận Kiều thì tôi đã biết rồi.
Lòng tôi bỗng nao nao thơng cảm. Tôi không thể hiểu đợc vì sao một ngời con gái tài sắc vẹn
toàn bậc nhất nh Thuý Kiều lại phải chịu định mệnh cay đắng oan khiên vào loại bậc nhất nh vậỵ ?
Liệu lúc này đây, nàng đã có linh cảm gì về cuộc đời hoa trôi, bèo dạt tan tác giữa dòng sau này hay
cha Không, tôi phải nói cho nàng biết, nhất định tôi phải nói cho nàng biết trớc để nàng chống trả
- 25 -

×