Tải bản đầy đủ (.pdf) (22 trang)

Nghiên cứu bản chất kế tóan qua các khái niệm về kế tóan (Phần 1) doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.06 KB, 22 trang )

Nghiên cứu bản chất kế tóan qua
các khái niệm về kế tóan (Phần 1)
Có nhiều cách tiếp cận về kế toán, vì vậy có rất nhiều định
nghĩa khác nhau về kế toán. Tuy nhiên, những định nghĩa này
đều thống nhất với nhau ở chỗ: kế toán là một hệ thống của
những khái niệm và phương pháp, hướng dẫn chúng ta thu thập,
đo lường, xử lý và truyền đạt những thông tin cần thiết cho việc
ra những quyết định tài chính hợp lý. Sau đây là một số định
nghĩa đã được đưa ra:
+ CÁC ĐỊNH NGHĨA KẾ TOÁN CỦA VIỆT NAM

ĐỊNH NGHĨA 1: Trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bản chất
của kế toán được nhận định “Kế toán xã hội chủ nghĩa là công
việc tính toán, ghi chép, phản ánh bằng con số một cách liên tục,
toàn diện và hệ thống các loại vật tư, tiền vốn và mọi hoạt động
kinh tế, qua đó mà giám đốc tình hình thực hiện kế hoạch nhà
nước; tình hình bảo vệ tài sản xã hội chủ nghĩa.”

ĐỊNH NGHĨA 2: Điều lệ tổ chức kế toán nhà nước đã ghi rõ: “Kế
toán là công việc ghi chép, tính toán bằng con số dưới hình thức
giá trị, hiện vật và thời gian lao động, chủ yếu dưới hình thức giá
trị để phản ánh, kiểm tra tình hình vận động của các loại tài sản,
quá trình và kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh, sử dụng vốn
và kinh phí của nhà nước cũng như của từng tổ chức xí nghiệp.”

ĐỊNH NGHĨA 3: Theo TS. Trần Anh Hoa, trong luận án tiến sĩ của
mình đã đưa ra định nghĩa như sau: “Kế toán là một khoa học liên
quan đến việc thu thập, đo lường, xử lý và truyền đạt các thông
tin tài chính và phi tài chính hữu ích của một tổ chức đến các đối
tượng sử dụng để trên cơ sở đó đề ra các quyết định hợp lý.”


ĐỊNH NGHĨA 4: Theo website www.vcci.com.vn thì “Kế toán là
nghệ thuật thu nhận, xử lý và cung cấp thông tin về toàn bộ tài
sản và sự vận động của tài sản (hay là toàn bộ thông tin về tài
sản và các hoạt động kinh tế tài chính) trong doanh nghiệp nhằm
cung cấp những thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định về
kinh tế - xã hội và đánh giá hiệu quả của các hoạt động trong
doanh nghiệp.”

ĐỊNH NGHĨA 5: Theo Website www.kiemtoan.com.vn thì “Kế toán
được định nghĩa là một hệ thống thông tin đo lường, xử lý và
cung cấp thông tin hữu ích cho việc ra các quyết định điều hành
hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp.”

ĐỊNH NGHĨA 6: Theo Luật kế toán Việt Nam 2003 “Kế toán là
việc thu thập, xử lý, kiểm tra, phân tích và cung cấp thông tin kinh
tế, tài chính dưới hình thức giá trị, hiện vật và thời gian lao động.”

+ CÁC ĐỊNH NGHĨA KẾ TOÁN CÁC NƯỚC TRÊN THẾ GIỚI

ĐỊNH NGHĨA 7: Khái niệm hướng đến phương pháp, đây là loại
khái niệm mà Luca Pacioli (1447-1517) – nhà toán học vĩ đại
người Ý có nhiều đóng góp cho ngành kế toán thế giới, đã đưa ra
cuốn “Chú giải về tài khoản và các bút toán” mà theo đó, “có 3
điều kiện cần thiết cho bất cứ ai muốn kinh doanh: thứ nhất, là
phải có tiền; thứ hai, người chủ doanh nghiệp phải có khả năng
tính toán nhanh và đồng thời biết lập sổ sách kế toán; và điều
kiện sau cùng là phải có khả năng tổ chức công việc một cách
khoa học, linh động nhằm đảm bảo tiến độ hoạt động kinh
doanh.”


ĐỊNH NGHĨA 8: Khái niệm hướng đến nội dung, cốt lõi vấn đề,
đại diện tiêu biểu của trường phái này là nhà kinh tế học nổi tiếng
của Pháp J.Furaste, ông cho rằng “hệ thống kế toán là một lĩnh
vực khoa học hiện đại với mục đích tính toán giá trị tài sản của
doanh nghiệp, đồng thới xác định giá trị của vốn đầu tư”. Khái
niệm này chỉ ra hình thức tồn tại của quy trình kế toán mà chưa
nêu ra được lý do của việc tính toán giá trị tài sản cũng như việc
xác định vốn đầu tư của doanh nghiệp.

ĐỊNH NGHĨA 9: Khái niệm nghiêng về mục đích, kết quả, cuối thế
kỷ 19, nhiều kế toán viên nhận ra một thực tế rằng, người ta cần
hệ thống sổ sách giấy tờ kế toán không phải chỉ để đánh giá giá
trị tài sản doanh nghiệp hay giá trị vốn đầu tư mà nhằm mục đích
quản lý. Chính vì vậy mà E. Pizani – một kế toán viên người Ý đã
đưa ra một định nghĩa về kế toán như sau: “Kế toán là khoa học
sử dụng các phép tính toán, dựa trên các quy định của pháp luật
và kinh tế nhằm mục đích quản lý đồng thời để đạt được những
hiệu quả kinh tế khả quan nhất”

ĐỊNH NGHĨA 10: Theo Sokolov, một chuyên gia hàng đầu về kế
toán tại Nga thì “kế toán là ngôn ngữ của các ký hiệu cũng như
quy ước sử dụng và được tạo ra với mục đích làm thay thế các
đối tượng thực tế bằng các ký hiệu hay biểu tượng, cho phép
phản ánh một cách trung thực hoạt động kinh doanh cùng các kết
quả của hoạt động kinh doanh đó”

Sokolov cũng đưa ra hai khái niệm về kế toán. Xét về khía cạnh
lý thuyết, “kế toán chính là khoa học về bản chất cũng như cấu
trúc các sự kiện diễn ra trong cuộc sống, trong hoạt động kinh
doanh của con người. Nhiệm vụ của kế toán là phản ánh nội

dung của các quá trình hoạt động kinh doanh cũng như mối liên
hệ giữa các phạm trù luật pháp và phạm trù kinh tế trong quá
trình hoạt động kinh doanh đó.”

Còn nếu xét từ khía cạnh thực tế, “kế toán là một quá trình theo
dõi, phân loại, tổng hợp, phân tích và chuyển tải thông tin về các
sự kiện xảy ra trong hoạt động kinh doanh của con người. Nhiệm
vụ của kế toán xét từ khía cạnh này là việc đưa ra các nguồn
thông tin phục vụ cho mục đích quản lý.”

ĐỊNH NGHĨA 11: Một định nghĩa về kế toán được chấp nhận
trong suốt thời gian qua là định nghĩa được trình bày trong “Báo
cáo về lý thuyết kế toán căn bản” ban hành bởi Hiệp hội Kế toán
Hoa Kỳ: “Kế toán là một tiến trình ghi nhận, đo lường, và cung
cấp các thông tin kinh tế nhằm hỗ trợ cho các đánh giá và các
quyết định của người sử dụng thông tin”

ĐỊNH NGHĨA 12: Uy ban nguyên tắc kế toán của Mỹ (APB), trong
thông báo số 4, đã định nghĩa. “Kế toán là một dịch vụ. Chức
năng của nó là cung cấp thông tin định lượng được của các tổ
chức kinh tế, chủ yếu là thông tin tài chính giúp người sử dụng đề
ra các quyết định kinh tế.”

ĐỊNH NGHĨA 13: Uy ban thuật ngữ của học viện kế toán viên
công chứng của Mỹ (AICPA) đã định nghĩa: “Kế toán là một nghệ
thuật dùng để ghi chép, phân loại và tổng hợp theo một phương
pháp riêng có dưới hình thức tiền tệ về các nghiệp vụ, các sự
kiện kinh tế và trình bày kết quả của nó cho người sử dụng ra
quyết định.”


ĐỊNH NGHĨA 14: Giáo sư, Tiến sĩ Robert Anthony – một nhà
nghiên cứu lý luận kinh tế nội tiếng của trường Đại học Harvard
của Mỹ cho rằng “Kế toán là ngôn ngữ kinh doanh”

ĐỊNH NGHĨA 15: Giáo sư, tiến sĩ Grene Allen Gohlke của Viện
Đại Học Wisconsin lại định nghĩa: “Kế toán là một khoa học liên
quan đến việc ghi nhận, phân loại, tóm tắt và giải thích các
nghiệp vụ tài chính của một tổ chức, giúp cho Ban giám đốc có
thể căn cứ vào đó để ra các quyết định kinh tế”

ĐỊNH NGHĨA 16: Trong cuốn sách “Nguyên lý kế toán Mỹ”,
Ronnald J. Thacker nêu quan điểm của mình về kế toán xuất phát
từ việc cung cấp thông tin cho công tác quản lý. Theo Ronnald J.
Thacker “Kế toán là một phương pháp cung cấp thông tin cần
thiết cho quản lý có hiệu quả và để đánh giá hoạt động của mọi tổ
chức”

ĐỊNH NGHĨA 17: Theo Uy ban thực hành kiểm toán quốc tế
(International Auditing Practices Committee) thì “Một hệ thống kế
toán là hàng loạt các nhiệm vụ ở một doanh nghiệp mà nhờ hệ
thống này các nghiệp vụ được xử lý như một phương tiện duy trì
các ghi chép tài chính”

ĐỊNH NGHĨA 18: Khi định nghĩa về kế toán, Liên đoàn kế toán
quốc tế (IFAC) cho rằng: “Kế toán là nghệ thuật ghi chép, phân
loại tổng hợp theo một cách riêng có bằng những khoản tiền các
nghiệp vụ và các sự kiện mà chúng có ít nhất một phần tính chất
tài chính và trình bày kết quả của nó”

Tiến hành phân tích các định nghĩa kế toán, chúng ta thấy nổi lên

các quan điểm sau:

=> KẾ TOÁN LÀ NGHỆ THUẬT HAY KHOA HỌC

Có khái niệm cho rằng “Kế toán là nghệ thuật”, có khái
niệm cho rằng “Kế toán là khoa học”, có khái niệm cho rằng kế
toán là một hoạt động “dịch vụ” và ngụ ý kế toán bao hàm những
kỹ thuật nhằm để sử dụng cho một số lĩnh vực nhất định, dịch vụ
ở đây cũng hàm ý là “Kế toán là nghệ thuật”

Đã có nhiều cuộc tranh luận với những quan điểm khác
nhau: “Kế toán là một nghệ thuật hay một khoa học?”

Những người cho rằng kế toán là một nghệ thuật, đề nghị
các kỹ năng của kế toán cần thiết cung cấp để trở thành nhà kinh
doanh giỏi, phải được giảng dạy và cách tiếp cận hợp pháp với
kế toán phải được đảm bảo.

Những người ủng hộ kế toán là một khoa học đề nghị thay
vì giảng dạy các mô hình đo lường của kế toán cho các sinh viên,
chuyên ngành kế toán, thì cung cấp cho họ những cái nhìn thấu
đáo hơn về quan điểm đối với kế toán qui ước, thừa nhận con số
phát sinh đang cố gắng như thế nào để thoả mãn mục tiêu phục
vụ các như cầu của người sử dụng; và gợi ý những suy nghĩ về
lĩnh vực đó và những động lực thay đổi của kế toán.

Cho dù có những quan điểm khác nhau, nhưng phần đông
các quan điểm cho rằng kế toán là một khoa học lý luận phù hợp
hoàn hảo với quan điểm hiện nay được Mantz phát biểu: “Kế toán
có quan hệ với các doanh nghiệp mà chắc chắn là những nhóm

người trong xã hội, nó quan tâm đến các giao dịch và những sự
kiện kinh tế khác mà có hậu quả về mặt xã hội và ảnh hưởng đến
các mối quan hệ xã hội và có ý nghĩa cho người làm việc trong
các hoạt động có liên quan với xã hội, tóm lại kế toán là một khoa
học xã hội.”


=> PHẠM VI CÔNG VIỆC KẾ TOÁN

Các định nghĩa trước đây về kế toán thường chú trọng đến
các nhiệm vụ giữ sổ sách cố hữu của kế toán đó là ghi chép,
phân loại và tổng hợp các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Tuy nhiên
ngày nay, định nghĩa hiện đại về kế toán rộng hơn nhiều, kế toán
là một hệ thống thông tin cung cấp thông tin định lượng. Vì vậy,
người kế toán ngày nay không chỉ quan tâm đến việc giữ sổ sách
mà đến toàn bộ các hoạt động bao gồm việc hoạch định chương
trình và giải quyết vấn đề; hướng sự quan tâm của lãnh đạo đến
những điều cần lưu tâm, đánh giá và duyệt xét các hoạt động của
doan nghiệp và kiểm tra sổ sách. Người kế toán ngày nay chú
trọng đến những nhu cầu bức thiết của những người sử dụng
thông tin kế toán, dù những người sử dụng này ở trong hay ngoài
đơn vị kinh doanh.

Kế toán được định nghĩa như là một hệ thống thông tin
dùng để đo lường, xử lý và truyền đạt những thông tin về tài
chính của một đơn vị kinh tế. Thông tin này giúp người sử dụng
có thể đưa ra các quyết định hợp lý của mình.

Theo quan điểm này, kế toán được xem như là gạch nối
giữa các hoạt động kinh doanh và những người làm quyết định.

Thứ nhất, kế toán đo lường các hoạt động kinh doanh bằng cách
ghi chép. Thứ hai, các thông tin được ghi chép sẽ được xử lý để
trở thành các thông tin hữu ích. Thứ ba, thông tin này được
truyền đạt qua các bảng báo cáo đến những người sử dụng để ra
các quyết định.

Người ta nói rằng các dữ kiện về hoạt động kinh doanh là
đầu vào của hệ thống kế toán và những thông tin hữu ích cho
người ra quyết định là đầu ra đã được hệ thống kế toán xử lý và
cung cấp.

Người ta thường nhầm lẫn giữa kế toán và ghi chép kế
toán. Việc ghi chép kế toán là một quá trình hay nói đúng hơn là
một công đoạn của kế toán, là phương tiện để ghi chép các
nghiệp vụ kinh tế phát sinh và giữ sổ sách. Việc ghi chép lặp đi
lặp lại có tính cách máy móc là một phần nhỏ, đơn giản nhưng
quan trọng của kế toán. Trái lại, kế toán thì lại khác, nó bao gồm
việc thiết kế một hệ thống thông tin đáp ứng được nhu cầu của
người sử dụng thông tin về kế toán. Mục tiêu chính của kế toán là
phân tích, giải trình và sử dụng thông tin.

=> MỤC ĐÍCH CÔNG VIỆC KẾ TOÁN

Bản chất kế toán và lý luận của nó chịu sự chế định lịch sử,
mà tính chế định lịch sử của kế toán là do hình thái kinh tế xã hội
gây nên. Vì vậy, mục đích của kế toán có sự khác nhau ở các
hình thái kinh tế xã hội khác nhau.

Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế kế hoạch hóa tập
trung, Nhà nước làm chủ tất cả các nguồn lực sản xuất và cung

cấp tất cả nhu cầu vốn, các xí nghiệp quốc doanh hoạt động theo
phương thức “cấp phát vật tư và giao nộp sản phẩm” theo kế
hoạch cấp trên giao. Mặt khác, các xí nghiệp lại bị giới hạn về
quyền quyết định nên nhu cầu thông tin nội bộ hầu như không
phải là vấn đề thiết yếu. Do vậy, mục đích của kế toán trong cơ
chế kinh tế này là nhằm cung cầp thông tin cho Nhà nước để
kiểm tra tình hình thực hiện kế hoạch. Chức năng của kế toán là
phản ánh và giám đốc tài sản xã hội chủ nghĩa và các hoạt động
kinh tế. Vì thế, trong cơ chế kế hoạch hóa tập trung, bản chất của
kế toán được nhận định như trong định nghĩa 1 và đinh nghĩa 2.

Trong nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường, các
doanh nghiệp đều bình đẳng trong quá trình kinh doanh, mối
quan hệ kinh tế tài chính của các doanh ghiệp được mở rộng.
Mặt khác, với sự phát triển đa dạng của các nguồn tạo vốn từ
bên ngoài đã làm cho đối tượng sử dụng thông tin kế toán trở
nên đa dạng hơn. Mục đích của kế toán không chỉ cung cấp
thông tin chủ yếu cho bản thân doanh nghiệp, cho Nhà nước, mà
còn cung cấp thông tin cho các đối tượng như ngân hàng, các
nhà đầu tư tương lai, nhà cung cấp, khách hàng,… Vì vậy, định
nghĩa kế toán nhấn mạnh đến chức năng cung cấp thông tin – và
chức năng này được coi là chức năng cơ bản nhất của kế toán.
Các định nghĩa sau này kể cả Việt nam, cũng như các nước trên
thế giới đều nhấn mạnh đến chức năng cung cấp thông tin của kế
toán.

Như vậy, để định nghĩa về kế toán cần phải dựa vào bản
chất của kế toán – mà bản chất này lại tùy thuộc vào hình thái
kinh tế xã hội – nơi hoạt động kế toán diễn ra.



×