Tải bản đầy đủ (.pdf) (30 trang)

Những tồn tại của các báo cáo tài chính Việt Nam potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (326.5 KB, 30 trang )

z














Những tồn tại của các báo cáo tài
chính Việt Nam


















































Những tồn tại của các báo cáo tài
chính Việt Nam

1. Tổng quan sự khác nhau của hệ thống báo cáo tài chính
Việt Nam và Quốc tế.
Khác với VAS, IAS mặc dù đưa ra rất chi tiết các định nghĩa,
phương pháp làm, cách trình bày và những thông tin bắt buộc
phải có trong các báo cáo tài chính nhưng họ không đưa ra
những biểu mẫu báo cáo bắt buộc tất cả các công ty phải tuân
theo vì họ hiểu các công ty có quy mô, đặc điểm ngành nghề kinh
doanh rất khác nhau. Chế độ kế toán Việt Nam không những đưa
ra một hệ thống tài khỏan kế toán thống nhất bắt buộc mà còn
đưa ra các biểu mẫu báo cáo tài chính thống nhất bắt buộc cho
tất cả các doanh nghiệp áp dụng (hầu hết các quốc gia trên thế
giới không làm như vậy).
2. Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh
2.1 Lãi từ hoạt động kinh doanh không theo thông lệ quốc tế
và khó có ý nghĩa để so sánh và quản trị. Lãi từ hoạt động kinh
doanh (Operating Profit/ Income) của một công ty rất quan trọng,
nó là nguồn lãi quan trọng nhất và ổn định nhất của một doanh
nghiệp. Khác với các nguồn lãi từ các hoạt động tài chính hay các
hoạt động khác về nguyên tắc thường không ổn định và khó dự
đoán. Chính vì vậy trong chuẩn mực và thông lệ kế toán quốc tế
lãi kinh doanh là các khoản lãi lỗ từ các họat động kinh doanh
thông thường của doanh nghiệp, không bao gồm các khoản thu
nhập và chi phí tài chính (chi phí lãi vay). Tuy nhiên theo VAS 21

“Trình bày các báo cáo tài chính” thì “Lợi nhuận thuần từ hoạt
động kinh doanh” bao gồm cả lợi nhuận và chi phí tài chính.
Để dễ hiểu hơn chúng ta hãy xem ví dụ sau. Công ty X trong năm
2009 có doanh thu bán hàng là 100 tỷ đồng, giá vốn hàng bán là
60 tỷ, chi phí bán hàng và chi phí quản lý chung tương ứng là 12
tỷ và 8 tỷ. Trong năm công ty có hoạt động bán cổ phiếu lãi 50 tỷ
và chi phí lãi tiền vay là 10 tỷ. Với các thông tin trên, báo cáo kết
quả kinh doanh năm 2009 của công ty X được trình bày theo
chuẩn mực (thông lệ) quốc tế và Việt Nam như sau.


Theo IAS, công ty X có lãi kinh doanh là 20 tỷ, đó là kết quả của
các hoạt động sản xuất, kinh doanh của công ty mà chưa gồm
thu nhập tài chính và chi phí lãi tiền vay. Điều này cho phép các
nhà đầu tư có thể dự đoán, trong những năm tới nếu các điều
kiện khác không thay đổi, lãi kinh doanh của công ty cũng sẽ ở
mức 20 tỷ, cộng một tỷ lệ tăng trưởng nào đó. Tuy nhiên nếu theo
VAS, công ty X có “lãi thuần kinh doanh” lên đến 60 tỷ do nó bao
gồm lãi kinh doanh theo IAS cộng thêm khoản lãi kinh doanh
chứng khoán 50 tỷ và trừ chi phí lãi vay 10 tỷ. Theo cách trình
bày này các nhà đầu tư dễ nhầm lẫn tai hại rằng lãi kinh doanh
của công ty X là 60 tỷ, năm tới nếu không có gì đặc biệt nó cũng
ở mức tương tự. Tuy nhiên khoản lãi 50 tỷ bán cổ phiếu chỉ là
một trường hợp đặc biệt và nó sẽ không xuất hiện trong năm
tới!
2.2. Lãi cơ bản mỗi cổ phiếu (EPS) chưa tính đúng
EPS là một trong những chỉ tiêu được sử dụng thường xuyên
nhất đối với các nhà đầu tư, và cũng ảnh hưởng lớn đối với giá
cổ phiếu công ty. Tuy nhiên VAS và các hướng dẫn về nó vẫn
còn chưa đầy đủ cũng như việc triển khai thực hiện nó còn có

nhiều vấn đề.
EPS cơ bản: Theo VAS 30, thông tư số 21/2006/TT-BTC hướng
dẫn VAS 30 và IAS 33, EPS cơ bản đều được tính theo công
thức sau:
EPS cơ bản = Tổng lãi/(lỗ) thuần thuộc các cổ đông phổ
thông .
Số bình quân gia quyền cổ phiếu phổ thông lưu
hành trong kỳ
a) Tử số:
- Lãi thuộc cổ đông phổ thông nhưng lại chưa trừ các quỹ
không thuộc cổ đông: VAS 30 không đề cập đến việc phải điều
chỉnh giảm các khoản lãi nhưng không dành cho cổ đông phổ
thông như quỹ khen thưởng khách hàng, quỹ thưởng cho Hội
Đồng Quản Trị, và đặc biệt là Quỹ Khen Thưởng Phúc Lợi dành
cho nhân viên. Những khoản này theo IAS nó được ghi nhận là
các khoản chi phí để trừ ra khỏi lãi dành cho cổ đông. Thông
thường sau một năm hoạt động có lãi, các công ty thường dành
khoảng 5-15% tổng số lãi thuần sau thuế để chi cho nhân viên
dưới hình thức lập Quỹ khen thưởng, phúc lợi. Có những công ty
tỷ lệ này năm 2009 lên đến 30% như Than Núi Béo (NBC trên
sàn HNX)
b) Mẫu số: Số bình quân gia quyền của các cổ phiếu phổ thông
lưu hành trong kỳ. Tuy nhiên những sự kiện chia tách cổ phiếu,
thưởng cổ phiếu, chia cổ tức bằng cổ phiếu thì cổ phiếu được
tính từ ngày đầu tiên trong kỳ (xem chi tiết phần 2.3.).
2.3. EPS không điều chỉnh hồi tố hoặc điều chỉnh hổi tố chưa
đầy đủ. Thông tư 21 hướng dẫn VAS 30 đã đề cập khá rõ ràng là
trong những trường hợp gộp, chia tách và thưởng cổ phiếu mà
không có bất cứ một sự tăng, giảm về dòng tiền, hay tài sản và
nguồn vốn đối với công ty, thì cổ phiếu gộp, chia tách, thưởng

mặc dù phát sinh bất cứ thời điểm nào trong kỳ cũng phải
được tính vào ngày đầu tiên của năm báo cáo. Và cũng sẽ điều
chỉnh tương ứng cho số cổ phiếu của những năm trước để có tính
so sánh giữa các năm. Mặc dù thông tư 21 không đề cập đến
việc chia cổ tức bằng cổ phiếu (stock dividend), nhưng bản
chất của việc chia cổ tức bằng cổ phiếu giống như thưởng cổ
phiếu (bonus issue), điều này được ghi rất rõ trong IAS 33. Đề
nghị chế độ kế toán Việt Nam nên bổ sung việc chia cổ tức bằng
cổ phiếu để việc thực hiện tại các công ty dễ dàng hơn. Kể cả
trong trường hợp chưa có hướng dẫn bổ sung việc này thì các
doanh nghiệp cũng nên điều chỉnh cho đúng bản chất mà nó
không trái với các quy định của chuẩn mực, làm như vậy là
đúng với VAS 30.
Ví du: công ty A có 10 triệu cổ phiếu, ngày 30.6.2009 công ty
quyết định chia cổ tức bằng cổ phiếu với tỷ lệ 20%, Hay chia cổ
phiếu thưởng, 100 cổ phiếu hiện hữu được chia 20 cổ phiếu mới.
Tính EPS năm 2009 và EPS tương ứng năm 2008 nếu tổng số lãi
của A năm 2009 và 2008 tương ứng là 40 tỷ và 34 tỷ đồng. Kỳ kế
toán là từ 1.1 đến 31.12 hàng năm.
Giải: Năm
2009 Năm 2008
1. Lãi thuần sau thuế (triệu đ)
40.000 34.000
2. Số cổ phiếu đầu kỳ (ngày 1.1), (triệu)
10 10
3. Cổ phiếu thưởng phát hành (triệu) 2*
2 **
4. Tổng số cổ phiếu lưu hành bq (triệu)
12 12
5. EPS cơ bản (=(1)/(4)) 3.333

đ/CP 2.833 đ/CP
* Mặc dù thưởng hay chia cổ tức bằng cổ phiếu được thực hiện
ngày 30.6.2009 nhưng khi lập báo cáo tài chính năm 2009, công
ty sẽ phải tính số cổ phiếu tăng thêm ngay từ ngày đầu năm,
ngày 1.1.2009.
* * Trong báo cáo tài chính năm 2009, để thấy được xu hướng
EPS qua các năm, chúng ta phải điều chỉnh (hồi tố) lại EPS năm
2008 và các năm trước đó bằng cách tăng số cổ phiếu thưởng
của năm 2009 vào cả năm 2008 và các năm trước đó (thường là
5 năm, cả năm hiện tại). Nếu không điều chỉnh số 2 triệu cổ phiếu
thưởng cho năm 2008, thì EPS gốc 2008 là 3.400 đ/CP (=34
tỷ/10 triệu CP) cao hơn so với năm 2009, nó không phản ánh
đúng xu hướng EPS. Báo cáo tài chính của các công ty niêm yết,
hầu hết chưa thực hiện việc điều chỉnh hồi tố này, làm các nhà
đầu tư rất khó khăn để có được thông tin chính xác về EPS .
Trường hợp phát hành quyền mua (Rights Issue): Đó là phát
hành quyền mua cổ phiếu mới cho các cổ đông hiện hữu với giá
thấp hơn giá thị trường hiện tại. Do vậy ở đây đã bao gồm một
yếu tố thưởng. Để tính được EPS khi có phát hành quyền mua,
đầu tiên chúng ta cần tính giá quyền mua lý thuyết (Theoretical
ex-rights price).
Ví dụ: Công ty HAP có 3.850.250 cổ phiếu đang lưu hành từ đầu
năm 2006. Ngày 16/6/2006 HAP phát hành thêm 1.925.125 cổ
phiếu (cứ hai cổ phiếu hiện hữu được quyền mua 1 cổ phiếu mới)
với giá 25.000 đ/cp. Giá cổ phiếu ngày cuối cùng chốt danh sách
phát hành ngày 15/6/2006 là 55.000đ/cp.Yêu cầu tính:
1. Giá lý thuyết quyền mua 1 cổ phiếu?
2. EPS năm 2006? Biết rằng lãi thuần sau thuế năm 2006 là
16 tỷ đồng.
3. Tính EPS điều chỉnh cho năm 2005 và 2004? Biết rằng lãi

thuần năm 2005 là 14,58 tỷ và EPS gốc năm 2004 là 4,492 đ/cp.
Lời giải:
1. Giá lý thuyết quyền mua 1 cổ phiếu được tính:
- Trước khi phát hành: 2 CP x giá 55.000 đ/CP = 110.000 đ
- Phát hành quyền mua: 1 CP x giá 25.000 đ/CP = 25.000 đ
- Giá trị lý thuyết của 3 CP (=110.000 + 25.000) = 135.000 đ
- Giá lý thuyết quyền mua mỗi CP bình quân =135.000 đ/3 =
45.000 đ/CP.
2. Tính EPS cho năm 2006:
- Số cổ phiếu trước ngày phát hành quyền mua là 3.850.250 CP
sẽ được nhân với tỷ lệ giữa giá thị trường ngày cuối cùng trước
khi phát hành (55.000đ/CP) và giá lý thuyết quyền mua
(45.000đ/CP)
- Số cổ phiếu bình quân của cả năm được tính theo 2 giai đoạn
là:
Giai đoạn trước khi phát hành cổ phiếu giá thấp. Vì nó có yếu tố
thưởng do vậy giống như việc tính EPS điều chỉnh cho việc
thưởng cổ phiếu nêu ở trên, chúng ta phải nhân số cổ phiếu với
hệ số thưởng này. Hệ số thưởng bằng:
Giá thị trường ngày cuối trước khi chốt sổ phát hành = 55
Giá lý thuyết quyền mua 45
Như vậy số cổ phiếu bình quân của cả năm sẽ được tính như
sau:
+ Giai đoạn 1: từ 1/1-15/6/2006, tức 5,5 tháng:
3.850.250 cp x 5,5 tháng/12 tháng x 55/45 = 2.156.853 cp
+ Giai đoạn 2: từ 15/6-31/12/2006 tức 6,5 tháng:
(3.850.250 + 1.925.125) x 6,5 tháng/12 tháng =
3.128.328 cp
Tổng số cổ phiếu lưu hành bình quân trong năm = 5.285.181 cp
EPS năm 2006 = 16 tỷ/ 5.285.181 cp = 3.027

đ/cp
Tính EPS điều chỉnh cho năm 2005 và năm 2004 (Khi lập báo
cáo năm 2006 để so sánh với năm 2005, 2004):
- EPS điều chỉnh = EPS gốc x Giá lý thuyết quyền mua
.
Giá thị trường ngày cuối trước khi
phát hành mới
Lưu ý: Hệ số điều chỉnh này là đảo ngược của hệ số điều chỉnh
số cổ phiếu ở phần trên.
- EPS gốc năm 2005 = 14,58 tỷ đ/ 3.850.250 cp = 3.787 đ/cp
- EPS điều chỉnh năm 2005 = 3.787đ/cp x 45/55 = 3.098 đ/cp
- EPS điều chỉnh năm 2004 = 4.492 đ/cp x 45/55 = 3.675 đ/cp
Khi phân tích tăng trưởng EPS các năm, nhà đầu tư cần phải so
sánh các EPS đã điều chỉnh chứ không phải so sánh EPS gốc.
2.4. Không trình bày EPS pha loãng (Diluted EPS) trên Báo
cáo kết quả kinh doanh.
Các công ty có thể phát hành các cổ phiếu tiềm năng như như
trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi, các quyền mua hay chứng
quyền (options or warrants) mà nó sẽ chuyển đổi thành cổ phiếu
phổ thông trong tương lai. Khi đó EPS của công ty sẽ thay đổi rất
lớn do công ty tăng một lượng lớn cổ phiếu phổ thông nhưng
không có thêm dòng tiền vào. Trong những hợp như vậy, nếu
nhà đầu tư dùng EPS cơ bản để dự đoán EPS cho tương lai có
thể sẽ dẫn đến những sai lầm rất nghiêm trọng. Bởi vậy IAS 33
yêu cầu bắt buộc báo cáo kết quả kinh doanh của các công ty
phải trình bày cả hai chỉ tiêu EPS cơ bản và EPS pha loãng trên
bề mặt của Báo Cáo Kết Quả Kinh Doanh với mức độ nổi bật
như nhau.
Cách tính EPS pha loãng:
a) Lãi: Là lãi dùng để tính EPS cơ bản và được điều chỉnh bởi

các ảnh hưởng sau thuế của các khoản:
a) Các khoản lãi suất tiền vay trong kỳ của các trái phiếu chuyển
đổi tiềm năng
b) Các khoản cổ tức của các cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi tương
lai mà chúng đã được trừ ra khỏi khi tính lãi cho EPS cơ bản.
c) Các khoản thay đổi khác trong thu nhập và chi phí (phí, chiết
khấu, tiền thưởng) mà chúng là kết quả của việc chuyển đổi các
trái phiếu chuyển đổi hay cổ phiếu ưu đãi chuyển đổi thành cổ
phiếu phổ thông.
b) Số cổ phiếu: là số bình quân gia quyền của cổ phiếu phổ
thông dùng để tính EPS cơ bản cộng với các cổ phiếu phổ thông
mà chúng sẽ được phát hành từ việc chuyển đổi tất cả các cổ
phiếu tiềm năng (trái phiếu chuyển đổi, cổ phiếu ưu đãi) thành
các cổ phiếu phổ thông. Chúng ta luôn phải giả định các cổ phiếu
tiềm năng này sẽ được chuyển đổi thành các cổ phiếu phổ thông
vào ngày đầu tiên của kỳ báo cáo.
Ví dụ: Ngân hàng ABC năm 2007 có lãi thuần sau thuế là 1.680
tỷ đồng và có khối lượng cổ phiếu lưu hành bình quân là 198,8
triệu CP, EPS cơ bản năm 2007 là 8.451 đ/CP. ACB đã phát
hành hai đợt trái phiếu chuyển đổi với tổng số tiền là 1.900 tỷ
đồng, lãi suất 10%/năm và sẽ chuyển đổi thành 190 triệu cổ phiếu
phổ thông trong vòng 1-3 năm tới. Tỷ lệ thuế TNDN là 28%. Tính
EPS pha loãng của ACB năm 2007.
Giải:
1. Tính số cổ phiếu phổ thông: 198,8 triệu + 190 triệu = 388,8
triệu CP.
2. Tính số lãi thuần :
Số lãi thuần hiện tại 1.680 tỷ
Cộng lãi suất tiền vay giảm (1.900 tỷ x 10%) = + 190 tỷ
Trừ thuế TNDN trên phần lãi vay (190 tỷ x 28%) = - 53,2 tỷ

Lãi thuần sau điều chỉnh 1.816,8 tỷ
3. EPS pha loãng = 1.816,8 tỷ/ 388,8 triệu CP = 4.673 đ/cp
Như vậy EPS pha loãng thấp hơn so với EPS cơ bản 3.778 đ/CP
(=8.451 – 4.673) tức 45%.
3. Bảng cân đối kế toán (BCĐKT): Là một báo cáo tài chính
quan trọng để phản ánh tình hình tài chính của một doanh nghiệp
tại một ngày cụ thể.
3.1. Vốn chủ sở hữu bao gồm cả những khoản không thuộc
chủ sở hữu. Như đã đề cập ở phần báo cáo kết quả kinh doanh.
Một số khoản phải trả thưởng cho nhân viên, cho hội đồng quản
trị như các quỹ khen thưởng phúc lợi, thực chất là các khoản phải
trả chứ không thuộc vốn chủ sở hữu nhưng vẫn được báo cáo
trong mục vốn chủ sở hữu. Nó cần phải được loại ra khỏi vốn chủ
sở hữu và đối xử như các khoản chi phí phải trả.
3.2. Các khoản cổ tức phải trả theo đề nghị nên được ghi giảm
“Lãi chưa phân phối”. Đa phần các công ty đều chia cổ tức lần
cuối hoặc duy nhất sau kỳ họp đại hội đồng cổ đông thường vào
cuối quý 1 và đầu quý 2 năm tiếp theo. Tuy vậy khi lập báo cáo
tài chính năm, các công ty thường đã có kế hoạch chia cổ tức
cho năm rồi mặc dù nó có thể được công bố hay chưa. Xét về
bản chất các khoản vốn chủ sở hữu là những khoản mà công ty
được sử dụng lâu dài mà không phải lo trả nợ. Những khoản cổ
tức này cho dù chưa có quyết định chính thức, mới chỉ có đề nghị
từ Hội đồng quản trị hay sự ước tính của ban lãnh đạo công ty thì
các công ty cũng nên ghi nó vào là một khoản cổ tức (ước tính)
phải trả và ghi giảm phần vốn “Lãi chưa phân phối”. Làm được
điều đó sẽ làm cho Bảng cân đối kế toán phản ánh chính xác hơn
tình tình tài chính, vốn chủ sở hữu của công ty.
3.3. Các khoản đầu tư chứng khoán ngắn hạn và dài hạn
dưới 20% vốn vào một công ty được đầu tư nên được báo cáo

theo giá hợp lý có thể thực hiện được (giá thị trường) giống
như IAS hơn là báo cáo theo giá vốn như VAS hiện nay (mặc dù
có sự điều chỉnh nếu giá thị trường xuống thấp hơn giá vốn).
Hiện nay do giá chứng khoán trên thị trường xuống ở mức khá
thấp các nhà đầu tư nên xem phần thuyết minh các báo cáo tài
chính liên quan đến việc lập dự phòng giảm giá các khoản đầu
tư, xem xét việc công ty có lập dự phòng đúng và trung thực theo
quy định hay không? Nó có thể ảnh hưởng rất lớn đến kết quả
kinh doanh nếu công ty có khoản đầu tư tài chính lớn.
3.4. Các khoản phải thu, phải trả thương mại không nên bao
gồm cả các khoản phải thu, phải trả cho các hoạt động đầu tư tài
sản dài hạn (xem phần báo cáo lưu chuyển tiền tệ).
3.5. Giá trị của hàng tồn kho có thể không phải là giá trị hợp lý
có thể thực hiện được do:
1) không được lập dự phòng một cách nghiêm túc theo giá trị
thuần có thể thực hiện được, nhất là với tình hình kinh tế suy
thoái như hiện nay, rất nhiều loại hàng hóa phải giảm giá rất
mạnh, mà vẫn rất khó bán.
2) chưa tính theo mức độ hoạt động bình thường của doanh
nghiệp.Hầu hết các doanh nghiệp vẫn tính giá thành theo phương
pháp thực tế (actual costing), phân bổ chi phí sản xuất chung cho
thành phẩm theo chi phí thực tế phát sinh. Việc phân bổ theo
thực tế có thể làm cho giá thành hàng tồn kho biến động lớn giữa
các kỳ và nó không phản ánh đúng giá thành của hàng tồn kho.
Theo IAS 2 và VAS 2 về “Hàng tồn kho”, các doanh nghiệp cần
dùng phương pháp giá thành bình thường (normal costing). Các
chi phí được tính và phân bổ theo mức độ hoạt động bình thường
của doanh nghiệp (mức bình quân gia quyền của cả năm) như
vậy giá thành sẽ đúng, ổn định hơn và có ý nghĩa hơn cho việc
định giá bán.

3.6. Tài sản dài hạn không ghi nhận việc giảm giá do hư hỏng,
lạc hậu kỹ thuật (impairment losses). Ví dụ nếu một tài sản cố
định bị hư hỏng hay bị lạc hậu về kỹ thuật không sử dụng được
nữa hay bị giảm giá trị, theo IAS, công ty phải ghi nhận khỏan lỗ
này ngay tại kỳ phát hiện ra việc này.
Báo cáo lưu chuyển tiền tệ (LCTT). Dòng tiền thuần từ hoạt
động kinh doanh có thể bao gồm cả dòng tiền từ hoạt động
đầu tư.
Báo cáo LCTT cung cấp các thông tin về các dòng tiền được chia
làm ba loại hoạt động là 1) kinh doanh, 2) đầu tư và 3) tài chính
(Operating, Investing & Financing). VAS 24 về Báo cáo LCTT đã

×