Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

3 nút thắt cần gỡ: Vốn ngoại, niềm tin và dòng tiền ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (141.8 KB, 11 trang )

3 nút thắt cần gỡ: Vốn ngoại, niềm
tin và dòng tiền


Hai câu hỏi được nhắc đến nhiều gần đây là vì sao dòng vốn
ngoại không đổ vào Việt Nam nhiều như các nước láng
giềng khác cũng nằm trong khối ASEAN như Thái Lan,
Indonesia?


Trước tiên, hãy thử tìm câu trả lời cho câu hỏi thứ nhất. Vì sao
NĐT nước ngoài không quan tâm tới thị trường Việt Nam? Nếu
đứng ở góc nhìn là TTCK phản ánh sức khỏe về nền kinh tế, có
nghĩa là kinh tế Việt Nam trong góc nhìn của giới đầu tư ngoài
nước đang tồn tại những điều khiến họ e ngại. Vậy trước tiên hãy
nhìn vào những số liệu kinh tế vĩ mô của Việt Nam, Thái Lan và
Indonesia.

Theo báo cáo của của Ngân hàng Phát triển châu Á (ADB),
những điểm đáng chú ý về kinh tế Thái Lan và Indonesia là
những nước này duy trì một tốc độ tăng trưởng cao, có cán cân
tài khoản vãng lai thặng dư và lạm phát được kiểm soát tốt. Điển
hình là số liệu dự báo cập nhật của ADB cho thấy, năm nay Thái
Lan có thể tăng trưởng 7,5%, trong khi lạm phát chỉ 3,2% và cán
cân tài khoản vãng lai có thể thặng dư ở mức 4% GDP. Những
con số này của Việt Nam tương ứng là dự báo tăng trưởng 6,7%,
trong khi dự báo lạm phát ở mức 8,5% và thâm hụt tài khoản
vãng lai lên đến 7,5% GDP. Lãi suất điều hành chính sách của
Thái Lan chỉ ở mức 1,75% vào tháng 9/2010 sau khi đã tăng
0,5% từ tháng 7, nghĩa là còn thấp hơn nhiều so với mức 9% của
Việt Nam.




Những con số này phản ánh một điểm bất lợi đáng chú ý của Việt
Nam là mặc dù tốc độ tăng trưởng không thua kém các nước
trong khu vực, nhưng lạm phát và thâm hụt vãng lai là một vấn đề
đáng chú ý, mà hệ quả đè nặng trực tiếp lên tỷ giá, cụ thể là tạo
sức ép giảm giá VND so với USD. Ngược lại, do tác động của
vốn nước ngoài, bao gồm cả dòng vốn gián tiếp và FDI (đặc biệt
là Indonesia thu hút nhiều dự án FDI của Trung Quốc và Ấn Độ
nên FDI năm 2010 tăng đáng kể so với năm 2009), cộng với
thặng dư tài khoản vãng lai, đồng tiền hai nước này tăng đáng kể
so với USD. Đối với NĐT gián tiếp nước ngoài, đây là một điểm
hấp dẫn khác, mặc dù chính phủ hai nước này không mong muốn
sức ép tăng giá lên đồng tiền quá lớn và không muốn dòng vốn
ngắn hạn đổ vào nhiều.

Tuy nhiên, áp lực giảm giá của VND không phải là yếu tố duy
nhất mà giới quan sát quốc tế lo ngại. Vào giữa tháng 10, trên tờ
Financial Times có đăng bài: "Vietnam: not hot money, but 'what
money' ", đề cập tới chuyện trong khi các nước Đông Nam Á
khác lo kiểm soát dòng vốn nóng, Việt Nam lại là một trường hợp
ngoại lệ. Theo bài viết thì NĐT nước ngoài buộc phải tìm cơ hội
đầu tư ở nước khác thay vì Việt Nam là do khó tìm đủ nguồn
USD để chuyển lợi nhuận về nước, có ít quỹ đầu tư nước ngoài
và các quỹ niêm yết, cũng như không có nhiều CTCK trong nước
mà NĐT quốc tế có thể "thấy vui lòng" trong chuyện chọn mặt gửi
vàng.
Tất nhiên, đây có thể chỉ là một cái nhìn đơn lẻ của một người
nước ngoài về TTCK Việt Nam. Tuy nhiên, các trích dẫn trong bài
này về ý kiến của UBS - một ngân hàng đầu tư có tiếng và có

nhiều khách hàng lớn trên thế giới, thì đáng chú ý. Theo UBS, họ
lo ngại về tăng trưởng tín dụng quá cao, thâm hụt vãng lai lớn và
đồng tiền thường xuyên chịu sức ép giảm giá. Đây cũng là những
điều mà nhiều chuyên gia kinh tế trong nước tỏ ra lo ngại. Ngay
cả trong báo cáo mới cập nhật của ADB, điểm này cũng được
"ưu ái" đề cập đến, trong khi tăng trưởng tín dụng không phải là
một vấn đề đáng chú ý trong báo cáo của Thái Lan và Indonesia.
Một nút thắt khó gỡ của kinh tế Việt Nam là tăng trưởng tín dụng
cao, nhưng lãi suất và lạm phát vẫn cao. Tiền vay tín dụng đã đi
đâu, những công ty đi vay với lãi suất cao như vậy có trả được
nợ và do đó, rủi ro tín dụng của hệ thống ngân hàng có đáng lo
ngại không? Các chuyên gia kinh tế của nước ngoài không khỏi
cảm thấy lo ngại về điều này và sẽ đề cập sự lo ngại đó với
khách hàng của họ.

Điều cuối cùng mà không ít tổ chức quan sát quốc tế như IMF, tờ
The Economist và Tổ chức xếp hạng tín nhiệm Fitch Ratings
cùng đề cập là tính khó dự đoán của chính sách. IMF còn chỉ ra
một điểm là chính sách của Việt Nam phải gánh quá nhiều mục
tiêu: mục tiêu lạm phát bao nhiêu phần trăm, mục tiêu tăng
trưởng GDP, tăng trưởng tín dụng và cả mục tiêu ổn định tỷ giá.
Với nhiều mục tiêu phải cân bằng như vậy, chính sách điều hành
khó có thể ổn định và NĐT khó có thể lường trước những diễn
biến chính sách. Đối với NĐT nước ngoài, đầu tư vào một nơi mà
họ khó có thể lường trước diễn biến chính sách vốn được cho là
một rủi ro lớn.
Qua việc điểm lại những gì mà các tổ chức nước ngoài viết, đánh
giá về Việt Nam như trên, có thể thấy NĐT nước ngoài không
chọn Việt Nam trong thời gian qua, dù Việt Nam cũng có tốc độ
tăng trưởng kinh tế cao, có sức cầu nội địa tốt không kém các

nước khác trong khu vực là vì họ: (1) lo ngại tính an toàn của hệ
thống ngân hàng trong bối cảnh tín dụng tăng trưởng cao, (2) lo
ngại bất ổn của tỷ giá với những sức ép từ thâm hụt cán cân
vãng lai và lạm phát, những trở ngại trong việc mua ngoại tệ để
chuyển tiền về nước và (3) không thích tính khó dự đoán của
chính sách ở Việt Nam.

Nếu xét tới các yếu tố quan trọng để "dụ dỗ" NĐT nước ngoài, thì
yếu tố quan trọng là tiềm năng tăng trưởng, phương tiện đầu tư
thuận lợi và rủi ro của việc đầu tư. Nhờ đó, người làm vai trò đi
quảng bá thu hút đầu tư cũng dễ thuyết phục NĐT tiềm năng.
Nếu các yếu tố đó không rõ ràng và thiếu hấp dẫn tương đối so
với các thị trường khác, người ta sẽ "đi dạo chợ" và không vội vã
đổ vào Việt Nam.


Chứng khoán Việt Nam vì sao không tăng mạnh?

Trong phân tích những câu hỏi thứ nhất về chuyện vì sao vốn
nước ngoài không đổ vào TTCK Việt Nam nhiều như Thái Lan
hay Indonesia, chúng ta cũng có thể thấy một số gợi mở cho câu
hỏi vì sao chứng khoán Việt Nam không thể tăng mạnh như ở
một số nước châu Á khác. Niềm tin của NĐT sẽ đặt vào đâu
trong bối cảnh kinh tế vĩ mô không "đẹp" như vậy. Thâm hụt
thương mại lớn thì tỷ giá làm sao không chịu sức ép. Lạm phát
cao, lãi suất làm sao có thể hạ được? Lãi suất cao, thì DN sẽ làm
ăn ra sao để có thể trả nợ vay? Người nước ngoài thấy những
điều đó đó là rủi ro, chẳng lẽ NĐT trong nước không thấy lo.

Tất nhiên, sẽ là thiếu sót nếu không nhắc tới khía cạnh dòng tiền.

Không khó nhận ra, trong thời gian TTCK tăng trưởng mạnh ở
các năm 2006 và 2007, dòng vốn nóng từ các hoạt động vay
mượn để kinh doanh chứng khoán, những khoản đầu tư ngoài
ngành của các tập đoàn nhà nước và một số ngân hàng đóng
vai trò không nhỏ. Sau những điều chỉnh chính sách vừa qua,
dòng tiền này đã bị giới hạn nhiều. Nói cách khác, nội lực của
TTCK nước ta trong thời gian tăng trưởng mạnh không đến từ
những dòng tiền đầu tư căn cơ, mà đến từ dòng tiền nóng ngắn
hạn nội địa chuyển dịch từ khu vực khác sang khu vực chứng
khoán. Nay, khi những dòng vốn này bị hạn chế, lực tăng của thị
trường cũng bị giới hạn. Trong khi đó, dòng tiền ổn định hơn là
dòng tiền tiết kiệm trong dân cư hiện vẫn luân chuyển trong vàng
và ngoại tệ. Chỉ cần triển vọng tăng trưởng kinh tế trở nên rõ ràng
hơn, DN công bố lợi nhuận khả quan và cho thấy tình hình làm
ăn thuận lợi hơn, đồng thời các công cụ đầu tư vào TTCK đa
dạng hơn để đáp ứng nhu cầu tích lũy tài sản dài hạn của người
dân, mọi việc có thể sẽ thay đổi.

Tuy nhiên, cho đến nay, tin tức nhận được ở mảng kinh doanh
của DN không đủ "sáng" để đẩy bật các tin tức không tốt về nền
kinh tế. Trong khi đó, chuyện thông tin trên thị trường, chuyện
hàng hóa có chất lượng cho thị trường, các sản phẩm và định
chế mới để thu hút tiền tiết kiệm trong dân cư đều không có gì
mới đáng kể. Nói cách khác, về mặt công cụ, phương tiện đầu tư
nhắm đến tạo điều kiện cho thu hút NĐT tiềm năng nước ngoài
lẫn trong nước, việc cải thiện thông tin, bảo vệ NĐT nhỏ trong
nước không có sự đột phá. Vậy làm sao NĐT trong nước có thể
đặt niềm tin nhiều hơn mức hiện nay vào thị trường để đẩy chứng
khoán tăng mạnh?


Tuy tình hình trong thời gian qua cho thấy có nhiều lý do để NĐT
không đặt nhiều niềm tin vào tăng trưởng của thị trường, nhưng
người viết lại thấy có nhiều cơ hội tại thời điểm hiện tại. Một là,
khi mà những nước như Thái Lan và Indonesia phải tiến hành
hạn chế vốn vào ngắn hạn, dòng vốn này sẽ chảy vào Việt Nam,
đóng vai trò dòng vốn châm ngòi cho sự quay lại của đầu tư
nước ngoài ở Việt Nam.

Thứ hai, việc tăng lãi suất của Chính phủ, tuy có vẻ sẽ ảnh
hưởng đến các DN và TTCK, lại được hoan nghênh bởi các nhà
phân tích quốc tế. Họ muốn thấy Việt Nam kiểm soát lạm phát và
tăng trưởng tín dụng, việc tiếp tục duy trì chính sách thắt chặt tiền
tệ là một điều họ hoan nghênh. Những giới hạn an toàn vốn mới
đối với hoạt động ngân hàng tuy tạo ra áp lực trong ngắn hạn với
chu chuyển vốn trong nền kinh tế, nhưng sẽ giúp tái lập lại niềm
tin đối với giới đầu tư quốc tế, nhất là các tổ chức xếp hạng tín
nhiệm về độ an toàn của hệ thống tài chính Việt Nam.

Nhu cầu tiêu dùng nội địa và động lực tăng trưởng từ khối kinh tế
tư nhân trong năm qua tiếp tục có những biểu hiện tốt, cho thấy
nền tảng tăng trưởng xuất phát từ tiêu dùng tư nhân và đầu tư tư
nhân vẫn ổn định. Đây là điều sẽ được các tổ chức đầu tư nước
ngoài đánh giá cao.

Áp lực đối với tỷ giá của Việt Nam có tính thời vụ. Nếu NHNN có
giải pháp điều hành căn cơ hơn việc chỉ nhắm đến những biện
pháp bình ổn ngắn hạn thì nút thắt này có thể được nới lỏng. Khi
đó, TTCK Việt Nam sẽ có nhiều cơ hội cải thiện hình ảnh trong
mắt NĐT trong và ngoài nước trong thời gian tới.


Điều cuối cùng cần nhớ rằng, trong khi các thị trường khác tăng
điểm, TTCK Việt Nam vì vậy đã trở nên rẻ hơn tương đối. Sau
một thời gian "dạo chợ", các NĐT tiềm năng cũng sẽ nghĩ tới
chuyện đầu tư vào TTCK Việt Nam.

×