Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Lãnh đạo căn bản: Những nhân tố tiềm ẩn của thành công lớn (phần 3) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.94 KB, 10 trang )

Lãnh đạo căn bản: Những
nhân tố tiềm ẩn của thành
công lớn (phần 3)
Tâm trạng của nhà lãnh đạo có ảnh hưởng đến xúc cảm của những
người xung quanh. Do đó, hãy cười lên và cả thế giới sẽ cười với
bạn. Phần tiếp theo trong nghiên cứu của Daniel Goleman, Richard
Boyatzis và Annie McKee đăng trên tạp chí Havard Business Review.

Khoa học tâm lý
Hướng chủ đạo trong các nghiên cứu trên bộ não con người chứng minh
là, dù tốt dù xấu thì tâm trạng của nhà lãnh đạo có ảnh hưởng đến xúc
cảm của những người xung quanh. Lí do của hiện tượng này nằm ở cái
tính mở của hệ thống vỏ não, trung tâm xúc cảm của chúng ta. Một hệ
thống đóng tự vận hành, trong khi một hệ thống mở lại phụ thuộc những
nguồn bên ngoài để quản lý bản thân hệ thống mở của chính mình. Nói
cách khác, chúng ta phụ thuộc vào những mối quan hệ với người khác
để quyết định tâm trạng của mình. Hệ thống mở được tự nhiên chọn lọc
vì nó cho phép con người xoa dịu nỗi đau của người khác - giống như
việc bà mẹ dỗ dành đứa con nhỏ đang khóc.
Ngày nay thiết kế mở có cùng mục đích giống như mục đích của nó từ
ngàn năm trước. Nghiên cứu tập trung vào những điều quan tâm đã chỉ
ra, sự hiện diện dễ chịu của một người nào đó không chỉ giảm huyết áp
của bệnh nhân mà còn hạ thấp sự tiết ra các axit béo gây tắc động mạch.
Một nghiên cứu khác cho thấy trong 3 hay nhiều hơn các trường hợp
stress nặng trong vòng một năm (ví dụ, do gặp phải các vấn đề rắc rối t
ài
chính, bị đuổi việc, hoặc ly dị) có khả năng tử vong ở những người đàn
ông trung niên sống tách biệt xã hội cao gấp 3 lần những người có các
mối quan hệ thân thiết.
Các nhà khoa học miêu tả hệ thống mở giống như “quy luật biên giữa
người và người”; một người phát đi các tín hiệu, các tín hiệu này có thể


thay đổi mức độ hormone, những chức năng của hệ động mạch, nhịp thở
khi ngủ, thậm chí cả những chức năng của hệ miễn dịch, bên trong cơ
thể của một người khác. Điều này lý giải tại sao những cặp đôi có thể
gây nên những sóng oxytocin trong não của người kia, tạo nên cảm giác
dễ chịu và yêu thương. Nhưng xét trên tất cả các khía cạnh của đời sống
xã hội, sinh lý học của con người hoà lẫn với nhau. Thiết kế của hệ
thống mở có thể giúp những người khác thay đổi sinh lý và do đó tình
cảm của chúng ta.
Mặc dù, hệ thống mở là một phần quan trọng trong cuộc sống, nhưng
chúng ta thường xuyên không để ý đến quá trình này. Những nhà khoa
học đã nắm được sự điều chỉnh cảm xúc trong phòng thí nghiệm bằng
cách đo sinh lý học - như nhịp tim - của hai người cùng nói chuyện với
nhau. Khi cuộc nói chuyện bắt đầu, cơ thể họ chuyển động ở những nhịp
khác nhau. Nhưng chỉ sau 15 phút, những chỉ số sinh lý học của 2 người
giống nhau một cách đáng chú ý.
Những nhà nghiên cứu đã chứng kiến nhiều lần cách thức mà cảm xúc
lan truyền từ người này sang người khác một cách không thể cưỡng lại
được. Quay trở lại thời điểm năm 1981, nhà sinh lý học Howard
Friedman và Ronal Riggio nhận thấy thậm chí những biểu hiện không
lời cũng có thể ảnh hưởng đến những người khác. Ví dụ, khi 3 người lạ
ngồi quay mặt vào nhau im lặng khoảng một hay hai phút, cảm xúc
truyền đi từ mỗi người đến 2 người kia mặc dù không ai nói một lời nào.

Hiện tượng này cũng diễn ra ở các văn phòng, phòng họp, hay cửa hàng;
các thành viên trong nhóm không tránh khỏi bị ảnh hưởng bởi cảm xúc
của người khác. Năm 2000, Caroline Bartel trường Đại học New York
và Richard Saavedra trư
ờng Đại học Michigan nhận thấy khi quan sát 70
nhóm làm việc chung ở các ngành khác nhau, lúc cuộc họp kết thúc
những người tham gia cùng có chung một tâm trạng, hoặc tốt hoặc xấu,

chỉ sau hai giờ. Một nghiên cứu khác khi hỏi các nhóm y tá và thư kí về
tình trạng kiểm soát cảm xúc của họ trong tuần, những nhà khoa học
nhận thấy tâm trạng của những người trong nhóm giống nhau, mặc dù
họ gần như không tham gia vào các cuộc cãi cọ chung của cả nhóm. Nh
ư
vậy, nhóm cũng giống như các cá nhân, cùng chia sẻ những cảm xúc, từ
cảm giác ghen tị, lo lắng hay đau buồn. (Một cách tình cờ, tâm trạng vui
vẻ sẽ lan truyền nhanh nhất, vì khi đó người ta sẽ sử dụng những câu
bông đùa. Tham khảo thêm ở phần “Hãy cười lên và cả thế giới sẽ cười
với bạn).
Hãy cười lên và cả thế giới sẽ cười với bạn
Bạn có nhớ câu thành ngữ cổ đó không? Câu thành ngữ này đã phản
ánh gần đúng thực tế. Như chúng ta đã biết, sự lan truyền của cảm xúc
là hiện tượng thần kinh thực tế, nhưng không phải tất cả các loại cảm
xúc đều lan truyền theo cách giống nhau. Một nghiên cứu năm 1999
của Sigal Barsade Khoa quản trị trường Đại học Yale đã chỉ ra, trong
các nhóm làm việc, sự vui vẻ và nồng ấm lan truyền rất nhanh, trong
khi đó sự giận dữ thì lan chậm hơn, cảm giác thất vọng lan chậm nhất.
Chúng ta không nên ngạc nhiên khi biết rằng nụ cười là cảm xúc dễ lan
truyền nhất. Khi nghe thấy một tiếng cười, ta cũng không thể cười hoặc
ít nhất là mỉm cười theo. Đó là vì hệ thống mở của bộ não chúng ta
được thiết kế để lan truyền những tiếng cười, làm chúng ta ph
ản ứng lại
tương ứng. Các nhà khoa học đã lý thuyết hoá rằng những nụ cười đã
được thiết lập trong não chúng ta từ trước, bởi vì nụ cười để củng cố
tình bằng hữu và sự liên kết, do đó giúp chúng ta tồn tại.
Ẩn ý quan trọng cho nhà lãnh đạo ở đây là chỉ ra nhiệm vụ cơ b
ản trong
điều khiển tâm trạng của mình và của những người khác: Tính hài hư
ớc

thiết lập nên môi trường lạc quan. Nhưng cũng giống như cảm xúc của
nhà lãnh đạo nói chung, tính hài hước cũng phải phù hợp với văn hoá
và tình hình thực tiễn của doanh nghiệp. Những tiếng cười, những nụ
cười sẽ hiệu quả và lan truyền khi chúng xuất phát từ đáy lòng.
Tâm trạng của người đứng đầu có xu hướng lan truyền nhanh nhất vì
mọi người đều nhìn vào ông chủ. Họ nhận những tín hiệu cảm xúc từ
ông chủ. Thậm chí khi ông chủ ít khi được nhân viên nhìn thấy, ví dụ
như CEO đó làm việc trong phòng riêng ở tầng trên cùng - thì thái độ
của ông ta cũng thể hiện trực tiếp trong những báo cáo của ông ta, và
hiệu ứng domino lan truyền khắp công ty.
Hãy gọi CEO là một bác sĩ
Nếu tâm trạng của người lãnh đạo quan trọng đến như vậy, vậy phải
chăng anh ta nên tập để có một tâm trạng vui vẻ? Vâng, nhưng câu trả
lời đầy đủ phức tạp hơn thế rất nhiều. Tâm trạng của người lãnh đạo có
ảnh hưởng lớn nhất đến kết quả khi đó là tâm trạng lạc quan. Nhưng tâm
trạng đó cũng bị ảnh hưởng bởi những yếu tố xung quanh anh ta. Chúng
tôi gọi hiện tượng đó là “tiếng vọng” (Tham khảo thêm tại mục “Để
hạnh phúc, hãy cẩn thận)
Để được hạnh phúc, hãy cẩn thận
Tâm trạng vui vẻ giúp hoàn thành tốt nhiệm vụ, nhưng th
ật
vô nghĩa khi một người lãnh đạo lúc nào cũng vui vẻ cười
nói như một anh chàng ngốc trong lúc doanh số bán hàng
sụt giảm hoặc việc kinh doanh của công ty đi xuống.
Những nhà quản lý hiệu quả nhất thể hiện tâm trạng và
hành vi phù hợp với hoàn c
ảnh hiện tại, với tâm lý lạc quan
vừa đủ. Họ biết tôn trọng cách cảm nhận của người khác -
thậm chí nếu người khác cau có hoặc chán nản - nhưng họ
cũng làm gương cho người khác là phải tiến lên phía trước

với niềm hi vọng và tính hài hước.
Chúng tôi gọi cách hành động này là “tiếng vọng” ảnh
hưởng đến ý định và mục tiêu của bốn thành tố cấu thành
trí tuệ thông minh xúc cảm.
Tự nhận thức bản thân, có lẽ đây là phần quan trọng nhất
của trí tuệ thông minh xúc cảm. Tự nhận thức bản thân là
khả năng có thể đọc được những cảm xúc của chính bạn.
Điều này cho phép con người nhận thức được những điểm
mạnh hay giới hạn của họ, giúp họ cảm thấy tự tin về
những giá trị của bản thân. Những nhà lãnh đ
ạo áp dụng sự
tự nhận thức bản thân để xác định tâm trạng mình m
ột cách
chính xác, và họ cảm nhận trực quan được họ ảnh hưởng
đến người khác như thế nào.
Tự quản lý bản thân, là khả năng áp dụng những phương
thức đáng tin cậy và linh hoạt để kiểm soát cảm xúc và
hành động của bạn với sự thành thực và th
ẳng thắn. Những
nhà lãnh đạo thành công không để tâm trạng thỉnh thoảng
buồn bực của họ kiểm soát cả ngày, h
ọ quản lý bản thân để
tâm trạng buồn bực đó không ảnh hưởng đến công việc
hoặc giải thích nguyên nhân cho mọi ngư
ời với một thái độ
thích đáng, bởi vậy họ nhận thức được vì sao họ có tâm
trạng này và sự buồn bực này có thể kéo dài trong bao lâu.

Nhận thức xã hội, bao gồm những khả năng cốt yếu để
đồng cảm với mọi người và nh

ận thức về tổ chức bằng trực
giác. Nhà quản lý biết cách nhận thức xã hội sẽ cảm nhận
cảm xúc của người khác tốt hơn, và cho người khác thấy
mình quan tâm đến họ như thế nào. Hơn nữa, những nhà
lãnh đạo thành công thường xuyên hiểu biết sâu sắc về
ngôn từ và hành động của họ khiến người khác cảm thấy
thế nào, và họ đủ nhạy cảm để thay đổi những tác động
tiêu cực.
Quản lý các mối quan hệ, là thành tố cuối cùng của trí tuệ
thông minh xúc cảm, bao gồm khả năng để giao tiếp rõ
ràng và thuyết phục, hoà giải xung đột, và xây dựng nên
các mối quan hệ mật thiết. Những nhà lãnh đạo thành công
sử dụng các kĩ năng của họ để lan truyền sự nhiệt tình và
hoà giải sự bất hoà, thường qua những sự hài hước và cao
thượng của mình.
Một nhà quản lý hiệu quả và biết áp dụng “phương pháp
tiếng vọng” rất hiếm hoi. Hầu hết mọi người đều phải chịu
đựng những nhà lãnh đạo khó chịu, người mà tâm trạng
độc hại và những thái độ làm nản lòng người khác của họ
làm hỏng các mối quan hệ, sau đó phải đợi đến người lãnh
đạo nhiều triển vọng và thực tế sau đến để sửa chữa.
Hãy xét đến những sự kiện diễn ra gần đây tại một chi
nhánh thử nghiệm của BBC, gã khổng lồ của ngành truyền
thông Anh quốc. Mặc dù các thành viên, nhà báo và biên
tập viên đã cố hết sức, giám đốc vẫn quyết định đóng cửa
chi nhánh này.
Việc đóng cửa chi nhánh bản thân nó vốn chẳng tốt đẹp gì,
nhưng thảm họa là tâm trạng và thái độ của người lãnh đạo
lây lan khắp đội ngũ nhân viên đã gây ra sự bế tắc không
thể ngờ tới. Mọi người, từ người đã đưa ra quyết định đó

đến những người hứng chịu hậu quả, đều phát điên lên.
Tâm trạng cáu kỉnh của người lãnh đạo tạo nên một bầu
không khí căng thẳng đến nỗi ông ta phải gọi an ninh đến
đưa mình ra khỏi phòng họp.
Ngày hôm sau, một nhà quản lý khác đến thăm đội ngũ
nhân viên đó. Thái độ và hành động của ông ta rất ôn hoà
và thể hiện sự kính trọng. Ông ta nói về tầm quan trọng
của báo chí với những biến động của xã hội và mời mọi
người trở về vị trí ban đầu của mình. Ông ra nhắc nhở mọi
người rằng chẳng ai làm ngành báo chí mà giàu cả - lương
của ngành này luôn chỉ ở mức cận biên, và sự ổn định của
công việc phụ thuộc vào những làn sóng kinh tế lớn. Ông
ta nhớ lại khoảng thời gian ông làm nghề này, khi ông ta
mất việc và ông ta đã đấu tranh như thế nào để kiếm m
ột vị
trí mới - nhưng ông cũng thay đổi sự tận tâm của mình với
công việc mình đã chọn. Cuối cùng, ông hi vọng họ sẽ làm
tốt phần việc của họ.
Và phản ứng của đám đông phẫn nộ ngày hôm qua là gì?
Khi người lãnh đạo biết phương pháp “tiếng vọng” này kết
thúc bài nói, tất cả đều trở nên vui vẻ.
Daniel Goleman - Richard Boyatzis - Annie McKee

Havard Business Review

Ng
ọc Trâm
(dịch)



×