Tải bản đầy đủ (.pdf) (5 trang)

INTERFERON (IFN) LÀ CÁI CHI CHI? potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (93.74 KB, 5 trang )

INTERFERON (IFN) LÀ CÁI CHI CHI?

1. Lịch sử nghiên cứu:

- 1935, Findlay và Mac Callium khi nghiên cứu bệnh sốt vàng ở
thung lũng Ritz đã nhận thấy: khỉ sau khi mắc virut gây sốt trước
khi nhiễm virut sốt vàng sẽ không bị chết.
- 1957, Isaac và Linderman đã tìm ra Interferon.

2. Khái niệm:

IFN là những protêin, glicoprotêin có tác dụng miễn dịch hình
thành trong TB khi bị nhiễm virut, axit nuclêic lạ polysaccarit hay
sau sự kích thích cảm ứng.
Hiện tượng virut ôn hòa hay sự hình thành prophage có liên quan
đến IFN (một số virut độc bị IFN ức chế trở thành dạng ôn hòa).

3. Đặc điểm và vai trò của IFN:

- Có bản chất là protêin, có khối lượng phân tử lớn.
- Bền vững trước nhiều loại enzim (trừ protêaza), chịu được pH,
nhiệt độ cao (56 độ C vẫn giữ được hoạt tính).
- Đặc tính sinh học quan trọng của IFN là có tác dụng không đặc
hiệu với virut nghĩa là có khả năng kìm hãm sự nhân lên của bất kì
virut nào.
- Có tính đặc hiệu loài. VD: IFN do TB người sinh ra chỉ có tác
dụng chống virut gây bệnh ở người. Nó làm tăng sức đề kháng
của cơ thể bằng cách kích thích tăng số lượng của một loạt TB
miễn dịch: đại thực bào, TB Lympho.
kaluza:
Vi khuẩn biến đổi gen có thể ngừa sâu răng vĩnh viễn




Hãy quẳng bàn chải đánh răng đi, chỉ một lần đến nha sĩ khi còn
chập chững biết đi là tất cả những gì bạn cần để giữ cho răng khỏi
bị sâu suốt đời. Nhưng có một điều bất tiện: Bạn phải chịu há
miệng cho vi khuẩn được biến đổi gen xâm nhập vào.

Kế hoạch này bao gồm việc thay thế vi khuẩn ở khoang tự nhiên
của miệng bằng vi khuẩn đã biến đổi gen dùng để ngăn ngừa sâu
răng. Nhà Hillman thuộc đại học Floriđa ở Gainesville nói: "Mục
đích của tôi là xây dựng - một phiên bản tốt của loài vi khuẩn có
hại"

Vi khuẩn được biến đổi gen sẽ thay thế vi khuẩn có tên
Streptococcusmutans, vi khuẩn xâm chiếm vùng miệng của hầu
hết con người và gây ra khoảng 85% tất cả lỗ sâu răng. Nó hình
thành các lỗ này bằng cách chuyển đwuờng thành axit lactic từ từ
khắc sâu vào men răng.

Để tạo ra vi khuẩn biến đổi gen, Hillman khởi đầu tìm kiếm loại vi
khuẩn không có khả năng tiết ra axit lactic, có thể tiêu diệt và thay
thế hoàn toàn vi khuẩn S.mutans có hại. Sau khi thu thập những
mẫu từ miệng của hàng trăm bệnh nhân vào đầu thập niên 80,
ông tìm ra một chủng vi khuẩn có thể tiêu diệt S.mutans bằng cách
tiết ra chất độc. Chất độc này cũng làm chết những loài vi khuẩn
khác, nhưng vi khuẩn biến đổi gen của Hillman không tiêu diệt vi
khuẩn có ích khác trong miệng hoặc trong dạ dày vì chất độc
không đi xa hơn nơi được tạo ra.

Nhưng vi khuẩn này không hoàn hảo, nó vẫn tiết ra axit lactic và

như vậy có thể tạo ra các lỗ hổng. Để tước bỏ vũ khí của nó,
Hillman và các đồng sự loại bỏ gen lập mã lactate dehydrogenase,
enzyme chuyển đổi đường thành axit lactic. Họ gọi chủng mới này
là BCS3-L1

BCS3-L1 có thể được phết hoặc phun lên răng, bằng một công
thức mà Hillman cho biết có mùi vị giống như súp gà. Khi được
phết lên răng chuột, BCS3-L1 làm giảm đáng kể các lỗ hổng.

Hillma và công thi OraGen of Alachua, Florida của ông vẫn chưa
được phép của FDA (Cơ quan quản lý thực phẩm về dược phẩm
Hoa kì) để kiểm tra phương pháp điều trị ở con người. Nhưng có
ba người tình nguyện cho dùng chủng bố mẹ của BCS3-L1 phết
lên răng người bạn đời hoặc con cái của họ, kết quả cho thấy vi
khuẩn này không thể lây lan qua đường hôn. < bó tay

Các nhà nghiên cứu khác đang nghiên cứu một loại vacxin chống
vi khuẩn hình thành lỗ hổng. Nhưng Hillman cho biết, so với hệ
miễn dịch con người thì việc tìm tòi nghiên cứu vi khuẩn dễ dàng
hơn nhiều.

Thật lý tưởng khi BCS3-L1 sẽ được phết lên răng trẻ vào khoảng
2 tuổi trước khi trẻ có nguy cơ nhiễm phải S.mutans do ăn uống
chung với người khác. Hillman ước tính phương pháp điều trị này
tốn khoảng 100 đô la cho một trẻ và mất hết 5 phút
kaluza:
CÔNG NGHỆ VI SINH TRONG SẢN XUẤT CHẾ PHẨM SINH
HỌC BZT



1. Giải thích về vi khuẩn: Quá trình ổn định vi khuẩn làm việc như
thế nào ?

Vi khuẩn sinh sản bởi một quá trình gọi là nhân đôi - tế bào mới
sinh ra bằng cách chia đôi từ tế bào mẹ. Một số có thể sinh sản rất
nhanh ở những điều kiện thích hợp. Nếu có thực phẩm, độ ẩm
thích hợp ở đúng nhiệt vi sinh có thể bắt đầu sinh sản trong vòng
chưa đến hai mươi phút, chỉ trong tám giờ một tế bào ban đầu có
thể nhân lên thành 17 triệu vi khuẩn mới.

Vi khuẩn chọn lọc, được nuôi cấy trong một môi chất. Dưới sự
giám sát, vi khuẩn sau khi thanh lọc được chuyển qua một bồn lên
men sinh học 250 lít sinh trưởng trong vòng 20 giờ.

Sau khi kiểm tra chất lượng về độ thuần khiết, vi khuẩn được đưa
sang bồn lên men kín vô trùng có dung tích 5.000 lít để bắt đầu
giai đoạn sản xuất. Dưới điều kiện pH thích hợp, dung dịch đường
vô trùng và ôxy được đưa vào để nuôi vi khuẩn. Trong suốt quá
trình này, sản phẩm được lấy mẫu để theo dõi sự vô trùng và các
thông số tăng trưởng.

Trong vòng 24 giờ, sẽ thu hoạch vi khuẩn và cô đặc bằng một máy
ly tâm cực nhẹ. Vi khuẩn cô đặc được bọc lại bằng chất keo
betaglucan bởi một qui trình đã được cấp bằng sáng chế. Qui trình
này giúp vi khuẩn chống lại độ ẩm để duy trì sự sống trong thời
gian bảo quản hoặc trộn với chất mang.

Sau đó sản phẩm được làm lạnh nhanh trong hệ thống lạnh lỏng
trước khi đưa vào sấy ở nhiệt độ ở âm 40oC trong hệ thống phòng
lạnh lớn. Qui trình sấy lạnh hai bước này, trong điều kiện độ ẩm

dưới 5%, bảo đảm tỷ lệ sống sót của vi khuẩn cao và sẵn sàng
cho giai đoạn cuôí là kiểm tra để đảm bảo các dòng vi khuẩn
không nhiễm khuẩn salmonella.
kaluza:
2. Giải thích về Enzym: Enzym là gì và Enzym hoạt động như thế
nào

Enzym là những protein, được sản xuất tự nhiên từ thực vật, động
vật, vi khuẩn, nấm và các sinh vật khác, hết sức cần thiết cho sự
sống. Chúng là những chất xúc tác thúc đẩy tốc độ các phản ứng
hoá học mà không làm thay đổi tính chất của chúng. Các loại
enzym trên thị trường được trích ra từ vi khuẩn hay nấm như các
loại: Bacillus, Aspergillus và Trichoderma.

Enzym làm việc bằng cách cắt các hợp chất phức hợp (hợp chất
nền) thành những hợp chất đơn, dễ dàng cho vi khuẩn sử dụng
như là chất dinh dưỡng của chúng. Enzym từ những nguồn khác
nhau làm việc có hiệu qủa tối ưu ở một nhiệt độ và độ pH cụ thể.
Đây là điều cần xem xét cẩn thận khi chọn một sản phẩm enzym.
Enzym được phân loại theo những hợp chất (chất nền) mà chúng
hoạt động. Ví dụ, proteases phân hủy proteins, cắt chúng thành
amino acids và peptides. Cellulases cắt cellulose, thành phần
chính không thể tiêu hoá được có nhiều trong thành tế bào thực
vật , thành đường đơn. Chỉ cần một lượng rất nhỏ để phân hủy
một lượng lớn chất nền, tỷ lệ giữa enzym và chất nền là từ
1/1.000 đến 1/1.000.000.

Enzym có ổn định không
Để làm việc có hiệu quả, enzym cần phải chiụ được sự bả? quản,
axít và sự phân giải protein. Enzym của UTI được sản xuất từ

những dòng vi khuẩn và công nghệ tối ưu, sau đó được làm ổn
định bằng một công nghệ đã được cấp bằng sáng chế. Khi trộn
với vi khuẩn, hoạt động của chúng không bị ảnh hưởng do bảo
quản kéo dài hay các hợp chất ôxy hoá như vitamin, khoáng chất
và các điều kiện dễ phân hủy khác.

Làm sao so sánh được các enzym khác nhau
Với rất nhiều sản phẩm enzym hiện có trên thị trường, vấn đề so
sánh chính xác chất lượng của những sản phẩm này là rất quan
trọng. Nhưng thật không may, hiện chưa có một phương pháp thử
nghiệm hoặc giải thích chuẩn hoá hoạt động của enzym. Và mỗi
nhà sản xuất có một cách thử nghiệm riêng nên rất khó so sánh
trực tiếp các sản phẩm với nhau. Một số sản phẩm liệt kê một số
lớn các enzym trên nhãn làm cho nó có vẻ có nồng độ cao, nhưng
nên nhớ rằng số lượng chỉ là tương đối trên một đơn vị thí nghiệm
hay hoạt động. Cách tốt nhất là thử nghiệm đồng thời các sản
phẩm tương tự trong một phòng thí nghiệm và cùng phương pháp
thí nghiệm. Một quy trình độc đáo nữa của UTI là sử dụng enzym
thuần chất trong sản phẩm của nó và điều đó làm cho nó mạnh
gần 10 lần so với các sản phẩm enzym khác.
kaluza:
3.Tại sao chế phẩm BZT lại ở dạng bột ?

Trước đây, các sản phẩm sinh học thường có dưới hai dạng: lỏng
và bột. Điều quan trọng cần nhớ rằng sản phẩm sinh học là các cơ
thể sống. Khi vi khuẩn ăn và sinh sản trong những điều kiện không
giống như trong phòng thí nghiệm (nhiệt độ, pH, nguồn thực phẩm
cụ thể), các thế hệ sau càng trở nên ít hiệu qủa hơn. Hầu hết các
nhà sản xuất thường thêm một nguồn thực phẩm vào sản phẩm
dù ở dạng lỏng hay bột. Nguồn thực phẩm chính cho vi khuẩn

thường là một loại ngũ cốc nào đó. Vì vi khuẩn tiêu hóa và sinh
sản trong những điều kiện không phải là phòng thí nghiệm, hiệu
qủa của sản phẩm giảm đi nhanh chóng. Khi sản phẩm đến tay
người sử dụng, họ chẳng có một sự bảo đảm nào về hiệu qủa của
sản phẩm đó. Hơn nưã thời gian bảo quản của những sản phẩm
này thường rất ngắn.
UTI sử dụng quy trình ?bọc? vi khuẩn được cấp bằng phát minh
như đã nói ở trên trong tất cả các loại sản phẩm. Vi khuẩn không
chết mà cũng không sống, chúng bị làm cho ngừng hoạt động. Khi
trộn với nước, lớp bảo vệ đó sẽ bị hoà tan và người sử dụng có
thể tin chắc rằng thế hệ vi khuẩn đầu tiên với nồng độ cao đã sẵn
sàng làm việc. Quy trình tạo vi bào tử này làm cho sản phẩm của
chúng tôi có thời hạn sử dụng tối thiểu là 2 năm.
Navigation

×