Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Tăng cholesterol: thủ phạm gây ra bệnh tim mạch docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (148.64 KB, 3 trang )

Tăng cholesterol: thủ phạm gây
ra bệnh tim mạch

Nồng độ cholesterol trong máu cao (còn gọi là mỡ máu cao) là nguyên nhân chủ yếu
gây ra chứng xơ vữa động mạch. Từ các mảng xơ vữa sẽ làm hẹp các động mạch
cung cấp máu để nuôi các cơ quan khác trong cơ thể, trong đó có động mạch vành ở
tim. Khi động mạch vành bị hẹp thì lượng máu đến nuôi cơ tim bị thiếu, cho nên sẽ
gây ra cơn đau thắt ngực, nếu thiếu máu nặng sẽ gây nên cơn nhồi máu cơ tim.
Các loại cholesterol trong máu
Cholesterol trong cơ thể bao gồm: LDL là loại cholesterol có hại, chúng tham gia vào quá
trình xơ vữa mạch máu và cholesterol HDL là loại có ích, chúng có tác dụng bảo vệ thành
mạch và chống lại bệnh xơ vữa động mạch. Tuy nhiên, bệnh lý về động mạch vành và
các bệnh lý tim mạch khác càng tăng cao, nếu người bệnh có các yếu tố nguy cơ khác đi
kèm như: hút thuốc lá, tăng huyết áp, đái tháo đường, ít vận động và thừa cân, béo phì.

Chế độ dinh dưỡng hợp lý góp phần
quan trọng làm giảm cholesterol có hại.

Mỡ trong máu tồn tại dưới hai dạng chính là cholesterol và triglycerid, vì vậy khi kiểm
soát mỡ máu cần phải đánh giá đầy đủ những yếu tố như: cholesterol toàn phần, LDL-C,
HDL-C, triglycerid. Nếu chúng ta kiểm soát được chúng theo những chỉ tiêu như:
cholesteol toàn phần dưới 5,2mmol/L, LDL-C dưới 3,4mmol/L, HDL-C trên 0,9mmol/L,
triglycerid trong khoảng 0,46 -1,88mmol/L, thì sẽ phòng ngừa rất hữu hiệu bệnh xơ vữa
động mạch. Giảm cholesterol trong máu còn được gọi là giảm mỡ trong máu, vì khi đó
không chỉ có cholesterol trong máu giảm mà cả triglycerid cũng phải giảm.
Nếu kết quả xét nghiệm cholesterol toàn phần dưới 5,2mmol/ thì người đó hoàn toàn bình
thường và nguy cơ mắc bệnh tim mạch ít hơn, khi đó có thể ăn uống và sinh hoạt bình
thường. Việc tiến hành kiểm tra cholesterol trong máu nên thực hiện ít nhất mỗi 6 tháng
một lần, nhất là đối với những người cao tuổi, thừa cân, tăng huyết áp hay bệnh mạn tính
nào khác thì có thể kiểm tra nhiều lần hơn.
Nếu cholesterol toàn phần ở mức lớn hơn 5,2mmol/L, tức là bắt đầu có dấu hiệu cao nguy


cơ mắc bệnh xơ vữa động mạch. Tuy nhiên, chúng ta nên làm thêm xét nghiệm LDL-C
và HDLC, đường máu và kiểm tra huyết áp để đánh giá bệnh, từ đó sẽ có những biện
pháp xử trí kịp thời.
Biện pháp phòng ngừa
Để giảm thiểu nguy cơ bệnh tim mạch do tăng cholesterol trong máu, chúng ta cần thực
hiện tốt việc tầm soát để phát hiện và điều trị kịp thời. Để điều trị tăng cholesterol trong
máu không phải là việc làm đơn giản, do đó công tác phòng ngừa là hết sức cần thiết.
Để phòng ngừa, chúng ta không nên ăn những thức ăn chứa nhiều cholesterol mà nên ăn
những thức ăn có chứa acid béo không bão hòa rất cần thiết cho cơ thể như: dầu mè, dầu
đậu phộng, dầu ô-liu, mỡ cá hồi, dầu đậu nành và ăn nhiều rau xanh, hoa quả. Việc điều
trị tăng cholesterol trong máu có rất nhiều loại thuốc, tuy nhiên việc quyết định chế độ
điều trị hoàn toàn phải do bác sĩ quyết định, chứ người bệnh không thể tự tiện điều trị.
Bên cạnh việc dùng thuốc thì việc thay đổi lối sống, thay đổi chế độ ăn cũng là biện pháp
rất quan trọng góp phần làm giảm cholesterol có hại và phòng ngừa bệnh tim mạch, đó là
hạn chế ăn những thức ăn làm tăng cholesterol, nhất là khả năng làm gia tăng cholesterol
có hại cho cơ thể như: dầu cọ, dầu dừa, mỡ bò, pho-mát, bơ… nhất là những người có
nguy cơ cao như: thừa cân, béo phì, đái tháo đường, cao huyết áp.
Ngoài ra, cần phải thường xuyên tập luyện thể dục thể thao như: đi bộ, chạy chậm, đi xe
đạp… ở mức độ vừa phải, không nên gắng sức. Thời gian tập mỗi lần phải ít nhất 30 phút
và tối đa không nên quá 45 phút, ít nhất tập 3 lần trong 1 tuần, đó cũng là một biện pháp
quan trọng làm tiêu hao năng lượng dư thừa trong cơ thể, nhất là những người thường
xuyên ngồi làm việc tại chỗ. Cần hạn chế sử dụng rượu, bia, cà phê, không hút thuốc lá vì
những chất này cũng góp phần làm gia tăng cholesterol có hại, tức là làm tăng nguy cơ
mắc bệnh tim mạch, đái tháo đường, cao huyết áp…
BS. HỒ VĂN CƯNG

×