Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (121.08 KB, 2 trang )
Dùng thuốc ở phụ nữ mang thai có virut
viêm gan B
Viêm gan do virut viêm gan B (gọi tắt là viêm gan B) là một bệnh nhiễm trùng nặng và
phổ biến, gây bệnh cho hàng triệu người trên khắp thế giới. Đại đa số các trường hợp
mang virut viêm gan B (HBsAg dương tính) trong dân chúng là do lây truyền từ mẹ sang
con.
Việt Nam nằm trong vùng dịch tễ của nhiễm virut viêm gan B mạn tính với tỉ lệ mang
HBsAg trung bình 15% (khoảng 12 triệu người mang HBsAg mạn tính, trong đó có đến
hơn 6 triệu người là nữ giới và hơn 2 triệu phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ). Nếu theo đúng
các quy trình phòng lây nhiễm HBV từ mẹ sang con, hằng năm vẫn có đến 300.000 trẻ
sinh ra được phòng bệnh đúng nhưng vẫn trở thành người mang HbsAg mạn tính.
Thuốc có ảnh hưởng đến sức khỏe bà mẹ, thai nhi và trong khi sinh nở. Đặc biệt đối với
các bà mẹ mang thai có nhiễm virut viêm gan B cần phải cân nhắc giữa lợi ích và nguy
cơ khi dùng thuốc. Trên thực tế phần lớn thuốc từ máu mẹ có thể thấm qua nhau thai vào
máu thai gây hại cho thai trong tất cả các giai đoạn nhưng nguy hiểm nhất là 3 tháng đầu
và sau đó 3 tháng cuối của thai kỳ. Do vậy khi mang thai tốt nhất là không dùng thuốc
khi không cần thiết (kể cả những thuốc bổ gan).
Cấu trúc phân tử virut viêm gan
B.
Một số phụ nữ trong lứa tuổi sinh đẻ biết mình bị nhiễm virut viêm gan B, trước hết cần
đến gặp thầy thuốc chuyên khoa để được tư vấn, thông báo, theo dõi về tình trạng nhiễm
virut của mình, các nguy cơ có thể xảy ra và đặc biệt tư vấn cho họ để phòng bệnh tích
cực ngay sau khi sinh (tiêm phòng vaccin viêm gan mũi đầu ngay trong vòng 12 giờ sau
sinh và đủ 4 mũi trong năm đầu, phối hợp với gammaglobuline miễn dịch đặc hiệu chống
virut viêm gan (Hbig) ngay sau sinh). Nếu không thì khả năng lây cho con cao và trẻ trở
thành người mang HBsAg mạn tính là trên 90%, trong khi người lớn nếu bị nhiễm HBV