Tải bản đầy đủ (.pdf) (3 trang)

Ginkgo biloba không lành tính như bạn nghĩ pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (133.21 KB, 3 trang )

Ginkgo biloba không lành
tính như bạn nghĩ

Tác dụng dược lý
Ginkgo biloba được chiết xuất từ cao chế từ lá
cây bạch quả (Ginkgo biloba) đã được tiêu
chuẩn hóa (viết tắt EGB). EGB (ký hiệu EGb
761) có chứa 24% flavonoid, 6% ginkgolid-
biloba (ditepen lacton) và chứa không quá 5
phần triệu acid ginkgolic.
EGB làm tăng chức năng tuần hoàn não, tăng
tính chịu đựng của mô não khi thiếu ôxy,
chống ôxy hóa gốc tự do, ổn định màng nên được coi như một chất bảo vệ thần kinh.
Chúng là yếu tố ngăn cản kích hoạt tiểu cầu nên có tính chống đông máu. Ngoài ra,
chúng còn làm thư giãn nội mô qua sự ngăn chặn 3-5 cyclic GMP (guanosid
monophosphat), phosphodiesterase, ngăn chặn bớt mật độ nhạy của thụ thể cholin, thụ
thể gây tiết epinephrin, kích thích sự hấp thu cholin ở chân hải mã (hippocampus). Chúng
cũng ngăn cản việc kết tụ các mảng amyloid (nguyên nhân gây bệnh Alzheimer).
Hiệu năng của EGB đã được chứng minh (trên các thử nghiệm có đối chứng với giả
dược) ở người bị thiểu năng tuần hoàn não, bị suy giảm chức năng tuần hoàn chung, bệnh
suy mạch máu ngoại vi, rối loạn thính giác nên EGB được dùng điều trị thiểu năng tuần
hoàn não (với các biểu hiện chính là ù tai, chóng mặt, giảm thị lực, vài chứng suy võng
mạc mắt); điều trị thiểu năng tuần hoàn não khi chưa bị tai biến mạch máu não nhằm dự
phòng từ xa tai biến mạch máu não, điều trị thiểu năng tuần hoàn não sau khi đã bị tai
biến mạch máu não nhằm dự phòng tai biến mạch máu não thứ phát; điều trị các triệu
chứng đau (do suy tuần hoàn ngoại vi như đau thắt khi đi ngoài, rối loạn dinh dưỡng), các
triệu chứng khập khểnh cách hồi, hội chứng Raynaud, chứng nhược dương (phối hợp với
papaverin).

Cây bạch quả Ginkgo biloba.
Trong vài năm gần đây, có khoảng vài trăm công trình nghiên cứu xem xét lại dược tính


và ứng dụng lâm sàng của EGB. Về sự cải thiện nhận thức EGB có cải thiên sự suy giảm
chức năng nhận thức kể cả suy giảm chức năng nhận thức trong bệnh Alzheimer. Tuy
nhiên, hầu như không có lợi ích cho những người đã sa sút trí tuệ do Alzheimer hay do
tuổi già. Do chỉ dùng EGB cho những người giảm sút nhận thức cho người thiểu năng
tuần hoàn não hay sau tai biến mạch máu não cho người mới bị Alzheimer (thực tế cũng
ít dùng). Không dùng cho người Alzheimer giai đoạn nặng (lú lẫn). Hiệu quả trong bệnh
khập khểnh cách hồi tuy có nhưng ít và chỉ có được hiệu lực như ý muốn khi dùng liều
cao (240mg/ngày). EGB cũng có hiệu quả giảm ù tai hoặc mất hẳn ù tai cho 50% người
dùng, song chỉ với những người mới bị ù tai (có thể là ù tai liên quan đến vận mạch).
Nhưng không hoàn toàn lành tính
Trong chiết xuất ginkgo biloba có acid ginkgolic gây độc nên tiêu chuẩn EGB là không
được chứa quá 5 phần triệu chất này. Ngoài ra, các nhà lâm sàng đã ghi nhận ginkgo
biloba có một số tác dụng phụ sau: gây nhức đầu, bồn chồn, buồn nôn, tiêu chảy; làm
tăng nguy cơ chảy máu (do có yếu tố ngăn cản sự kích hoạt tiểu cấu, chống đông máu);
một số ít trường hợp có một biến chứng nghiêm trong gồm xuất huyết dưới màng cứng,
xuất huyết dưới nhện, xuất huyết trong não, xuất huyết tiền phòng mắt (chưa rõ lý do vì
sao). Chưa có tài liệu nào chứng minh tính an toàn của EGB ở người mang thai, cho con
bú.
Từ đó, các nhà lâm sàng đưa ra một số khuyến cáo sau:
- Không dùng cho người có rối loạn đông máu, không dùng chung với các thuốc chống
đông máu (warparin, heparin) hay các thuốc ngăn ngừa sự tập kết tiểu cầu (aspirin,
dipyridamol, ticlopidin). Nếu cần dùng chung thì phải tính toán liều lượng thật cẩn thận,
theo dõi chặt chẽ. Không nên dùng chung với các thảo dược như fefeverfew, tỏi, sâm,
clover đỏ, đặc biệt những nhóm dược thảo có chứa coumarin. Các phối hợp nói trên sẽ
cộng hợp tính chống đông máu của các chất, các thảo dược và tính gây chống đông máu
của EGB làm tăng sự chảy máu.
- Nên ngừng dùng EGB trong 36 giờ hay tốt hơn nữa là 14 ngày trước khi phẫu thuật
(nhằm tránh nguy cơ tăng chảy máu).
- Không dùng chung với thuốc động kinh (như carbamazepin, valproic acid) vì EGB làm
giảm hiệu lực các thuốc chống động kinh.

- Tai biến mạch máu não có hai loại, một loại là chảy máu não (do vỡ mạch máu), một
loại là nhũn não (do huyết khối làm tắc nghẽn mạch máu). EGB được chọn dùng cho
trường hợp tai biến mạch máu não do nhũn não và không dùng trong trường hợp tai biến
mạch máu não do chảy máu não.
- Không nên dùng chung với tradone vì có thể bị hôn mê (mới gặp một trường hợp).
- Không nên dùng cho người có thai (vì chưa chứng minh được tính an toàn).
Người xưa đã dùng lá ginkgo biloba có hiệu quả an toàn. Do vậy, khi chiết xuất ra EGB,
người ta tin cậy hoàn toàn vào kinh nghiệm cũ. Các tài liệu trước đây ghi nhiều công
dụng, không đề cập đến chống chỉ định nào. Ngày nay, các nhà lâm sàng đã khảo sát lại,
cho dùng EGB trong một số trường hợp thực sự có hiệu lực, có lưu ý đến những tác
dụng phụ, khuyến nghị những trường hợp cần thận trọng, không nên dùng. Nên biết
thêm về các điều này, không nên coi EGB là thuốc bổ não đa năng, hoàn toàn lành tính.
Não của người bị rối loạn tuần hoàn.
DS. Bùi Văn Uy

×