KỸ THUẬT TRỒNG ỚT CAY
ĐẠT HIỆU QUẢ CAO
Ớt đang là cây trồng đem lại thu nhập cho một bộ phận không nhỏ
nông dân ở nhiều địa phương thuộc khu vực đồng bằng sông Cửu Long. Bài
viết sau đây xin nêu ra một số biện pháp để trồng và phòng trừ sâu bệnh cho
ớt đem lại hiệu quả kinh tế cao.
Gieo hạt và chăm sóc cây con: nên gieo hạt trong bầu để khi đem
trồng cây con nhanh bén rể hồi xanh. Trước khi trồng một tuần, cần “luyện”
cho cây con cứng cáp. Nếu cây con mềm yếu thì khi trồng ra ruộng dễ bị héo
khi gặp trời nắng và đỗ ngã khi gặp trời mưa. Phương pháp luyện cho cây
cứng trước khi trồng cần chú ý hai yếu tố là ánh sáng và nước tưới. Tháo hết
giàn và lưới che để cây tiếp xúc trực tiếp với ánh sáng mặt trời. Không nên
thường xuyên tưới nước. Để cho cây bắt đầu hơi héo mới tưới nước và mỗi
lần tưới cần tưới thật đẫm. Cây con từ 20-30 ngày tuổi là đem trồng được.
Nếu để cây con trong vườn ươm quá lâu thì khi trồng cây sẽ chậm bén rể,
phát triển kém, giảm năng suất. Đối với giống ra hoa sớm thì không nên
trồng cây con quá 25 ngày tuổi. Nên tưới đẫm nước trước khi trồng 2-3 giờ.
Nếu tưới xong mà đem trồng liền thì bầu đất dễ vỡ.
Khoảng cách trồng: tùy đặc tính giống như chiều cao cây, sự phát
triển cành lá mà khoảng cách trồng có khác nhau. Nếu liếp rộng 0,8 -1 m,
mương rộng trên 0,4m thì chỉ trồng 1-2 hàng, cây cách cây tối thiểu 0,3 m.
Nếu trồng quá dày sẽ hạn chế sự phát triển cành mang trái, tăng khả năng
sâu bệnh, tăng chi phí sản xuất như lượng hạt giống, công trồng,
Tỉa bỏ chồi gốc: hiện nay phần lớn nông dân trồng ớt không chú ý
khâu kỹ thuật này nhưng đây là một biện pháp kỹ thuật không kém phần
quan trọng. Các chồi nằm dưới vị trí phân cành cần được tỉa bỏ bằng tay khi
chồi mới ra 1-2 cm để giúp thông thoáng, hạn chế sâu bệnh, tập trung dinh
dưỡng phát triển cành mang trái, tăng năng suất.
Phân bón: lượng phân bón cho 1000m
2
như sau: Bón lót: 2-3 m
3
phân
chuồng, 20 kg NPK 16-16-8. Nếu không có phân chuồng, có thể thay bằng
các loại phân hữu cơ vi sinh (theo hướng dẫn trên bao bì). Bón thúc sinh
trưởng (khoảng 20-25 ngày sau khi trồng): 40 kg NPK 16-16-8 + 7 kg KCl.
Bón thúc nuôi trái (khoảng 40-50 ngày sau trồng): 70 kg NPK 16-16-8 + 15
kg KCl. Nếu muốn kéo dài thời gian thu hoạch thì khoảng 75-80 ngày sau
khi trồng tiếp tục bón phân: 40-50 kg NPK 16-16-8 + 5 kg urê + 5-7 kg KCl.
Đối với chân đất ruộng thì kết hợp bón gốc với bồi bùn. Nếu trồng trên đất
liếp thì sau khi bón phân cần xới xáo vun gốc lấp phân để tránh phân bốc hơi
đồng thời giúp ớt ra rể bất định (khi vun đất hoặc bồi bùn lên phần thân sát
gốc thì rể sẽ mọc ra ở vị trí thân được lấp đất) hạn chế đỗ ngã và tăng khả
năng hút dinh dưỡng.
Ngoài các lần bón thúc chính nêu trên cần tưới dặm 6-10 ngày/lần tùy
theo tình hình sinh trưởng của cây. Khi cây chưa mang trái có thể sử dụng
phân 16-16-8 để tuới (5-10 kg/lần tưới). Khi cây mang trái: Nếu chỉ dùng
NPK thì nên dùng các loại phân có hàm lượng kali cao như 15-15-15 hoặc
15-15-20, nếu dùng 16-16-8 thì cần bổ sung KCl (2-3 kg KCl/lần tưới).
Trong mùa nắng, giai đoạn thu hoạch trái có thể sử dụng ure kết hợp KCl để
tưới cho cây mỗi tuần 1 lần. Nhưng trong mùa mưa thì không nên tưới ure
mà nên dùng phân NPK.
Chú ý: lượng phân bón trên chỉ có tính chất tham khảo. Tùy theo từng
chân đất, cây trồng vụ trước và tình hình sinh trưởng của cây mà gia giảm
lượng phân cho hợp lý. Nếu giai đoạn đầu bón không đủ phân, cây phát triển
kém thì sẽ không cho năng suất cao. Nếu bón quá nhiều phân đặc biệt phân
đạm thì sẽ dễ bị nhiễm bệnh. Tốt nhất nên pha loãng phân DAP hoặc 16-16-
8 (2 kg/1000m
2
) tưới cho cây ngay sau khi trồng 4-5 ngày, sau đó 4-5 ngày
tưới một lần và theo dõi tình hình sinh trưởng của cây mà gia giảm lượng
phân và khoảng cách giữa các lần tưới cho hợp lý để cây sinh trưởng tốt
đồng thời tiết kiệm công lao động.
Sử dụng thêm phân bón lá có chứa Ca và các chất vi lượng. Khi sử
dụng phân bón lá cần chú ý hàm lượng đạm, lân, kali ghi trên bao bì. Giai
đoạn cây mang trái thì không sử dụng các loại phân bón lá có hàm lượng
đạm cao, nhất là trong mùa mưa vì sẽ tăng bệnh thán thư (nông dân thường
gọi là nổ trái). Lúc cây ra hoa nên phun CaBo hoặc Clorua canxi 7-10 ngày 1
lần sẽ giúp tăng đậu trái, trái bóng, cứng trái hạn chế bệnh thán thư và ngăn
ngừa bệnh thối đít trái do thiếu canxi.
Bệnh héo vi khuẩn
Phòng trừ một số sâu bệnh chủ yếu: bọ trĩ, rầy mềm, rầy đen, bọ
phấn chích hút nhựa cây, phá hại trên lá non, đọt non, bông và trái làm cho
lá bị quăn queo, đọt non không phát triển được. Ngoài ra các côn trùng chích
hút còn truyền bệnh virus. Phòng trừ: Dọn sạch cỏ dại, tỉa bớt cành nhánh để
cây được thoáng, hạn chế điều kiện ẩn nấp của rầy và dễ xịt thuốc. Xịt thuốc
ngay khi phát hiện trên ruộng có các côn trùng chích hút bằng các loại thuốc
như Oncol, Admire, Confidor, Hopsan,…. Đối với các loại sâu ăn lá và sâu
đục trái (sâu xanh, sâu ăn tạp, …) cần vệ sinh đồng ruộng, phun các loại
thuốc: Nockthrin, Polytrin, Lannate, Desis, Regent, để phòng trừ.
Bệnh héo xanh vi khuẩn xảy ra rải rác trên một số cây hoặc thành từng
đám trên ruộng. Trên cây già, triệu chứng khởi đầu là các lá dưới hơi héo, ở
cây non thì các lá trên héo trước. Triệu chứng héo ban đầu tiếp diễn sau vài
ngày thì cây không còn phục hồi được và chết khi lá vẫn còn xanh. Phòng
trừ: Đảm bảo đất thoát nước tốt. Loại bỏ cây có triệu chứng nhiễm bệnh
(nhổ bỏ cây và đem đi tiêu hủy), rãi vôi nơi cây bị bệnh. Các loại thuốc hoá
học không có hiệu quả đối với bệnh này. Cần luân canh với cây bắp, đậu,
các loại rau ăn lá,… ít nhất trong 3 năm không trồng cây thuộc họ cà. Tốt
nhất là luân canh với cây lúa.
Bệnh thán thư có thể xuất hiện trên ruộng hoặc làm thối trái ớt đã thu
hoạch. Vết bệnh trên trái có các đường viền xếp đồng tâm, lõm sâu, có màu
vàng hay nâu đậm. Bệnh rất phổ biến và gây hại nghiêm trọng trong điều
kiện ẩm ướt mùa mưa, có thể làm giảm năng suất 70-80%. Bệnh mẫn cảm
với chế độ phân bón, đặc biệt trong mùa mưa, bệnh sẽ phát triển mạnh khi
bón nhiều phân đạm. Phòng trừ: Bón phân cân đối, phun thêm phân bón lá
có chứa Ca và hàm lượng kali cao giai đoạn cây bắt đầu mang trái. Hái bỏ
các trái bị bệnh đem tiêu hủy. Tỉa bỏ chồi và lá gốc để ruộng thông thoáng
hạn chế bệnh và dể phun thuốc. Dùng luân phiên các loại thuốc trừ nấm như
Ridomil, Score, Carbendazim, Benlat C.
Bệnh đốm lá Cercospora (đốm mắt ếch): Bệnh trên lá có màu nâu và
dạng tròn, tâm vết bệnh màu xám nhạt có viền màu nâu đậm. Các vết bệnh
trên thân, cuống lá và cuống hoa cũng có tâm màu xám nhạt với viền sậm
màu, nhưng chúng thường có hình bầu dục. Lá bệnh thường rụng khi chuyển
sang màu vàng hoặc ngay cả lúc còn xanh. Khi bệnh phát triển mạnh, lá sẽ
rụng rất nhiều. Trái không bị nhiễm bệnh. Bệnh rất phổ biến trong mùa mưa.
Sử dụng các loại thuốc diệt nấm như Antracol, Tilt, Mancozeb,…
Bệnh cháy lá Choanephora: Các triệu chứng đầu tiên thường xuất hiện
ở hoa, chồi hoa hoặc đỉnh ngọn cây. Vết bệnh có màu nâu hoặc nâu đen,
nấm bệnh lan nhanh xuống phía dưới làm chết một phần ngọn cây. Bệnh gây
thiệt hại nặng trong mùa mưa. Sử dụng các loại thuốc diệt nấm như
Mancozeb, Kasuran,
Bệnh sương mai: Bệnh có thể xuất hiện trên ớt vào bất cứ giai đoạn
sinh trưởng nào. Phổ biến nhất là bệnh gây thối cổ rể và héo cây. Đặc điểm
chính là sự đổi màu thân cây sang màu nâu đậm, lan dần từ phần ngang mặt
đất lên thân trên kèm theo sự héo đột ngột của toàn cây mà không vàng lá.
Các vết bệnh ở phần thân trên có màu nâu đậm, xuất hiện chủ yếu ở các
nách của nhánh cây làm cho nhánh phía trên vết bệnh bị chết. Các vết bệnh
trên lá phát triển nhanh chóng tạo nên các vùng có màu xanh đậm thấm ướt
sau đó khô đi và có màu nâu nhạt. Vết bệnh trên trái có màu xanh đục thấm
ướt lan rộng nhanh bao phủ toàn trái, làm trái mềm nhũn và nhăn nheo.
Bệnh xuất hiện trên cây con làm cây con bị cháy ngọn và chết rạp. Bệnh
phát triển mạnh trong điều kiện ẩm ướt do tưới quá mức hoặc thoát nước
kém. Sử dụng thuốc Aliette, Kasuran, Carbendazim, Funomyl,…
Các bệnh virus: phần lớn các bệnh virus lây truyền từ cây này sang
cây khác bởi các côn trùng môi giới. Các môi giới quan trọng của bệnh virus
trên ớt bao gồm rầy, rệp, bọ trĩ, bọ phấn. Một số virus nằm trong hạt và một
số khác lan truyền bằng phương tiện cơ giới. Phòng trừ: phun các loại thuốc
như Oncol, Trebon, Nockthrin, Admire, Confidor để phòng trừ côn trùng
môi giới. Không nên sử dụng dao, kéo cắt tỉa chồi mà nên sử dụng tay lặt bỏ
chồi gốc khi chồi còn non (chồi dài 1-2 cm). Nhổ bỏ những cây bị bệnh để
tránh lây nhiễm do côn trùng chích hút. Chú ý: Các côn trùng chích hút
thường gây nên các triệu chứng tương tự virus như thun ngọn, lá cong biến
dạng, do đó cần quan sát kỹ các lá non trên ngọn cây, các côn trùng chích
hút thường nằm phía dưới phiến lá.
Để hạn chế các loại bệnh phát triển và lây lan, cần chú ý vệ sinh đồng
ruộng, trồng với mật độ vừa phải tạo độ thông thoáng, thoát nước tốt, bón
phân cân đối, lặt bỏ các phần bị bệnh (lá, cành và trái) đem tiêu hủy.