Tải bản đầy đủ (.pdf) (20 trang)

BỆNH HỌC THỰC HÀNH - CƠN ĐAU THẮT NGỰC ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (192.52 KB, 20 trang )

BỆNH HỌC THỰC HÀNH
CƠN ĐAU THẮT NGỰC
(Angor Pectoris - Anginalsyndrome)
& THIẾU MÁU CƠ TIM (Ischaemie Heart disease -
Angine de poitrine)
Đại Cương
Bệnh thiếu máu tim cục bộ hay thiếu máu cơ tim là một trong những
biểu hiện thường gặp nhất của bệnh xơ mỡ động mạch. Bệnh thiếu máu tim
là bệnh thường gặp ở người lớn tuổi và là nguyên nhân tử vong cao (ở các
nước phát triển, 50% các trường hợp tử vong là do thiếu máu tim).
Theo cách phân loại của tổ chức Y Tế Thế giới (OMS) năm 1967,
bệnh thiếu máu tim gồm những thể chính sau:
+ Nhồi máu cơ tim cấp dìễn (Acute myocardial infarction).
+ Cơn đau thắt tim, còn gọi là cơn đau thắt ngực (Angor pectoris).
+ Những thể thiếu máu tim cấp và bán cấp khác.
+ Thể thiếu máu tim không triệu chứng (hay thể không đau, thể loạn
nhịp).
Sau nhiều lần đau thắt tim tái phát, quá trình thiếu máu tim tiến triển
kéo dài dẫn đến xơ hóa cơ tim (Cardiosclérose).
Theo nhiều tác giả về tim học thì 90% trường hợp đau thắt tức là hậu
quả của bệnh nhiễm mỡ xơ mạch vành, do đó trong điều trị, ngoài việc cắt
cơn đau cần chú ý phát hiện và điều trị bệnh nhiễm mỡ xơ mạch (hoặc huyết
áp cao thường đi kèm).
Trong bệnh thiếu máu tim mạn tính, hiện nay tim học phân biệt 2 thể
đau thắt tim:
1) Cơn đau thắt tim thể ổn định (Angor stable) có đặc điểm là cơn đau
tái phát nhiều lần trong thời gian 3 tháng mà số lần và mức độ không thay
đổi đáng kể là thể nhẹ lành tính.
2) Cơn đau thắt tim thể bất ổn (Angors instables) có nhiều loại đau
thắt tim với những tên gọi khác nhau như: Hội chứng trung gian (Syndronle
intermédiate), hội chứng tiền nhồi máu (Syndrome pré-infarct), hội chứng đe


dọa (Synclrome de menace). Đặc điểm cơn đau ở thể này là xuất hiện dễ hơn,
nặng hơn, kéo dài hơn, cơn đau không do gắng sức, ban đêm hoặc đau dữ
dội
Nguyên Nhân Và Cơ Chế Bệnh Lý Của Bệnh Đau Thắt Ngực Và
Thiếu Máu Tim
+ Nhiễm mỡ xơ mạch vành: là nguyên nhân trong 90% trường hợp.
Cơn đau thắt tim do nhiễm mỡ xơ mạch tiên lượng xấu, dễ chuyển sang nhồi
máu cơ tim, loạn nhịp tim, suy tim, chết đột ngột.
+ Các nguyên nhân khác (10%).
. Tổn thương thực thể ở động mạch vành hoặc suy chức năng mạch
vành: Tổn thương thực thể như viêm động mạch vành do giang mai, viêm
quanh nút động mạch, tắc mạch vành do máu cục từ xa đưa đến.
. Suy động mạch vành chủ yếu do hẹp van động mạch chủ, calci hóa
hay không, hở van động mạch chủ nặng: hẹp hai lá khít, cơn nhịp nhanh kịch
phát, thiếu máu nặng kéo dài
Cơ chế bệnh lý: Do thiếu máu nên thiếu oxy và để có năng lượng sống,
tế bào cơ tim phải cho phân hủy Adenonucleotid để tạo năng lượng. Và
trong quá trình phóng chất Adenosin gây nên đau.
Triệu Chứng Lâm Sàng
A - Cơn điển hình
- Đau sau xương ức đột ngột, thường xảy ra khi đang đi vội, leo dốc,
lên cầu thang, khi trời lạnh v.v
- Cảm giác tức ngực như có vật đè lên sau xương ức hoặc bên trái, đau
lên hai vai, hai quai hàm dưới, phía trong tay trái lan lên cổ. Cũng có khi
cảm giác đau nhói hoặc nóng bỏng.
- Cảm giác bồn chồn lo sợ, cơn kéo dài vài giây đến vài phút. Nếu kéo
dài hơn nửa giờ phải nghĩ đến nhồi máu cơ tim.
Cơn có thể thưa hay mau. Cơn càng mau, càng kéo dài, tiên lượng
càng xấu. Cơn đau có thể chấm dứt hoặc giảm ngay sau khi hết yếu tố kích
thích hoặc 1-5 phút sau khi dùng các Nitrat tác dụng nhanh như ngậm dưới

lưỡi viên Nitroglycerin.
Trong thời gian cơn đau, bệnh nhân không có triệu chứng gì khác.
Mạch, huyết áp nghe tim phổi bình thường. Mạch Trầm, Tế, Sác.
B- Cơn không điển hình
- Vị trí và hướng lan: Có khi chỉ đau ở tay, vùng thượng vị, vùng trên
xương ức, vùng cổ. Có khi lan ra sau gáy, xuống lưng, ra hai tay ngón út
nhưng không bao giờ lan ra ngón cái, và hàm trên.
- Cường độ đau : Có khi chỉ có cảm giác tức sau xương ức.
- Điều kiện xuất hiện: Cơn đau thắt ngực có khi tự phát, xảy ra lúc
ngủ hoặc có cơn xúc động mạnh. Có khi xảy ra liên tục, xuất hiện dễ dàng
chỉ sau một cử động nhẹ.
Triệu chứng lâm sàng còn tùy theo thể loại đau thắt tim mà có khác
(đã nêu ở phần đại cương).
C- Chẩn Đoán Xác Định Và Phân Biệt Chẩn Đoán:
1) Chẩn đoán xác định cần chú ý:
Triệu chứng lâm sàng của thể điển hình và không điển hình.
Phân biệt 3 thể bệnh: ổn định, không ổn định và thể biến thái. Một số
điểm chẩn đoán phân biệt:
Các Thể Đau Thắt Ngực
Ổn
định mãn
Không
ổn định
Biến
thái
Đau
xuất hiện
khi:
+ Gắng
sức.

+ Xúc
động.
+
Nghỉ, yên
tĩnh.
+
+
-
+ +
+ +
(+)
-
-
(+)
Nguyên nhân: Chủ yếu do khí trệ, huyết ứ.
Điều Trị Bằng Y Học Cổ Truyền
Nguyên tắc chung: Hành khí, hoạt huyết, thông dương, hóa trọc.
A- Đang lên cơn :
Chủ yếu là dùng các biện pháp cấp cứu tích cực. Cần sử dụng
Nitroglycerine (Trinitrine), cho thở oxy. Ở Trung Quốc có chế các loại thuốc
phun sương như chữa chứng hàn thì dùng thuốc ‘Phun Sương Tâm Thống’
thể hàn (Nhục quế, Hương phụ). Thuốc ‘Phun Sương Tâm Thống’ thể nhiệt
(Đơn bì, Xuyên khung ). Các học giả Trung Quốc cho là tác dụng không
kém Nitroglycerin.
Các y gia Trung Quốc còn dùng thuốc tiêm như dịch tiêm Xuyên
khung, mỗi ống 40mg, mỗi lần dùng 40 - 120mg cho vào dung dịch Glucoza
5%, 150ml - 500ml nhỏ giọt tĩnh mạch, hoặc dùng dịch tiêm ‘Phức Phương
Đơn sâm’ 2-4ml chích bắp hoặc dùng 10 - 20ml cho vào dung dịch Glucoza
10% - 500ml nhỏ giọt tĩnh mạch, mỗi ngày 1 - 2 lần. Hoặc dùng dịch tiêm
‘Sâm Mạch’ (có Nhân sâm, Mạch môn) 20 - 80ml cho vào dịch Glucoza

50% nhỏ giọt tĩnh mạch ngày 2-4 lần hoặc dùng dịch ‘Sâm Mạch’ l00ml cho
vào Glucoza 10% - 250ml nhỏ giọt tĩnh mạch, ngày một lần. Theo báo cáo
của Trịnh Tân (Sở nghiên cứu trung y Trùng Khánh) thì dịch ‘Sâm Mạch’ có
kết quả tốt đối với cơn đau thắt ngực, choáng, loạn nhịp và suy tim. Trường
họp cơn nặng cần sử dụng thuốc Tây và cho bệnh nhân thở oxy. Nếu không
có sẵn các loại Đông dược dạng thuốc ngậm, thuốc tiêm và thuốc phun
sương thì lúc đang cơn đau ngực chủ yếu là dùng thuốc Tây kết hợp châm
cứu bấm huyệt, xoa bóp.
Các huyệt thường dùng: Chiên trung (chủ huyệt), phối hợp Nội quan,
Cự khuyết, Gian sử, Túc tam lý.
Bấm huyệt Nội quan dùng lực mạnh và bảo bệnh nhân thở sâu liên tục
3 lần, đau giảm. Có kinh nghiệm day bấm huyệt điểm giữa đường nối 2
huyệt Tâm du và Quyết âm du bên trái trong 1-2 phút, đau giảm rõ.
+ Châm Nội quan (tổng huyệt trị bệnh lồng ngực, làm cho tim phổi
điều hòa thư thái), Tâm du (làm cho huyết lưu thông khỏi ứ trệ gây đau),
Chiên trung (huyệt hội của khí, làm cho khí lưu thông, ngực được nhẹ
nhàng), Hợp cốc.
Có thể châm nhiều lần trong ngày tùy số lượng cơn đau.
Khi đang lên cơn đau, châm kích thích mạnh, phải đắc khí để đạt hiệu
quả giảm đau, người bệnh thấy dễ chịu vùng ngực. Lưu kim 30 phút, cứ 10
phút vê kim một lần.
B- Sau Cơn Đau
Ngoài các biện pháp như phần trên đã nêu, dùng thuốc Đông y theo
biện chứng có vai trò tích cực. Có thể chia mấy thể bệnh dùng thuốc như
sau:
+ Tâm khí suy hợp với ứ huyết, đàm tắc: Ngoài cơn đau ngực, tức
ngực có triệu chứng mệt mỏi, sắc mặt tái, tự ra mồ hôi, chân tay yếu, lưỡi
nhạt, mạch Nhược, hoặc chất lưỡi tím, thân lười bệu, mạch Trầm Hoạt.
Điều trị: Bổ tâm khí kèm hoạt huyết, hóa đàm. Dùng bài Bảo Nguyên
Thang gia vị: Nhân sâm 6-10g, Hoàng kỳ 20-30g, Bạch truật 12g, Bạch linh

12g, Quế chi 8 – l0g, Đương qui 12-16g, Đơn sâm 1-16g, Xích thược 12g,
Xuyên khung 8-10g, Quất bì 8-10g, Chỉ xác 8g, Bán hạ chế 8-10g, Chích
thảo 4g.
-Gia giảm: Tim hồi hộp, mất ngủ thêm Táo nhân (sao) 16-20g, Bá tử
nhân 12g. Dương hư (chân tay lạnh mạch Trầm Trì) thêm Phụ phiến 6-12g,
Can khương 6-10g, ngày một thang sắc uống.
+ Âm hư dương thịnh: Đau ngực từng lúc, váng đầu, đau đầu, bứt rứt,
dễ tức giận, sắc mặt đỏ, miệng khô, buồn nôn, lòng bàn tay chân và ngực
nóng, mất ngủ, chân tay tê dại, táo bón, mạch Huyền Sác, chất lưỡi và rêu
lưỡi đỏ, hoặc rêu lưỡi vàng nhớt hoặc mỏng (thể này thường kèm huyết áp
cao).
Điều trị: Tư âm, tiềm dương. Dùng bài ‘Thiên Ma Câu Đằng Ẩm’ hợp
với ‘Kỷ Cúc Địa Hoàng Hoàn’ gia giảm: Sinh địa l6-20g, Hoài sơn 12g,
Bạch linh 12-16g, Trạch tả 12g, Đơn bì 12g, Đơn sâm 12-16g, Thiên ma 10
12g, Câu đằng 12g, Thạch quyết minh 16-20g, Bá tử nhân 12-16g, Cúc hoa
12g, Câu kỷ tử 12-16g. Sắc uống ngày một thang.
+ Khí Aâm Lưỡng Hư Hợp Với Ưù Huyết, Đờm Uất: Mệt mỏi, ngực
đau lâm râm, ngắn hơi, họng có đờm nhưng miệng khô, ra mồ hôi, ngũ tâm
phiền nhiệt, chất lưỡi tím bầm, khô, ít rêu, mạch Hư, Tế, Sác hoặc Kết Đại.
Điều trị: Bổ khí âm kiêm hoạt huyết, hóa đờm. Dùng bài ‘Chích Cam
Thảo Thang’ hợp với ‘Sinh Mạch Tán’ gia giảm: Ngọc trúc 12-16g, chích
Cam thảo 6-8g, Nhân sâm 6-10g, Hoàng kỳ 12-20g, Mạch môn 12-16g, Ngũ
vị tử 6-8g, Sinh địa 12-16g, Đơn sâm l2-16g, Qua lâu 12g, A giao (hòa
uống) 12g, Quế chi 6g, Gừng tươi 6-12g.
Nếu hoa mắt, đau đầu: thêm Cúc hoa, Kỷ tử; Đau lưng, mỏi gối thêm
Tang ký sinh, Sơn thù, Xuyên Ngưu tất; Tim hồi hộp, mất ngủ thêm Táo
nhân (sao), Long nhãn nhục, Viễn chí
Chứng đau thắt ngực biểu hiện lâm sàng thường là hư thực lẫn lộn,
diễn tiến thay đổi nhiều, trên dây chỉ nêu một số thể bệnh thường gặp. Hư
chứng thường là khí hư hoặc khí âm hư, thực chứng thường là can dương

thịnh hoặc kiêm huyết ứ, kiêm thấp đàm, khi điều trị cần chú ý, khi cấp diễn
phải kết hợp thuốc Tây, oxy liệu pháp cấp cứu kịp thời.
C- MỘT SỐ BÀI THUỐC KINH NGHIỆM ĐIỀU TRỊ ĐAU
THẮT NGỰC
(Theo sách ‘Trung Quốc Trung Y Bí Phương Đại Toàn’):
+ Quan Tâm Đơn sâm Hoàn (Hứa Thiểu Vinh và cộng sự): Sâm tam
thất, Đơn sâm, Giáng hương chế thành hoàn, mỗi lần 3 hoàn, ngày 3 lần, 30
ngày là một liệu trình.
Tác dụng chủ trị: Hoạt huyết, hóa ứ, lý khí, trị bệnh động mạch vành,
đau thắt ngực.
+ Kiện Tâm Linh (Khoa Nội Bệnh Viện Trực Thuộc Học Viện Trung
Y Sơn Đông): Hoàng kỳ 45g, Đảng sâm 80g, Đơn sâm 80g, Khương hoàng
9g hoặc Uất kim 9g), Huyền hồ (hoặc Huyền hồ bột hòa uống), Quế chi 9g,
chích Cam thảo 6g, sắc uống.
Biện chứng gia giảm: Đờm thấp nhiều thêm Qua lâu, Phỉ bạch, Bán hạ,
Trần bì, Bạch giới tử, Hoắc hương, Bội lan. Âm hư bỏ Quế chi thêm Sa sâm,
Mạch môn, Hoàng tinh, Ngọc trúc, Thạch hộc. Dương thịnh thêm Cúc hoa,
Câu đằng, Trân châu mẫu. Huyết ứ nặng thêm Xuyên khung, Hồng hoa,
Xích thược, Sinh bồ hoàng
+ Hy Thiêm Kiện Tâm Phương (Bệnh viện giải phóng quân Quảng
Châu): Mao đông thanh căn 2,5kg, Hy thiêm thảo, Xuyên Hồng hoa 90g,
Đơn sâm 90g: Sâm tam thất 120g, Giáng hương 30g, Băng phiến 6g, tán bột
trộn đều, trộn nước làm hoàn. Ngày uống 3 lần mỗi lần 6g.
Tác dụng chủ trị: Bổ Can Thận, ích nguyên khí, thông hung tý. Trị
bệnh động mạch vành, đau thắt ngực.
Đã dùng trị 10 ca đau thắt ngực sau 3 liệu trình (mỗi liệu trình 30
ngày) kết quả tốt 75,5%, có kết quả 95,9%).
. Chế phụ phiến 15g (sắc trước,) Can khương 6g, bột Nhục quế 3g
(hòa thuốc uống) Đương qui 12g, Tế tân 6g, Phỉ bạch 80g, Xích thược 10g,
Bạch thược 30g), Hoàng kỳ 30g, Nhũ hương 10g, Một dược 10g, Tất bát

10g, Chích thảo 6g sắc uống. Ngày một thang, uống liên tục một tháng (trị
cơn đau thắt ngực sợ lạnh, chân tay lạnh).
b) Sài hồ 15g, Uất kim 12g, Bạch thược 12g, Diên Hồ sách 10g,
Chích thảo 6g, Quế chi 10g, Đơn sâm 30g, Khương hoạt 10g, Tế tân 6g, Chế
phụ phiến 10g sắc nước uống Ngày một thang uống 15 - 80 ngày [dùng cho
trường hợp đau nhiều ở mạn sườn] (Bách Bệnh Lương Phương).
. Sao Bạch thược 50g, Cam thảo 12g, Đơn sâm 30g, Câu đằng 12g,
Sơn giáp 12g, Dã Cúc hoa 45g, Phục linh 10g, Mạch đông 30g, Uy linh tiên
10g, Lạc thạch đằng 30g, Kê huyết đằng 80g, Ngô công 2 con, Ô tiêu xà 20g.
Sắc nước uống [dùng trong trường hợp âm hư dương kháng] (Bách Bệnh
Lương Phương).
d) Bạch thược 50g, Cam thảo 10g, Sa sâm 20g, Mạch đông 20g, Sinh
địa 30g, Đương quy 80g, Câu kỷ 15g, Xuyên luyện tử 10g, Uất kim 12g, Kê
huyết đằng 30g, Toàn yết 10g, Ngô công 2 con. Sắc uống [dùng cho cơn đau
thắt ngực do tinh thần bị kích động] (Bách Bệnh Lương Phương).
+ Dùng mô ngón tay cái xoa bóp huyệt Linh đạo cho mềm trong 1
phút rưỡi, sau đó đè ép mạnh lên huyệt trong 2 phút, sau cùng lại nắn bóp
trong 1 phút rưỡi. Mỗi ngày làm một lần, 15 ngày là một liệu trình. Mỗi liệu
trình cách nhau 3 ngày (Trung Hoa Bí Thuật Châm Cứu Trị Liệu).
+ Châm huyệt Nội quan một bên, sâu 0,5-0,7 thốn. Sau đó nối với
máy châm, xung điện bổ (Trung Hoa Bí Thuật Châm Cứu Trị Liệu).
+ Châm huyệt Nội quan hai bên. Khi đắc khí thì vê kim 120-180 độ,
tần suất 80-100 lần/phút., vê kim 2 phút xong, lưu kim 15 phút. Cách một
ngày làm một lần. 12 lần là một lần điều trị (Trung Hoa Bí Thuật Châm Cứu
Trị Liệu).
Ghi chú: Trong quá trình mắc bệnh, cơn đau tim có thể đỡ dần trái lại
nặng hơn lên. Biến chứng thường thấy nhất là chết đột ngột (40-50%), rồi
đến tắc động mạch Tim (25%). Do đó, bệnh nhân cần biết giữ gìn, không
làm việc gắng sức, tránh tắm lạnh, gió lạnh, tránh xúc động mạnh.
Kinh Nghiệm Điều Trị Của Nhật Bản (Theo ‘Chinese Herbal

Medicine And The Problem Of Agging’).
+ Chi Tử Xị Thang và Chi Tử Cam Thảo Xị Thang dùng trong trường
hợp ngực đau nặng và xung huyết huyết ngực đột ngột xuất hiện.
Chi tử giống như Hoàng cầm là chất làm cho mạch máu săn lại và làm
giảm đau. Đậu xị được chế biến, là một chất có tác dụng hạ sốt, giảm nhẹ
xung huyết ở ngực và dạ dày.
+ Quế Chi Sinh Khương Chỉ Thực Thang: có tác dụng làm giảm nhẹ
cơn đau đột ngột có cảm giác như dao cắt vào tim.
+ Qua Lâu Phỉ Bạch Bán Hạ Thang:dùng trong trường hợp đau nthắt
ngực do hút thuốc nặng, có cơ thể khoẻ mạnh, đờm đặc và xung huyết ngực.
+ Đương Quy Thang dùng trong trường hợp sá mặt xanh xao, ngực
đau thể hàn kèm đau lan ra sau lưng.
+ Sài Hồ Gia Long Cốt Mẫu Lệ Thang: dùng trong trường hợp bệnh
nhân thể tạng bình thường, nặng dưới tim, đau tim, hồi hộp dễ kích động dẫn
đến rối loạn thần kinh tim.
BỆNH ÁN ĐIỂN HÌNH
Bệnh Án Đau Thắt Ngực Do Xơ Động Mạch Vành
(Trích trong (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Phan X, nữ, 49 tuổi, nhân viên, khám cấp cứu sáng 17-5-1978. Bệnh
nhân sáng sớm dậy đột nhiên thấy vùng trước tim đau nhức, lan ra đau khắp
vùng sau vai trái, chân tay lạnh toát, mặt xanh tái, ngậm viên Nitroglycerin
1,6mg thì cảm giác có dễ chịu ít nhiều. Bệnh nhân có bệnh sử động mạch
vành đã 3 năm. Lần sau đến khám có làm xét nghiệm kiểm tra và làm điện
tâm đồ, chẩn đoán là bệnh xơ động mạch vành. Đây là khí trệ huyết ứ phải
trị bằng phép lý khí đạo trệ, hóa ứ chỉ thống. Dùng bài thuốc "Quan Tâm
Trục Ứ Thang’ (Sinh bồ hoàng 15g, Ngũ linh chi 15g, Nguyên hồ 15g, Sinh
sơn tra 25g, Đan sâm 25g, Qua lâu bì 15g, Cát căn 15g, Chỉ xác 15g, Uất
kim 30g, Bạch chỉ 15g, Ngu tất 15g, Thất Ly Tán 1 túi (chia hai lần uống với
nước thuốc). Sắc uống mỗi ngày 1 thang, chia 2 lần). Uống 4 thang đã bớt
đau hẳn ở vùng trước tim, chân tay ấm, sắc mặt hồng nhuận. Cho uống thêm

3 thang nữa đồng thời chú ý điều lý việc ăn uống, yên tâm nghỉ ngơi. Ngày
24 tháng 5 đến khám, vùng trước tim cơ bản hết đau nhói, mạch đập 110
lần/phút. Xét nghiệm máu và kiểm tra điện tâm đồ đều chứng tỏ tình trạng
tim tốt. Dặn uống thêm 4 thang bài thuốc đó. Ngày 29 tháng 5 khám lại,
chứng đau vùng tim hết hẳn, chân tay ấm, sắc mặt bình thường, rìa lưỡi vốn
cơ bản tím đã nhạt đi, mạch Trầm Hoãn, ăn uống tăng, huyết áp
120/80mmHg, mạch đập 105lần/phút. Kiểm tra điện tâm đồ như trước. Dùng
bài thuốc trên bỏ Nguyên hồ, Cát căn, Bạch chỉ thêm Bán hạ 15g, Lục thần
khúc 15g, Đảng sâm 15g, Đương qui 15g. Dặn uống tiếp 4 thang. Ngày 25
tháng 6 bệnh nhân đến làm các xét nghiệm đều thấy gần như bình thường,
không cảm thấy có gì khó chịu. Do đó cho 1 lọ Quan Tâm Tô Hợp Hoàn,
mỗi ngày uống 2 lần, mỗi lần 1 viên. Lại dặn chú ý vấn đề sinh hoạt, đi đứng,
điều lý việc ăn uống, làm cho tinh thần thoải mái. Theo dõi nửa năm, chưa
thấy tái phát.
Bệnh Án Đau Thắt Ngực Do Xơ Động Mạch Vành
(Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Chu X, nam, 60 tuổi, công nhân. Một tháng gần đây sau mỗi lần lao
động nặng nhọc thì lại thấy vùng trước tim đau đớn như bị đè ép, mỗi lần có
thể kéo dài tới hơn 10 phút, kèm đầu váng, ho, nhiều đờm. Vì đau ngực dữ
dội kèm ra mồ hôi lạnh 4 giờ liền nên ngày 18 tháng 5 năm 1977 phải vào
viện cấp cứu, Điện tâm đồ cho thấy nhịp tim thể hang, động mạch vành
không cung cấp đủ máu cấp tính. Sau khi nhập viện tiêm bắp 50mg Dolantin,
thở oxy thì đỡ đau, sau đó thường cho dùng 0,2g Aminophyllin, mỗi ngày 3
lần ngậm dưới lưỡi viên Trinitroglycerin. Đông y hội chẩn thấy người bệnh
sắc mặt xanh tím, ra mồ hôi, vẻ ngoài khổ sở, chất lưỡi đỏ nhạt, có ban ứ,
rêu lưỡi bẩn, mạch tượng Huyền Hoạt. Có tiền sử hút thuốc lá, uống rượu,
có tiền sử viêm phế quản mạn tính, chẩn đoán là hung dương không hưng
phấn lên được, đờm trọc ứ tắc, cần phải trị bằng tuyên tý thông dương, khử
đàm hóa trọc, hoạt huyết hóa ứ. Cho dùng "Ôn Đởm Thang gia vị’ (Phục
linh 15g, Pháp hạ 9g, Trần bì 9g, Trúc nhự 9g, Chỉ thực 12g, Qua lâu xác

30g, Giới bạch 9g, Giáng hương 15g, Đan sâm 15g, Xuyên khung 15g,
Hồng hoa 9g, Quế chi 9g, Bạch truật 15g. Sắc uống, mỗi ngày 1 thang). Sau
khi uống 3 thang, hết đau ngực, uống hết 6 thang thì rêu lưỡi đỡ vàng bẩn,
đỡ ho. Sau đó lại xuất hiện chứng thở dốc, đêm ngủ hay bị mơ. Dùng bài
trên, thêm các vị ích khí an thần: Thái tử sâm 30g, Viễn chí 9g, Bá tử nhân
12g, Dạ giao đằng 30g. Uống xong thì đêm ngủ yên. Sau đó lại đau lưng,
đêm đi tiểu nhiều nên lại thêm các thuốc bổ thận như Tiên linh tì 9g, Thỏ ti
tử 15g. Dùng thuốc gia giảm hơn 3 tháng, chưa thấy tim trở lại đau thắt, làm
điện tâm đồ nhiều lần thấy đã khôi phục như thường.
Bệnh Án Đau Thắt Động Mạch Vành
(Trích trong (Thiên Gia Diệu Phương, q Thượng)
Trương X, nam, 56 tuổi, xã viên, sơ chẩn ngày 21-3-1975. Người
bệnh thường vẫn phát sinh hỏang hốt, thở gấp, đau thắt tim ngực không chịu
nổi, thường nằm mơ giật mình dậy, đã hơn nửa năm. Đã từng chẩn đoán là
đau thắt động mạch vành, dùng không ít các thuốc đông thuốc tây mà không
kiến hiệu. Khám thấy dinh dưỡng trung bình, vẻ người buồn khổ, da mềm,
mặt xanh nhạt, nghe phổi bình thường, tiếng tim yếu mà nhanh, tim đập 156
lần/phút, mạch Kết Đại, rêu lưỡi mỏng trắng. Dùng một thang "Phức
Phương Đan Sâm Ẩm’ (Đan sâm 15g, Giáng hương 15g, Mộc thông 12g, V-
ương bất lưu hành 12g, Tam thất 6g, Thông thảo 3g. Sắc uống), thấy các
triệu chứng đỡ, bớt hẳn đau ngực, tiếng tim vẫn yếu, tim đập 142 lần/phút,
mạch Trầm mà Đại, lại cho uống tiếp 2 thang. Ngày 28 tháng 3 khám lại đã
hết đau ngực, không có cảm giác đè nén. Còn hơi thấy tay chân bải hỏai. Đại
tiện kết táo, tim còn đập 110 lần/phút, vẫn uống bài trên bỏ Tam thất, Vương
bất lưu hành, uống 4 thang. Cảm thấy các chứng đều hết, đã như lúc thường.
Theo dõi hỏi lại chưa thấy tái phát, người khỏe mạnh, có thể làm mọi việc
lao động chân tay ở nông thôn.
Bệnh Án Đau Thắt Ngực
(Trích trong ‘Chinese Herbal Medicine And The Problem Of
Agging’).

Một bệnh nhân nam 62 tuổi than phiền thấy khó thở, ngực đau và đau
co thắt tim ngay cả khi đi bộ lên xuống cầu thang cũng rất đau, mặc dù ông
ta không ăn quá nhiều, thích ăn thịt và rượu, hút 10 điếu thuốc lá một ngày,
thích ăn ngọt và nóng, cũng như chè và nước. Ông ta thường cảm thấy khát
mặc dù không thường xuyên đi đái và khi bị cảm lạnh thì sốt không xẩy ra,
trong mùa hè thường có những đợt tiêu chảy. Các dấu hiệu khác là thiếu máu,
môi khô, mạch nhanh, đau ngực nhẹ, nặng vùng dưới tim và phập phồng ở
rốn. Cho ông ta dùng bài Sài Hồ Quế Chi Can Khương Thang; sau 4 tháng,
hiên tượng phập phồng biến mất cùng với những khó chịu ở ngực và trọng
lượng cơ thể đã tăng được 2 kg.

×