Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

BỆNH HỌC THỰC HÀNH - HỒI HỘP ( Tâm Quý – Palpitation - Palpitation) ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (174.14 KB, 18 trang )

BỆNH HỌC THỰC HÀNH
HỒI HỘP
( Tâm Quý – Palpitation - Palpitation)
Hồi Hộp là một chứng trạng tự cảm thấy trong Tâm hồi hộp không
yên, tục gọi là Tâm Khiêu. Sách Hồng Lô Điểm Tuyết viết: “Chứng Quý là
chỉ vùng Tâm đột ngột rung động không yên, sợ sệt, trong Tâm trằn trọc
khơng n, sợ sệt như có người muốn bắt...”. Sách ‘Y Học Chính Truyền’
viết: "Chứng Kinh quý là chỉ đột ngột như sợ hãi, hồi hộp, trong Tâm không
yên và có cơn từng lúc. Chứng Chinh xung là chỉ trong Tâm sợ sệt dao động
khơng n, có cơn liên tục"...
Theo những quan điểm trên, nhân tố gây bệnh có khi do sợ hãi gây
nên, có khi khơng do sợ hãi gây ra.
Tâm hồi hộp lúc có lúc khơng, gọi là Kinh quý, bệnh tương đối nhẹ.
Không do hãi mà phát sinh, trong Tâm dao động không yên và cơn liên tục,
gọi là Chinh xung, bệnh tình khá nặng. Nhưng chứng trạng lâm sàng, đều
coi trong Tâm hồi hộp không yên là chính, gọi là Tâm quý.


Các loại rối loạn thần kinh thực vật và các loại bệnh tim dẫn đến nhịp
tim không đều trong y học hiện đại, đều có thể xuất hiện chứng trạng Tâm
quý.
Nguyên Nhân
1 . Tâm Thần Không Yên: Sợ hãi đột ngột có thể dẫn đến tâm thần
khơng n. Thiên ‘Cử Thống Luận’ (Tố Vấn 39) viết: "Kinh thì Tâm khơng
nơi dựa, thần không chốn về, lo lắng không được yên cho nên khí loạn" và
"sợ thì khí nén xuống", "sợ thì thần khiếp".
Kinh thì khí loạn, thần chí khơng n cho nên Tâm kinh, thần dao
động, hồi hộp không yên. Sợ (khủng) thì thương Thận, Thận hư yếu khơng
giao thơng được với Tâm khiến cho Tâm hồi hộp khơng n.
Ngồi ra, giận dữ đột ngột khí nghịch khiến cho Can mất chức năng
điều đạt. Bệnh Can liên lụy đến Tỳ, Tỳ mất chức năng vận hóa, thì tinh vi


thủy cốc tụ lại thành đờm. Khí uất lại có thể hóa hỏa, đờm hỏa quấy rối Tâm
thần cũng dẫn đến Tâm quý không yên.
2. Tâm Huyết Bất Túc: Bị bệnh lâu ngày thân thể suy yếu hoặc mất
máu quá nhiều, hao thương tâm huyết; Hoặc tư lự quá độ, mệt nhọc làm
thương Tỳ, Tỳ mất chức năng kiện vận làm cho nguồn tạo nên huyết dịch


bất túc, Tâm mất sự nuôi dưỡng, thần không tiềm tàng cho nên Tâm hồi hộp
không yên. Sách ‘Đan Khê Tâm Pháp’ viết: "Chinh xung là do huyết hư,
chinh xung liên tục, phần nhiều là do thiếu huyết”.
3. Âm Hư Hỏa Vượng: Mắc bệnh lâu ngày, cơ thể suy nhược hoặc do
bệnh nhiệt làm thương âm... đều có thể dẫn đến Thận âm khuy tổn, tâm hỏa
vọng động gây nên Tâm hồi hộp không yên.
4. Phong Thấp Xâm Phạm: thiên ‘Tý Luận’ (Tố Vấn 43) viết: "Bị
chứng Mạch tý không khỏi lại bị nhiễm ngoại tà, ẩn náu trong Tâm" và
“Chứng Tâm tý làm cho mạch máu khơng thơng". Nói lên tà khí phong hàn
thấp phạm huyết mạch ảnh hưởng tới Tâm ở trong, Tâm mạch bị nghẽn,
doanh huyết vận hành không thông cho nên hồi hộp không yên.
5. Dương Khí Suy Nhược: Sau khi bị bệnh lâu ngày, dương khí suy
khơng làm ấm áp Tâm mạch, Tâm dương khơng mạnh cho nên hồi hộp
không yên. Nếu dương hư nước ứ đọng thành chứng ẩm, ẩm tà phạm lên
trên cũng làm cho hồi hộp không yên. Sách ‘Thương Hàn Minh Lý Luận’
viết: "Nói khí hư dương là dương khí hư nhược, dưới Tâm rỗng không động
ở trong mà thành hồi hộp. Nếu ẩm ứ đọng là do thủy đọng ở dưới Tâm...
Tâm không được yên sẽ thành Tâm quý".


Triệu Chứng Lâm Sàng
+ Tâm Thần Không Yên: Tiâm hồi hộp, dễ kinh sợ, nằm ngồi khơng
n, ít ngủ hay mê, nói chung lưỡi và mạch bình thường hoặc mạch thấy Hư

Sắc.
Biện chứng: Hãi thì khí loạn, sợ thì khí hạ, đến nỗi Tâm không thể
chứa thần, phát sinh chứng tim hồi hộp, ít ngủ hay mê. Mạch Hư Sắc là dấu
hiệu tâm thần khơng n. Bệnh nhẹ thì lúc phát lúc ngừng; Loại nặng thì
Tâm sợ sệt, thần rối loạn, hồi hộp không yên, không tự chủ được.
Điều trị: Trấn kinh an thần. Dùng bài An Thần Định Chí Hồn gia
giảm.
(Trong bài có Nhân sâm, Long xỉ để bổ khí trấn kinh; Phục thần, Viễn
chí, Xương bồ an thần hóa đờm làm thuốc hỗ trợ).
Cũng có thể dùng các vị như Từ thạch, Mẫu lệ, Táo nhân, Bá tử nhân
để trấn kinh an thần. Nếu Tâm hồi hộp mà phiền, ăn kém, muốn nôn, rêu
lưỡi vàng nhớt, mạch Hoạt Sắc là bệnh kiêm có đờm nhiệt quấy rối ở trong,
Vị mất chức năng hịa giáng, có thể thêm Bán hạ, Trần bì, Trúc nhự. Nếu sắc
mặt kém tươi, mệt mỏi, chất lưỡi nhạt, có thể luận trị theo thể Tâm huyết bất
túc.


2) Tâm Huyết Bất Túc: Tim hồi hộp, choáng váng, sắc mặt kém tươi,
móng chân tay nhạt, tay chân khơng có sức, chất lưỡi đỏ nhạt, mạch Tế.
Biện chứng: Tâm chủ huyết mạch, vinh nhuận ra mặt, huyết hư không
nuôi được Tâm gây nên chứng Tâm quý, không tưới nhuận lên đầu mặt gây
ra chóng mặt và sắc mặt khơng tươi. Huyết hư không làm ấm áp tay chân
cho nên móng chân xanh nhợt, tay chân khơng có sức. Chất lưỡi đỏ nhạt,
mạch Tế... đều là dấu hiệu khí huyết bất túc.
Điều trị: Ích khí bổ huyết, dưỡng tâm an thần. Dùng bài Quy Tỳ
Thang gia giảm.
(Trong bài có Sâm, Kỳ, Truật, Thảo để ích khí kiện Tỳ, tăng cường
nguồn sinh ra huyết; Đương quy, Long nhãn nhục để dưỡng huyết, Táo nhân,
Viễn chí để an thần, Mộc hương hành khí, khiến cho bổ mà khơng bị trệ).
Nếu tâm động hồi hộp mà mạch Kết Đại là huyết không nuôi Tâm,

kèm theo Tâm dương mạnh, huyết dịch tuần hành không thư sướng gây nên,
cho uống Chích Cam Thảo Thang gia giảm để dưỡng Tâm thông mạch theo
phép song bổ cả khí và huyết.
3) Âm hư hỏa vượng: Hồi hộp khơng n, tâm phiền, ít ngủ, chóng
mặt, hoa mắt, tai ù mỏi lưng, lưỡi đỏ ít rêu, mạch Tế Sác.


Biện chứng: Thận âm bất túc, Tâm hỏa vượng, gây nên chứng tâm
q, phiền táo, ít ngủ, âm suy thì ở dưới mỏi lưng, Dương quấy rối ở trên thì
hoa mắt, chóng mặt ù tai; chất lưỡi đỏ, ít rêu, mạch Tế Sác... đều là đặc
trưng của âm hư hỏa vượng.
Điều trị: Dục âm thanh hỏa. Dùng bài Hoàng Liên A Giao Thang gia
giảm.
(Trong bài có Hồng liên, Hồng cầm để thanh Tâm hỏa; A giao,
Thược dược, Kê tử hoàng để nuôi âm huyết). Thêm Đan sâm, Trân châu
mẫu v.v... để tăng sức an thần, bớt kinh sợ. Nếu âm hư mà hỏa khơng vượng,
có thể dùng Thiên Vương Bổ Tâm Đơn.
(4) Phong Thấp Xâm Phạm: Hồi hộp, hơi thở ngắn, ngực đau hoặc
khó chịu, hai gị má đỏ tía, thậm chí mơi và móng tay chân tím tái hoặc ho
suyễn khạc ra máu, chất lưỡi xanh nhợt hoặc có nốt ứ huyết, mạch Tế hoặc
Kết Đại.
Biện chứng: Bệnh Tý chữa không khỏi, truyền vào trong Tâm làm cho
huyết mạch bị nghẽn, Tâm mất sự nuôi dưỡng nên hồi hộp khơng n. Khí
trệ huyết ứ, Tâm dương bị uất, khiến cho ngực khó chịu hoặc ngực đau và
hơi thở ngắn. Nếu chứng Tý làm nghẽn lạc mạch, Phế mất túc giáng thì ho


suyễn, nặng hơn thì tổn thương Phế lạc cho nên khạc ra máu. Hai gị má đỏ
tía hoặc mơi và móng tay chân tím tái, lưỡi có nốt ứ huyết, mạch Kết Đại
đều là dấu hiệu Tâm dương không mạnh, ứ huyết tích đọng gây nên.

Điều trị: Hoạt huyết hóa ứ, trợ dương thông mạch. Dùng bài Đào
Nhân Hồng Hoa Tiễn gia giảm.
(Dùng Đào nhân, Hồng hoa, Đan sâm, Đương quy để hoạt huyết hóa ứ
là chủ yếu; Huyền hồ, Xuyên khung, Hương phụ làm thuốc hỗ trợ).
Có thể thêm Quế chi, Cam thảo để thông Tâm dương; Long cốt, Mẫu
lệ để trấn tâm thần. Trong bài có Sinh địa, nếu muốn tập trung vào thơng
Dương thì khơng nên dùng. Nếu ho suyễn khạc ra máu, đơn thuốc trên bỏ
Xuyên khung, Hương phụ, thêm Tô tử, Trầm hương, Sâm Tam thất để thuận
khí chỉ huyết.
(5) Dương Khí Suy Nhược: Tim hồi hộp khơng n, thở suyễn, ngực
khó chịu, thân thể ớn lạnh, chân tay lạnh, phù tồn thân, tiểu khơng lợi, chất
lưỡi nhợt, rêu lưỡi trắng, mạch Vi Tế hoặc Kết Đại.
Biện chứng: Dương khí trong ngực bất túc, thủy khí bốc lên tâm gây
nên hồi hộp, ngực khó chịu mà thở suyễn; thậm chí Thận dương suy vi
khơng làm ấm áp tay chân, cho nên người ớn lạnh, tay chân lạnh. Vì dương


hư nên nước trào lên, Bàng quang khí hóa khơng lợi, cho nên phù tồn thân,
tiểu khơng lợi. Chất lưỡi nhợt bệu, rêu lưỡi trắng, mạch Vi Tế hoặc Kết Đại,
đều là dấu hiệu Tâm Thận dương suy, huyết mạch ngưng trệ gây nên.
Điều trị: Ơn vận dương khí, hành thủy giáng nghịch. Dùng bài Chân
Vũ Thang gia giảm.
(Trong bài dùng Phụ tử, Sinh khương chủ yếu để ôn dương tán hàn,
phối hợp với Phục linh, Bạch truật kiện Tỳ lợi thủy làm thuốc hỗ trợ).
Có thể thêm Nhục quế, Trạch tả, Xa tiền để tăng cường sức ôn Thận
hành thủy. Nếu suyễn khơng nằm được có thể thêm Hắc Tích Đan để ơn
phận nạp khí và bình suyễn.
CHÂM CỨU TRỊ HỒI HỘP
+ “Kinh sợ hồi hộp, thiếu khí, huyệt Cự khuyết làm chủ” (Giáp Ất
Kinh).

+ Tâm Âm Huyết Hư: Tư bổ Tâm huyết. Châm Tâm du, Cự khuyết,
Cách du, Thần môn. Hợp với Phế du [nếu hơi thở ngắn] (Tâm du, Cự khuyết
phối hợp theo cách Mộ – Bối du, có khả năng điều bổ khí huyết của kinh


Tâm; Cách du bổ huyết dưỡng Tâm; Thần môn ninh Tâm an thần; Phế du bổ
Phế khí. Khí huyết sung túc bệnh sẽ tự khỏi).
Tâm Dương Khí Hư:: Bổ ích Tâm dương. Châm Tâm du, Cự khuyết,
Nội quan, hợp với Mệnh môn (Tâm du, Cự khuyết phối hợp theo cách Mộ –
Bối du, có khả năng điều bổ Tâm khí, thông Tâm dương; Nội quan là huyệt
Lạc của Tâm bào để điều lý kinh khí của kinh Tâm, an tâm thần Mệnh môn
bổ chân dương của Thận để ôn các tạng).
Tâm Tỳ Hư Nhược: Bổ ích Tâm tỳ. Châm Tâm du, Tỳ du, Thần môn.
Thêm Túc tam lý, Tam âm giao (Tâm du điều bổ Tâm khí; Tỳ du hợp với
Túc tam lý để kiện Tỳ Vị, nuôi nguồn sinh hóa; Thần mơn là huyệt Ngun
của kinh Tâm để điều lý kinh khí của kinh Tâm, an tâm thần; Tam âm giao
điều lý khí của Can, Tỳ, Thận, điều hịa âm dương, trị mất ngủ).
Thận Âm Hư: Tư bổ Thận âm. Châm Khích mơn, Thận du, Thái khê,
Tam âm giao, Phục lưu (Khích mơn an tâm thần; Thái khê, Thận du bổ thận
thủy nhằm chế ngực tướng hỏa; Phục lưu bổ Thận âm; Tam âm giao điều
hòa âm dương, giao thông Tâm Thận. Tâm Thận tương giao thi bệnh khỏi.
Đờm Ẩm: Ôn dương quyên ẩm. Châm Tỳ du, Túc tam lý, Tam tiêu du.
Thêm Phong long, Thần môn (Tỳ du, Túc tam lý kiện Tỳ Vị, giúp vận hóa,


trừ đờm ẩm; Tam tiêu du sơ lợi khí của Tam tiêu, thông điều thủy đạo để trừ
thấp tà; Phong long hịa Vị hóa đờm; Thần mơn ninh Tâm, an thần, trị hồi
hộp.
+ Tâm Hư Đởm Khiếp: Bổ ích Tâm khí, ích Đởm, chỉ quý.
Châm Tâm du, Đởm du, Thần môn, Túc tam lý, Khâu hư.

Dùng bổ pháp. Lưu kim 25 phút. Huyệt Tâm du và Đởm du, sau khi
châm, kết hợp giác. Cách ngày châm một lần, 10 lần là một liệu trình.
(Tâm du, Thần mơn là phép kết hợp Bối du và Nguyên huyệt để an
tâm thần, ích tâm khí; Đởm du, Khâu hư là phép kết hợp Bối du và Nguyên
huyệt để trấn kinh, ninh thần; Túc tam lý ích khí điều huyết) (Bị Cấp Châm
Cứu).
+ Tâm Tỳ Khí Hư: Bổ ích Tâm Tỳ, ninh Tâm, làm cho hết hồi hộp.
Châm huyệt Tâm du, Tỳ du, Thần môn, Nội quan, Túc tam lý.
Dùng bổ pháp. Lưu kim 25 phút. Huyệt Tâm du và Đởm du, sau khi
châm, kết hợp giác. Cách ngày châm một lần, 10 lần là một liệu trình.
(Tâm du, Thần mơn là phép kết hợp Bối du và Nguyên huyệt để an
tâm thần, ích Tâm khí; Tỳ du là bối du huyệt của Tỳ kinh để ích khí kiện Tỳ;


Nội quan là huyệt Lạc của Tâm bào kinh có tác dụng ninh tâm thần; Túc tam
lý điều hòa các huyệt để ích khí dưỡng Tâm, làm cho hết hồi hộp) (Bị Cấp
Châm Cứu).
+ Âm Hư Hỏa Vượng: Tư âm, giáng hỏa, ninh tâm, làm cho hết hồi
hộp.
Châm Tam âm giao, Thần môn, Thái khê, Thủy tuyền, Thái bạch, Nội
quan.
Châm bình bổ bình tả, lưu kim 25 phút. Cách ngày châm một lần, 10
lần là một liệu trình.
(Thái khê là Nguyên huyệt của kinh Thận, Thủy tuyền là Khích huyệt
cua kinh Thận, phối hợp hai huyệt này có tác dụng bổ ích Thận thủy để giao
với Tâm hỏa; Tam âm giao nơi hội của 3 kinh âm để tư âm giáng hỏa; Thái
bạch là Nguyên huyệt của kinh Tỳ lấy kiện Tỳ để giúp Thận thủy vận hành;
Thần môn, Nội quan để an thần, làm cho hết hồi hộp) (Bị Cấp Châm Cứu).
+ Tâm Huyết Ứ Trở: Hoạt huyết, khứ ứ, làm cho hết hồi hộp.
Châm Khúc trạch, Thiếu hải, Khí hải, Cách du.



Châm bình bổ bình tả, lưu kim 20 phút. Mỗi ngày châm một lần, 10
lần là một liệu trình.
(Tâm bào là màng bảo vệ Tâm, vì vậy dùng hợp huyệt của hai đương
kinh là Khúc trạch và Thiếu hải để cường Tâm, định quý, chỉ thống, để trị
tiêu. Tâm khí suy yếu thì huyết vận hành khơng thoải mái khiến cho Tâm
mạch bị ngăn trở, Tâm dương bất chấn, vì vậy châm Khí hải để vận dương,
ích khí; Cách du để hoạt huyết hóa ứ, để trị bản) (Bị Cấp Châm Cứu).
+ Thủy Khí Xâm Lấn Tâm: Ơn Thận, hành thủy, ninh tâm, làm cho
hết hồi hộp.
Châm Thận du, Thái khê, Linh đạo, Khích mơn, Phế du, Xích trạch,
Phong long.
Châm bình bổ bình tả, lưu kim 20 phút. Cách ngày châm một lần. 10
lần là một liệu trình.
(Thái khê là Nguyên huyệt của kinh Thận, hợp với bối du huyệt (Thận
du) để ơn Thận thủy; Linh đạo, Âm khích để an thần, làm cho hết hồi hộp.;
Xích trạch, Phế du tun Phế, chỉ suyễn; Phong long hịa trung, hóa đờm,
khiến cho đờm tiêu, khí giáng, hết ho suyễn, hồi hộp) (Bị Cấp Châm Cứu).


+ Tâm Dương Hư Nhược: Bổ ích Tâm dương, ninh Tâm, làm cho hết
hồi hộp.
Châm Thần môn, Nội quan, Tâm du, Cự khuyết, Đàn trung, Quan
nguyên.
Châm bổ. Huyệt Tâm du sau khi châm kết hợp thêm giác. Quan
nguyên sau khi châm thêm cứu. Lưu kim 25 phút. Cách ngày châm 1 lần, 10
lần là một liệu trình.
(Thần mơn là huyệt Nguyên của kinh Tâm, để ninh Tâm, an thần, làm
cho hết hồi hộp; Nội quan là bát hội huyệt trị bệnh ở Phế, tâm và ngực, điều

hịa khí cơ, hoạt huyết, chỉ thống; Tâm du, Cự khuyết là cách phối bối du
huyệt với Mộ huyệt để điều bổ Tâm khí; Đàn trung là bát hội huyệt có khả
năng bổ ích Tâm khí; Quan ngun ơn bổ ngun dương) (Bị Cấp Châm
Cứu).
+ Lấy huyệt Thần môn hai bên, châm thẳng 0,3-0,5 thốn, kích thích
vừa, lưu kim 30 phút, 10 phút vê kim một lần. Ngày một lần. Thường châm
3-5 lần là có kết quả (Trung Hoa Bí Thuật Châm Trị).
Tham Khảo


+ Dùng Cự châm trị 32 ca hồi hộp. Tâm Dương Hư dùng Tâm du, Tỳ
du, Túc tam lý, Thần môn. Tâm Âm Hư châm Thượng tinh xuyên đến Bá
hội, Nội thừa tương, Tỳ du, Cách du, Túc tam lý, Thần mơn. Kích thích vừa,
lưu kim 20-30 phút. Mỗi ngày châm một lần. Kết quả: khỏi hoàn toàn 12,
kết quả ít 20 (Châm Cứu Học Báo 1990, 6).
+ Châm trị tim đập không đều: dùng huyệt Nội quan, Túc tam lý cả
hai bên. Tâm Tỳ đều hư thêm Tỳ du, Tâm du hoặc Thần mơn. Tâm khí âm
hư thêm Tam âm giao hoặc Quyết âm du. Tâm Phế khí hư thêm Phế du, Liệt
khuyết. Khí hư huyết ứ thêm Quan nguyên. Kích thích vừa, lưu kim 20-30
phút, cứ 5-10 phút vê kim một lần. 1-2 ngày châm một lần. 10 lần là một
liệu trình. Kết quả: Hiệu quả ít (sau 2 liệu trình các chứng mới khỏi): 19, có
kết quả 11, không kết quả 2 (Thượng Hải Châm Cứu Tạp Chí 1990, 9).
Nhĩ Châm
Chọn huyệt Tâm, Thần mơn, Giao cảm, Bì chất hạ, Tiểu trường, Ngực,
Tỳ, Can huyết cơ điểm. Dùng phương pháp dán thuốc lên huyệt. Cách ngày
dán một lần, 10 lần là một liệu trình. (Bị Cấp Châm Cứu).
Nói tóm lại, Tâm rung động hồi hộp mạch Kết Đại, thậm chí suyễn
thở tồn thân phù thũng, tiểu tiện khơng lợi... đều là chứng nặng. Vì Tâm



Thận dương khí suy yếu, huyết mạch ngưng trệ, thủy đạo khơng lợi, bệnh
tình khá nghiêm trọng so với loại tim hồi hộp do khí huyết bất túc và âm hư
hỏa vượng khác nhau nhiều. Phong thấp xâm phạm vào cơ thể mà gây bệnh
cũng thường gặp trong lâm sàng, cần chú ý chẩn đoán và điều trị sớm, chủ
yếu là ni dưỡng Tâm khí, ngăn ngừa con đường xâm nhập của bệnh tà,
không nên dùng đơn thuần thuốc Khư phong hoạt huyết.
Bệnh Án Hồi Hộp Huyết Áp Cao
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Toàn
Thư’)
Dương X nam, 53 tuổi. Thường hồi hộp sợ sệt, chóng mặt, hoa mắt,
mất ngủ, ba tháng nay bệnh nặng thêm, có lúc sợ hãi, hồi hộp, nặng hơn thì
hồi hộp khơng ngừng, nhiều đờm, kém ăn.
Khám: Thể trạng béo bệu, nhịp tim đều, mỏm tim đập có lực, vùng
hai chủ động mạch có tiếng vang kim loại, huyết áp 160/100mgHg, rêu lưỡi
trắng nhớt, mạch Huyền.
Chẩn đoán: Tâm quý (bệnh Cao huyết áp).


Điều trị: Bình Can ơn đởm, hóa đờm, an thần. Dùng: Khương bán hạ
12g, Trần bì 6g, Chỉ thực (sao) 6g, Trúc nhự 12g, Phục linh 12g, Long cốt
(sắc trước) 20g, Mẫu lệ (sắc trước) 40g, Chế nam tinh 6g, Chích cam thảo 4g,
Từ Chu Hồn 12g (uống với thuốc sắc). Sau khi uống liên tục 10 thang, các
chứng kinh sợ hồi hộp khỏi hết, thần trí ổn định.
- Nhận xét. Bệnh này do sợ hãi gây nên đến nỗi Tâm thần không yên,
Can dương cùng với đờm quấy rối xuất hiện các chứng hồi hộp, chóng mặt,
mất ngủ, đờm nhiều, kém ăn, do đó dùng Ơn Đởm Thang thêm Long cốt,
Mẫu lệ, Từ Chu Hoàn để trấn tâm an thần, tiềm dương, hóa đờm.
Bệnh Án Chinh Xung
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Tồn
Thư’).

Tơn X, nữ, 39 tuổi.
Bệnh sử: Khi Tâm quý nặng thì hồi hộp, bệnh đã 6 năm, nửa tháng
nay liên tục bị hồi hộp, chóng mặt, hoa mắt, miệng khơ, họng ráo, tai ù, mỏi
lưng, đêm ít ngủ.


- Khám: Thể trạng cao gầy, hình dung tiều tụy, nhịp tim đều, 80
lần/phút. Hai bên Phổi sáng, Gan dưới hạ sườn 1 khốt, mềm, khơng đau,
chất lưỡi đỏ, mạch Tế Sác.
Chẩn đoán: Tâm quý (bệnh thần kinh).
Điều trị: Tư âm thanh hỏa, trấn tâm an thần. Cho uống: Thục địa 16g,
Sơn thù 12g, Sinh địa 16g, Xuyên liên 4g, Kỷ tử 12g, Phục thần 16g, Từ
thạch (sắc trước) 40g, Đương qui 12g. Sau khi uống 7 thang, hết triệu chứng
chinh xung. Sau khi uống hết 10 thang, chứng Tâm quý giảm rõ rệt.
Nhận xét: Bệnh này do Thận âm bất túc không giúp lên Tâm hỏa ở
trên; Tâm hỏa vượng thịnh không giáng xuống được đến nỗi gây nên chứng
tâm quý, chinh xung. Điều trị: nên tư Thận âm, thanh Tâm hỏa. Là một loại
hình gặp nhiều trong lâm sàng.
Bệnh Án Tâm Quý
(Trích trong ‘Trung Y Lâm Sàng Chẩn Liệu Bách Khoa Tồn
Thư’).
Chu X, nam, 18 tuổi. Có bệnh sử thấp tim từ nhỏ, năm gần đây hễ cử
động nặng là hồi hộp không yên.


- Khám thấy sắc mặt tối sạm, mơi và móng tay chân tím tái nhẹ, vùng
trái ngực hơi gồ, mỏm tim ở rãnh sườn 6 về phía ngồi 1,5cm có rung động,
có tiếng thổi tâm thu, nhịp tim khơng đều, 84 lần/phút, Gan dưới hạ sườn 1
khoát, chi dưới hơi phù, chất lưỡi có nốt ứ huyết nhỏ, rêu lưỡi mỏng, mạch
Kết Đại, XQ lộ rõ Phế động mạch, tâm thất trái dãn to hướng bên phải, hai

Phổi có hình tụ huyết nhẹ. Điện tâm đồ: Trục xoay bên trái, Tâm thất trái
dãn to.
Chần đoán: Bệnh Tâm Tý (thấp tim, hẹp và hở van hai lá)
Phép trị: Hoạt huyết hóa ứ, ích khí thơng dương, dưỡng tâm trấn thần.
Cho uống Đào nhân 12g, Quế chi 12g, Hồng hoa 6g, Đảng sâm 16g, Đan
sâm 16g, Phục thần 16g, Táo nhân 6g, Long cốt (sắc trước) 20g, Mẫu lệ (sắc
trước) 40g. Sau khi uống 10 thang, chứng Tâm quý giảm rõ rệt, nhịp tim 78
lần/phút.
Nhận xét: Bệnh Tâm Tý, mạch không thông, khí huyết bị nghẽn thì trệ
mà thành ứ, làm cho Tâm khơng được ni dưỡng, do đó sử dụng phép hoạt
huyết hóa ứ. Tâm dương khơng mạnh mà thấy mạch Kết Đại, cho nên dùng
phép ích khí khơng dương; lại thêm các vị dưỡng Tâm trấn thần.



×