Tải bản đầy đủ (.pdf) (36 trang)

BỆNH HỌC THỰC HÀNH - KIẾT LỴ ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (273.98 KB, 36 trang )









BỆNH HỌC THỰC HÀNH - KIẾT LỴ

BỆNH HỌC THỰC HÀNH
KIẾT LỴ
(LỴ TẬT – DYSENTERIE - DYSENTERY)
A-Đại cương
-Lỵ là một Bệnh do vi trùng Entamoeba dysenteria gây ra, làm cho
công năng vận hóa của Tỳ Vị bị rối loạn gây ra bệnh.
-Là một trong bảy Bệnh thông thường tại Việt Nam (do bộ Y Tế Việt
Nam qui định)
-Nguyễn Bá Tĩnh trong” Tuệ Tĩnh Toàn Tập” có nêu lên 25 Bệnh án
về lỵ và giới thiệu 51 phương thuốc chữa trị lỵ bằng cây thuốc Việt Nam.
-Lê HưÕu Trác trong “Hải Thượng Y Tôn Tâm Lĩnh” đã dành hơn 9
trang sách trong phần “ Bách Bệnh Cơ Yếu” và “Y Trung Quan Kiện”để bàn
về lỵ.
-Bệnh xảy ra nhiều vào mùa hè - thu.
B. Bệnh Danh
-Sách Nội Kinh Tố Vấn gọi chứng này là Trường Tích.
-Sách Nan Kinh gọi là Đại Phích Tiết
-Sách Kim Quỹ Ngọc Hàm Kinh của Trương Trọng Cảnh gọi là Hạ
Lỵ và Nhiệt lợi (lỵ) Hạ Trọng
-Đời nhà Tùy, năm 605, sách “ Chư Bệnh Nguyên Hậu Luận “ của
Sào Nguyên Phương ghi lại nhiều tên gọi khác nhau:


*Xích Bạch Lỵ. * Huyết Lỵ. * Nùng Huyết Lỵ. * Nhiệt Lỵ.
* Cửu Lỵ * Hưu Tức Lỵ
-Đời nhà Tống( năm 960) các sách thuốc ghi là Trệ Hạ.
-Đến đời nhà Kim, Nguyên (năm 1211_1277) sách thuốc có nhắc đến
một loại Lỵ lây lan thành dịch tên gọi là Thời Dịch Lỵ (theo “Đan Khê Tâm
Pháp” của Chu Chấn Hanh (Đan Khê).
-Lê Hữu Trác trong “Hải Thượng Y Tôn tâm Lĩnh” nêu ra 11 loại lỵ
khác nhau:
* Lãnh Lỵ * Cổn Lỵ
* Nhiệt Lỵ * Cổ Độc Lỵ
* Cam Lỵ * Cấm Khẩu Lỵ
* Kinh Lỵ * Ngũ Sắc Lỵ
* Hưu Tức Lỵ * Quát Trường Lỵ
* Hoạt Trường Lỵ.
-Hiện nay người ta thường gọi là Lỵ hoặc Hội Chứng Lỵ.
-Từ chuyên môn của Trung Quốc gọi là Lỵ Tật, Lỵ Tế Khuẩn.
C -Phân Loại
1/Theo Y Học Hiện Đại:
Dựa vào thể Bệnh có thể chia làm 2 loại:
a/ Cấp tính: Bệnh xảy ra nhanh, cấp thời, bao gồm các loại Lỵ Trực
Khuẩn, Lỵ Amip (của Y Học Hiện Đại) hoặc các thể thấp nhiệt, hàn thấp và
dịch độc của y học cổ truyền.
b/ Mạn tính: Do Bệnh Lỵ cấp tính điều trị không đúng cách hoặc
không khỏi gây ra. Tương đương thể Hưu Tức Lỵ của Y Học Cổ truyền.
2/ Phân loại theo y học cổ truyền:
Theo y học cổ truyền, có nhiều cách để phân loại chứng Lỵ:
a/ Theo quá trình diễn biến của Bệnh:
- Sơ Lỵ: Lỵ mới bắt đầu, chớm nhiễm Bệnh.
- Hưu Tức Lỵ: Lỵ lúc phát lúc khỏi.
- Cửu Lỵ: Bệnh đã lâu ngày, kinh niên.

b/ Theo nguyên nhân gây Bệnh:
· Do thấp nhiệt gọi là Thấp nhiệt lỵ.
· Do hư hàn gọi là hư hàn lỵ
c/ Theo chứng trạng:
Lỵ kèm theo cấm khẩu, gọi là Cấm khẩu lỵ.
Lỵ có sắc đỏ gọi là Xích Lỵ, có đờm gọi là Bạch Lỵ
-Các nhà nghiên cứu thuộc Viện Trung Y Thượng Hải đề xuất cách
phân chia theo Bát cương (Biểu-Lý, Hàn-Nhiệt, Hư-Thực, Âm-Dương) cho
dễ chẩn đoán và điều trị.
Thực tế lâm sàng hiện nay thường chỉ còn quy vào 5 loại sau (theo
Trung Y Thượng Hải):
. Thấp Nhiệt Lỵ. Hư Hàn Lỵ
. Cấm Khẩu Lỵ. Dịch độc lỵ
. Hưu tức lỵ
D-Nguyên Nhân
1/ Theo Y Học Hiện Đại:
Sách “ Sổ Tay Thầy Thuốc Thực Hành” phân làm 2 loại chính:
a/ Do Amip (Dysenteric Amibienne), một loại trùng do bác sĩ Loesh
và Kartulis tìm ra năm 1875.
b/ Do trực khuẩn ngắn không di động, gam âm, gây ra. Có thể do:
+ Shigella Amigua hoặc trực khuẩn Schmitz.
+ Shigella Dysenteriae hoặc trực khuẩn Shiga.
+ Shigella Paradysenteriae hoặc trực khuẩn Flexner.
+ Shigella Sonnei hoặc trực khuẩn Sonne.
2/ Theo Y Học Cổ Truyền:
Sách “Nội Khoa Học Thượng Hải và Thành Đô” ghi: Nguyên nhân
gây ra Bệnh lỵ:
a/ Thấp Nhiệt:
Lúc giao tiếp giữa mùa hè và thu, nhiệt tà bị uất, thấp khí bị ứ trệ cùng
với nhiệt độc kết hợp với nhau hóa thành máu và mũi, gây ra Lỵ.

+ Thấp Nhiệt gọi là Bạch Lỵ.
+ Nhiệt nhiều gọi là Xích Lỵ.
b/ Ăn uống không điều độ hoặc thức ăn không sạch, ăn nhiều thức ăn
béo (cao lương mỹ vị) làm hại Tỳ Vị, Tỳ Vị hư không thắng nổi Thấp làm
cho Thấp ủng trệ bên trong nung đốt tạng phủ, khí huyết ngưng trệ sinh ra
máu và mũi.
Người hay ăn các thức ăn sống, lạnh, hàn thấp tích trệ ở trong kèm
theo ăn uống không cẩn thận, hàn thấp làm tổn thương (hại) Tỳ Vị, khí của
Đại Trường bị trở ngại làm tổn hại đến doanh (dinh) huyết sinh ra chứng
Hàn Thấp Lỵ.
c/ Cảm thụ phải thời hành dịch khí, ủng trệ ở trường vị, hợp với khí
huyết hóa ra mũi, máu, thành Bệnh Dịch Độc Lỵ.
d/ Trình Chung Linh trong sách “Y Học Tâm Ngộ “ đời nhà Thanh
(1644) nêu ra 3 nguyên nhân:
-Tích nhiệt
-Cảm phong hàn bế tắc
-Do ăn uống thức ăn sống, lạnh.
Như vậy, nguyên nhân gây ra Bệnh Lỵ có thể gom thành 2 loại:
+ Ngoại nhân: Do ngoại tà Hàn, Thấp,Nhiệt, vá Dịch độc.
+ Nội nhân:Do ăn uống làm tổn thương Tỳ Vị.
Tuy chia nguyên nhân gây Bệnh ra làm 2 loại như trên nhưng 2 yếu tố
này luôn ảnh hưởng đến nhau:
+ Có khi Bệnh ở trong nhân Bệnh ở ngoài mà dễ phát sinh (chính khí
suy-tà khí thịnh).
+ Có khi Bệnh bên ngoài nhân có Bệnh ở trong mà phát sinh (tà khí
thịnh-chính khí suy).
E-Cơ Chế Sinh Bệnh
1/ Theo y học hiện đại:
Sách “ Sổ Tay Thầy Thuốc Thực Hành” giải thích:
a) Do Amip: Lây do nuốt phải ký sinh vật Amip, nhất là thể đơn bào,

lây trực tiếp do tay bẩn hoặc gián tiếp qua nước uống, thức ăn còn sống
Amip xâm nhập vào cơ thể, cư trú ở thành ruột, phát triển và gây nên những
ổ loét ở ruột già và ruột non, kích thích niêm mạc ở ruột già và ruột non gây
ra đau quặn, mót rặn, tiết ra nhiều niêm dịch (chất nhầy, mũi) hoặc làm rách
các mao mạch, tĩnh mạch ở ruột gây ra có máu.
b) Do trực trùng Shigella, Shamonella lây theo đường tiêu hóa do ăn
uống phải các thức ăn bị nhiễm độc, thường xảy ra vào mùa hè. Tại Việt
Nam, theo báo cáo của Viện Vệ Sinh Phòng Dịch, lỵ thường xảy ra thành
dịch vào các tháng 8-9 trở đi. Khi trực khuẩn xâm nhập vào thành ruột, các
vi khuẩn bám vào đó (nơi có môi trường thuận lợi cho chúng phát triển) và
Đại Tràng (ruột già) bị kích thích sinh ra co thắt thành ruột già, gây ra đau
bụng quặn, viêm và đau thắt làm cho phải đi ỉa nhiều lần, đi ra chất nhầy
(mũi), xung huyết hoặc xuất huyết, làm cho phân có máu hoặc máu tươi và
nếu trực tràng bị loét thì cơ trơn hậu môn bị co bóp gây ra mót rặn.
2/ Theo Y Học Cổ Truyền
Sách “ Trung Y Học Nội Khoa Giảng Nghĩa” giải thích:
Thấp, Hàn, Nhiệt từ bên ngoài xâm nhập vào hoặc Tỳ Vị bị hư yếu,
làm cho các tà khí đó xâm phạm vào Trường Vị làm cho lạc mạch ở ruột bị
tổn thương, khí huyết cùng với tà độc hợp lại hóa thành máu, mũi (chất
nhầy).
F -Triệu Chứng
Mạnh Bái Lâm ở Viện Nghiên Cứu Trung Y Tĩnh Vũ Hán (Trung
Quốc), qua quan sát 22 người Bệnh, đã nhận định là Bệnh lỵ có các triệu
chứng sau:
1 Mót rặn 22/22
2 Bụng đau 21/22
3 Bụng dưới ấn đau 19/22
4 Bụng dưới đầy trệ 13/22
5 Sốt 9/22
6 Ăn uống giảm 8/22

7 Sợ gió (ố phong) 5/22
8 Khát 5/22
9 Miệng đắng 5/22
10 Tiểu đỏ 4/22
+ Về mạch thì:
-Mạch Nhu Hoãn 10/22
-Hoạt 6/22
-Hoãn 5/22
-Phù Sác 1/22
Như vậy, Bệnh Lỵ là 1 hội chứng gồm:
+ Biểu chứng: sốt, sợ gió, mạch phù-sác.
+ Lý chứng: Bụng đau,mót rặn, khát.
+ Hư chứng: Mạch Huyền Hoãn.
+ Bán biểu bán lý: miệng đắng, mạch Huyền
1/ Thấp nhiệt lỵ: Bụng đau quặn, tiêu ra máu lẫn nhầy mũi, mót rặn
liên tục, hậu môn nóng rát, nước tiểu vàng, lưỡi đỏ, rêu lưỡi vàng dầy, mạch
Hoạt Sác thường gặp ở Lỵ Amip. Phân có máu và mũi vì vậy gọi là Xích
Bạch Lỵ. Thấp Nhiệt tích trệ trong ruột, khí huyết bị trở ngại, làm cho chức
năng truyền đạo thất thường gây ra đau bụng quặn, mót rặn. Thấp nhiệt hun
đốt làm khí huyết bị tổn thương, biến thành chất dính nhờn, làm cho phân có
lẫn máu và chất nhờn. Hậu môn nóng rát, tiểu ngắn và đỏ là biểu hiện của
Thấp Nhiệt dồn xuống gây ra. Rêu lưỡi nhờn là Thấp, màu vàng là Nhiệt,
mạch Hoạt là Thực chứng, mạch Sác là Nhiệt.
2/ Lỵ Thể Hàn Thấp: Ỉa phân mũi nhiều hơn máu, hoặc toàn ra mũi,
thỉnh thoảng bụng đau, mót rặn, sợ lạnh, mệt mỏi, không muốn ăn uống,
mạch hoãn (NKHT.Đô) hoặc Nhu Hoãn (NKHT. Hải). Thường gặp ở Lỵ
Amip bán cấp, gọi là Bạch Lỵ. Do hàn thấp trệ ở bên trong, làm cho khí cơ
bị trở ngại gây ra mót rặn, bụng đau. Hàn Thấp làm tổn hại phần khí, ví vậy
phân có chất trắng, nhầy nhiều hơn máu (đỏ). Sợ lạnh, mệt mỏi là do dương
khí ở Tỳ Vị bị Hàn thấp làm tổn thương.

3/ Lỵ do dịch độc: Bệnh phát nhanh, sốt cao, khát, đầu đau, bụng đau
dữ dội, mót rặn nhiều, ỉa ra máu tươi hoặc giống máu cá, nhiều táo, lưỡi đỏ,
rêu lưỡi vàng khô, mạch sác (NKHT. Đô) hoặc Hoạt sác (NKHT. Hải).
Thường gặp ở Lỵ Trực Khuẩn, thường xuất hiện thành dịch và gây ra triệu
chứng nhiễm độc toàn thân. Dịch độc rất mạnh cho nên phát Bệnh mau.
Dịch độc nung đốt trường vị, khí huyết gây ra máu mủ tím tươi. Nhiệt thịnh
bên trong nên gây ra sốt cao. Nhiệt tà mạnh làm tổn thương trên dịch gây ra
khát. Đầu đau là do nhiệt khí bốc lên trên, phiền táo là do nhiệt tà hun đốt
doanh huyết. Bụng đau quặn và mót rặn nhiều là vì dịch độc mạnh, chất lưỡi
đỏ sẫm, mạch Sác đều là nhiệt độc ở trong gây ra.
4/Hưu Tức Lỵ: Bệnh lúc phát lúc khỏi, lâu ngày không dứt, mệt mỏi,
sợ lạnh, muốn nằm. Khi đ ỉa bụng đau quặn, đại tiện ra máu mũi dẻo, dính,
chất lưỡi nhạt, rêu lưỡi nhờn, mạch Tế (NKHT. Hải), mạch Hoạt vô lực
(NKHT. Đô).
Vì chính khí hư, tà khí trệ lâu ngày làm cho đại tiểu tiện thất thường,
hàn nhiệt lẫn lộn, Bệnh kéo dài lâu ngày khó khỏi, khỏi rồi lại phát. Tỳ
dương hư yếu, Thận khí suy yếu, mệt mỏi, sợ lạnh, thích nằm, khi đi ỉa bụng
đua quặn, phân dẻo dính máu mũi lẫn lộn là do tà khí còn trệ ở trường vị, khí
huyết hư yếu gây ra. Mạch Tế hoặc Hoạt không lực là biểu hiện chính khí
suy.
5/Cấm khẩu Lỵ: không ăn uống được, đi lỵ, muốn ói, ói mửa nặng thì
gầy ốm đi, tinh thần mê mệt, rêu lưỡi vàng nhạt, mạch nhu sác.
Thử Thấp nhiệt độc ẩn náu trong ruột, công lên Vị, Vị mất điều hòa,
không có sức vận hóa vì vậy không ăn được. Vị khí nghịch lên gây ra muốn
ói, ói mửa, da thịt gầy sút, tinh thần mỏi mệt là dấu hiệu của Vị khí bị tổn
thương nặng. Rêu lưỡi vàng nhờn, mạch nhu sác đều là do nhiệt độc hun đốt
gây ra.
G-Biến Chứng
1/ Theo Y Học Hiện Đại
Theo sách “ Hướng Dẫn Thầy Thuốc Thực Hành”:

a) Lỵ Amip: Lỵ Amip không chữa tốt có thể di Bệnh qua đường tĩnh
mạch hoặc bạch huyết hoặc lan truyền sang bên cạnh gây ra:
-Viêm Gan: thường gặp dưới thể áp xe Gan.
-Aùp xe phổi: có thể do áp xe gan tràn vào phổi hoặc do Bệnh di sang.
b) Lỵ trực khuẩn không điều trị đúng và tốt có thể gây ra 1 số biến
chứng như:
- Chảy máu ruột, thủng ruột
-Thấp khớp do Lỵ (xuất hiện trong thời kỳ toàn phát hoặc đang phục
hồi sức).
-Liệt nhưng khỏi mà không để lại di chứng (hiếm gặp).
-Vào mắt: Hội chứng Reiter (viêm màng tiếp hợp, ống tiết niệu và
khớp), viêm mống mắt.
2/ Theo y học cổ truyền
Sách Trung Y Học Nội Khoa Giảng Nghĩa nêu ra một số biến chứng
theo quan điểm là: trường vị có liên quan đến các tạng phủ khác theo thuyết
Tạng Tượng của y học cổ truyền:
a) Dịch độc và thấp nhiệt công lên trên Vị làm cho ăn uống không
được gây ra chứng cấm khẩu Lỵ.
b) Bệnh Lỵ lâu ngày kéo dài làm cho Tỳ khí suy yếu thành ra Cửu Lỵ.
c) Ly lâu ngày không khỏi, tái đi tái lại nhiều lần, không chỉ tổn
thương Tỳ Vị mà còn ảnh hưởng đến Thận nữa.
II- Điều Trị
Theo Lê Hữu Trác, trong “Bách Bệnh Cơ Yếu” sách “Hải Thượng Y
Tôn Tâm Lĩnh” thì cách chữa Lỵ:
-Mới phát thì nên tẩy trừ, Bệnh lâu ngày thì nên ôn bổ, cần nhất là
phải chú trọng đến vị khí .
-Sinh ra Lỵ phần nhiều là gốc ở Tỳ, Thận bổ trung khí để giúp cho
Tỳ Vị, giúp thêm Mệnh Môn để phục hồi chân âm thì nguyên khí vượng mà
vận hóa khỏe được, âm dương hòa mà bế tàng vững thì làm gì còn chứng
hỏa xông lên để uất ở trường vị nữa.

-Dùng phép “thông nhân thông dụng”, tức là phép Hạ. Nhưng phép
Hãn (làm cho ra mồ hôi), phép thổ (làm cho ói ra) cũng gọi là thông vì
“ không có tích thì không thành chứng lỵ”.
Theo các sách giáo khoa y học cổ truyền, các bài thuốc điều trị lỵ có
thể gom lại như sau:
1/ Thuốc điều khí: Thông đạo cho hết mót rặn vì thuốc này làm cho
chức năng vận động của bộ tiêu hóa được điều hòa, không ngừng trệ, ủng tắc
nữa. Các vị thuốc thường dùng là Binh lang,, Mộc hương, Trần Bì, Chỉ xác,
Chỉ Thực, Thanh Bì
2/ Bổ Can đởm: hành huyết, lương huyết, để làm cho hết máu mũi.
Các vị thuốc thường dùng: Bạch thược, Đương Quy, Đan Bì, Huyền sâm,
Xuyên Khung, Xích Thược, Liên Tiền Thảo
3/ Tư âm ( Tăng tân dịch): trong trường hợp nóng nhiều, mất nước do
lượng thải ra nhiều lần. Thuốc thường dùng: Mạch môn, Sinh Địa, Thạch
Lộc
4/ Tăng thêm sức ấm: Nếu cơ thể suy yếu do ỉa nhiều lần, mất nước,
mất tân dịch (và các chất điện giải), tay chân lạnh. Thuốc thường dùng: Can
Khương, Phụ tử, Ngạnh Mễ, Trần Mễ
5/ Bổ Thận: Nếu cơ thể suy kiệt mà thuốc bổ thường và bổ Tỳ không
giải quyết được, thường dùng Thục Địa, Câu Kỷ Tử, Phá Cố Chỉ, Đỗ Trọng
6/ Thu sáp và cố thoát: Nếu đi ỉa nhiều lần quá. Thuốc thường dùng:
Kha Tử, Xích Thạnh Chi, Nhục Đậu Khấu, Anh Túc Xác
Lâm Sàng Điều Trị
1) Thấp Nhiệt Lỵ:
+ NKHT. Hải: Thanh nhiệt, hóa thấp, giải độc, điều khí, hành huyết.
Dùng bài Thược Dược Thang Gia giảm: Bạch thược, Đương Quy, Kim
Ngân Hoa, Binh lang, Hoàng Cầm, Mộc hương, Đại Hoàng, Hoàng Liên,
Cam Thảo. Sắc uống.
(Đây là bài Thược Dược Thang gia giảm ở sách “Tố Vấn Bệnh Cơ
Khí Nghi Bảo Mệnh Tập” của Lưu Hà Gian, bỏ Nhục Quế thêm Kim Ngân

Hoa. Trong bài Bạch thược, Cam thảo và Đương quy để hành huyết, hòa
doanh, ảnh hưởng đến việc bài tiết máu mũi (chất nhầy) vì huyết hành thì
máu mũi sẽ giảm; Binh lang và Kim Ngân Hoa để thanh nhiệt giải độc; Cam
thảo có tác dụng điều hòa các vị thuốc và giảm đau).
-NKHT.Đô: Thanh nhiệt, trừ thấp, điều khí, hành huyết.
Dùng bài Cầm Thược Thang gia giảm (Ôn Bệnh Điều Biện): Bạch
thược 12g, Hoàng liên 6g, Mộc hương 4g, Hoàng Cầm 8g, Hậu Phác 8g,
Trần bì 6g. Sắc uống ấm.
-Sách TBTYKN Phương giới thiệu 2 bài: Chỉ Lỵ Tán và Vương Thái
Sư Trị Lỵ Kỳ Phương.
+ Chỉ Lỵ Tán (Y Học Tâm Ngộ): Cát Căn (Sao) 640g, Tùng La Trà
(chè lâu năm) 640g, Khổ Sâm 640g, Xích Thược (sao rượu) 480g, Trần bì
640g, Mạch Nha (sao) 480g, Sơn Tra 480g. Tán bột. Ngày uống 12-16g.
Cát căn để cổ vũ vị khí, Khổ Sâm, trà lâu năm để thanh trừ thấp nhiệt;
Mạch Nha, Sơn Tra để tiêu trừ thực tích; Xích thược, Trần bì để hành huyết.
+ Vương Thái Sư Chỉ Lỵ Kỳ Phương: Hoàng liên 8g, Đào nhân 6g,
Mộc hương 3,2g, Hoàng Cầm 8g, Chỉ xác 12g, Sơn tra nhục 12g, Bạch
thược 8g, Thanh bì 6g, Địa du 12, Đương quy 6g, Tân lang 6g, Cam thảo 4g,
Hồng hoa 2g, Hậu phác 6g. Sắc uống.
(Đây là bài Liên Mai Thang trong sách” Ôn Bệnh Điều Biện” thêm Sa
sâm, Thạch Hộc, Mộc Qua và Tây Dương Sâm).
+ Thược Dược Thang gia giảm: Đương quy 50g,Chỉ xác 16g, Tửu
quân 10g, Binh lang 16g, Lai phục tử 10g, Nhục quế 6g, Bạch thược 50g,
Cam thảo 6g. Sắc uống.
+ Phức Phương Nha Đảm Tử Hoàn: Nha đảm tử (bỏ vỏ) 60g, Quán
chúng 20g, Ngân hoa (than) 20g, Sáp vàng 80g. Thuốc tán thành bột, nấu
sáp cho chảy ra, trộn thuốc bột làm hoàn. Ngày uống 8-12g.
-Sách Y Học Cổ Truyền Dân Tộc (VN) dùng:
+ Thược Dược Thang bỏ Quế Chi Gia Giảm: Hoàng cầm 12g, Bạch
thược 8g, Binh lang 6g, Hoàng liên 12g, Đương quy 8g, Cam thảo 6g, Kim

ngân hoa 20g, Mộc hương 6g, Đại hoàng 4g.
Sắc uống.
+ Khổ Luyện Đại Hoàng Viên: Khổ luyện tử 20g, Hạt dưa hấu 20g,
Hạt cam 2g, Hoàng liên gai 20g, Bồ kết 20g, Đại hoàng 20g. Tán bột, ngày
uống 20g.
2/ Lỵ Do Hàn Thấp
-Sách NKHT. Hải: Ôn trung, táo thấp, giải độc. Dùng bài Ôn Tỳ
Thang Gia Giảm: Can Khương, Đại hoàng, Thần khúc, Phụ tử, Mộc hương,
Sơn tra, Cam thảo, Chỉ thực.
(Đây là bài Ôn Tỳ Thang của sách Thiên Kim Phương, bỏ Nhân sâm
và Quế tâm, thêm Mộc hương, Chỉ thực, Thần khúc và Sơn tra. Trong bài
Can khương, Phụ tử để ôn trung trừ hàn, Cam thảo, Đại hoàng để điều hòa,
giải độc, Mộc hương để hành khí, Chỉ Thực, Thần Khúc, Sơn Tra để tiêu
tích, chữa lỵ).
-Sách NKHT. Hải: Ôn dương, vận Tỳ, tán hàn, hóa thấp.
Dùng bài Bán Linh Thang Gia Giảm (Ôn Bệnh Điều Biện): Bán hạ
20g, Xuyên liên 4g, Thông thảo 32g, Phục linh 2g, Hậu phác 12g. Sắc uống.
-Sách ‘Thiên Gia Diệu Phương’: Tiêu tích trệ, tán hàn tà.
Dùng bài Ngũ Tiêu Ẩm gia giảm: Tiêu tra 20g, Xuyên phác 20g,
Nguyên hồ 12g, Mạch nha 12g, Đại bạch 8g, Mộc hương 4g, Kiến khúc 12g,
Bào khương 6g, Nhị sửu đều 20g. Sắc uống.
(Tiêu Tra, Kiến Khúc, Mạch Nha, Đại Bạch để tiêu tích, trừ hư;
Xuyên Phác, Mộc hương, Nguyên Hồ để hành khí, giảm đau, Bào khương
để ôn hạ nguyên, tán hàn; Nhị Sửu để xổ nhẹ, tuy xổ mà không làm hại
chính khí, đẩy tà khí ra theo phân).
-Sách ‘Tân Biên Trung Y Học Khái Yếu’ dùng bài Bất Hoán Kim
Chính Tán (Thái Bình Huệ Dân Hòa Tễ Cục Phương).: Hậu phác 6g, Hoắc
hương 8g, Bán hạ (chế) 8g, Trần bì 6g, Nhục Quế 4g, Táo 4 trái, Mộc hương
6g, Thương truật 12g, Gừng 4g, Sa nhân 6g. Sắc uống.
3/ Dịch Độc Lỵ

-NKHT. Hải: thanh nhiệt, lương huyết, giải độc. Dùng bài Bạch đầu
ông Thang Gia Vị:
Bạch đầu ông 40g, Trần bì 12g, Xích Thược 12g, Hoàng liên 24g,
Đan Bì 12g, Hoàng bá 12g, Hoàng Cầm 12g, Kim Ngân Hoa 20g. Sắc uống.
(Đây là bài Bạch Đầu Ông Thang của sách ‘Thương Hàn Luận’ thêm
Kim ngân hoa, Hoàng Cầm, Xích Thược và Đan Bì. Bạch đầu ông lương
huyết, giải độc; Hoàng Liên, Hoàng Bá, Trần bì để hóa thấp, thanh nhiệt;
Kim Ngân Hoa, Hoàng Cầm, Xích Thược, Đan Bì thanh nhiệt, lương huyết).
-NKHT.Đô: thanh nhiệt, giải độc, dùng bài Bạch Đầu Ông Thang
(Thương Hàn Luận):
Bạch đầu ông 40g, Đan Bì 12g, Xích thược 12g, Trần bì 12g, Kim
Ngân Hoa 20g, Chỉ xác 8g, Hoàng bá 12g, Địa du 20g, Mộc hương 8g,
Hoàng liên 24g,
(Đây là bài Bạch Đầu Ông Thang thêm Đơn bì, Kim ngân hoa, Địa du,
Xích thược, Chỉ xác và Mộc hương).
Hoặc dùng: Rau Sam Cỏ Mực Viên: Cỏ mực 50g, Hạt cau 20g, Vỏ rụt
20g, Chỉ xác 20g, Lá trắc bá 20g, Hoa hòe 20g, Rau sam 40g. Tán bột. Ngày
uống 20g với nước vối.
-Sách Thiên Gia Diệu Phương dùng bài Bạch Đầu Ông Thang Gia Vị:
Bạch đầu ông 20g, Trần bì 6g, Nha đảm tử (bỏ vỏ) 10 hạt, Hoàng liên 12g,
Hoàng bá 12g. 4 vị trên sắc thành thang. Còn Nha đảm tử, dùng Quế nhục
bao lại, nuốt, uống với nước thuốc sắc trên.
4/ Hưu Tức Lỵ
-NKHT.Hải: Kiện Tỳ, bổ khí, thanh nhiệt, hóa thấp.
Lúc đi lỵ nhiều thì dùng phép hóa thấp thanh nhiệt là chính khí bớt rồi
thì dùng phép Kiện Tỳ, bổ khí là chính.
· Khi phát, dùng bài Thược Dược Thang hoặc Bạch Đầu Ông Thang
(xem trên).
· Khi không phát, dùng bài: Kiện Tỳ Hòa Vị Thang: Nhân sâm 12g,
Phục linh 12g, Mộc hương 8g, Bạch truật 12g, Cam thảo 4g, Sa nhân 8g,

Bán hạ 8g, Trần bì 4g. Sắc uống.
(Đây là bài Hương Sa Lục Quân Tử thang (Tứ Quân + Bán hạ, Trần
bì) thêm Mộc hương, Sa nhân. Nhân sâm bổ khí, Bạch truật kiện Tỳ, vận
thấp, Phục linh giúp Bạch truật kiện Tỳ, vận thấp, Cam thảo giúp Nhân sâm
ích khí hòa trung, Bán hạ, Trần bì táo thấp, hóa đàm, Mộc hương, Sa nhân
tỉnh Tỳ, hòa Vị, sướng trung, điều khí, lý cơ).
-NKHT.Đô: Ích Khí, vận Tỳ, phù chính, khu tà. Dùng bài Sâm Linh
Bạch Truật Tán (Cục Phương): Liên Nhục Tử (bỏ vỏ) 50g, Bạch Linh 100g,
Ý dĩ nhân 50g, Nhân sâm 100g, Bạch biển đậu (ngâm nước gừng, bỏ vỏ, sao
sơ) 75g, Chích thảo 100g, Bạch truật 100g, Hoài Sơn 100g. Tán bột. Mỗi lần
dùng 8g uống với nước sắc Đại táo.
5/ Cấm Khẩu Lỵ
-NKHT.Hải: Hòa vị, giáng trọc tà dịch, thanh nhiệt. Dùng bài Khai
Cấm Tán gia giảm: Bán hạ, Đan sâm, Trần bì, Hoàng liên, Phục linh, Trần
Mễ, Thạch xương bồ, Đông qua tử, Hà diệp đế, Đại hoàng.
(Đây là bài Khai Cấm Tán của sách Y Học Tâm Ngộ, bỏ Nhân Sâm,
Thạch Liên Tử, thêm Bán hạ, Đại Hoàng. Bán hạ,Trần Bì, Phục linh để
giáng nghịch, Thạch xương bồ, Đông qua tử, Hà diệp đế, Đại hoàng để
thông phủ, Hoàng liên để thanh nhiệt, Trần Mễ để hòa trung.
-Sách TBTYKN Phương dùng:
+ Cấm Khẩu Lỵ Phương: Ngó Sen (loại già) giã nát, vắt lấy nước,
chưng chín, hòa với ít đường cho uống.
+ Sâm Linh Bạch Truật Tán Gia Vị (Ôn Bệnh Điều Biện): Nhân sâm
8g, Ý dĩ nhân 6g, Bào khương 4g, Bạch truật 6g, Cát cánh 4g, Nhục đậu
khấu 4g, Phục linh 6g, Sa nhân (sao) 2,8g, Chích thảo 2g, Biển đậu (sao) 8g.
Tán bột. Mỗi lần dùng 6g, uống với nước cơm sôi.
(Đây là bài Sâm Linh Bạch Truật Tán của sách Cục Phương, bỏ Thạch
liên tử, Hoài Sơn, thêm Cát cánh, Sa nhân, Bào khương và Nhục đậu khấu).
6/ Lỵ Do Hư Hàn
+ NKHT. Hải: Ôn bổ Tỳ Thận. Dùng bài Dưỡng Tạng Thang gia giảm

(Vệ Sinh Bảo Giám).
Kha Tử, Bạch truật, Mộc hương, Anh túc xác, Bạch thược, Nhục quế,
Nhục đậu khấu, Nhân sâm, Cam thảo, Đương quy.
(Đây là bài Chân Nhân Dưỡng Tạng Thang của sách Hòa Tễ Cục
Phương, thêm Bạch thược. Dùng Anh túc xác, Kha tử để cố sáp; Nhân sâm,
Bạch truật để bổ khí; Nhục đậu khấu, Nhục Quế để ôn Tỳ Thận; Mộc hương
để hành khí; Đương Quy, Bạch thược để điều huyết).

×