Tải bản đầy đủ (.doc) (21 trang)

Công nghệ sinh học thực vật với tài nguyên cây thuốc docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.05 MB, 21 trang )


Công nghệ sinh học thực vật
với tài nguyên cây thuốc
Công nghệ sinh học thực vật với tài nguyên cây thuốc
Tác giả: Trần Công Luận
Ngoài những nhiệm vụ truyền thống công nghệ sinh học thực vật còn phải gánh vác các ngành
sản xuất mới: (1) Tăng sinh khối để sản xuất năng lượng thay thế nguồn dầu mỏ, (2) Phát triển
hoá học xanh: một mặt cung cấp sinh khối cho sản xuất hoá chất, mặt khác phải biến thực vật
thành nhà máy hoá chất. Đặc biệt đối với các hợp chất tự nhiên có tác dụng sinh học cao. Vì cho
đến nay 80% dân số thế giới vẫn dùng các sản phẩm từ tự nhiên trong chăm sóc sức khỏe ban
đầu, phòng và chữa trị bệnh.
Do tế bào thực vật có tính toàn thế (Totipotency) nhờ khả năng ít bị biệt hóa và phát triển tốt,
nên dễ nuôi cấy hơn so với nuôi cấy tế bào động vật. Nên ngày nay công nghệ sinh học thực vật
đã được áp dụng ở quy mô lớn, thậm chí sản xuất công nghiệp nhờ vào các ứng dụng kỹ thuật vi
nhân giống (Microprogation) tạo ra các cây giống có độ đồng đều, với hiệu suất nhân giống cao
so với kỹ thuật truyền thống từ hạt hay hom cành. Giúp rút ngắn giai đoạn phát triển, sử dụng ưu
thế lai những cây lâu năm và làm chủ được mùa vụ gieo trồng. Lĩnh vực nuôi cấy mô tế bào để
tạo sinh khối có hoạt chất sinh học cao cũng được phát triển và áp dụng trong quy mô sản xuất
công nghiệp mà không cần qua giai đoạn trồng trên đồng ruộng. Những sản phẩm thứ cấp từ kỹ
thuật nuôi cấy mô tế bào có thể tham khảo ở bảng 1.
Bảng 1. Hàm lượng hợp chất từ tế bào nuôi cấy mô so sánh với cây mẹ
Hợp chất Cây thuốc
Hàm lượng (%)
Tỷ lệ mô
cấy/cây
Tham khảo

cấy
Cây mẹ
Ajmalicin Catharanthus roseus 1,0 0,3 3,3 Lee and Shuler 2000
Anthraquinon Morinda citrifolia 18 2,2 8 Zenk 1977


Berberin Coptis japonica 13 2 3,3 Fujita and Tabata 1987
Ginsenosid Panax ginseng 27 4,5 6 Matsubara et al. 1989
Nicotin Nicotiana tabacum 3,4 2,0 1,7 Mantell et al. 1983
Acid
rosmarinic
Coleus blumei 27 3 9
Petersen and
Simmondblumei 2003
Shikonin
Lithospermum
erythrorhizon
20 1,5 3,5 Kim and Chang 1990
Ubiquinon 10 Nicotiana tabacum 0,036 0,003 12 Fujita and Tabata 1987

Thực vật bậc cao là nguồn cung cấp hợp chất có tác dụng sinh học cao được dùng trong công
nghiệp dược. Một số hợp chất thứ cấp được dùng làm thuốc như: morphin, codein, cocain,
quinin, các alkaloid Dừa cạn, alkaloid Dương địa hoàng, colchicin, phytostigminin, pilocarpin,
reserpin và các steroid như: Diosgenin, digoxin, và digitoxin (Bảng 2).
Hợp chất Điều trị Loài Giá (USD/ kg)
Ajmalicin Cao huyết áp Catharanthus roseus 37.000
Ajmalin Sốt rét Rauwolfia serpentine 75.000
Camptothecin Ung thư Camptotheca acuminata 432.000
Codein Giảm đau Papaver somniferum 17.000
Colchicin Ung thư Colchium autumnale 35.000
Ellipticin Ung thư Orchrosia elliptica 240.000
Morphin Giảm đau Papaver somniferum 340.000
Shikonin Sát khuẩn Lithospermum erythrorhizon 4.500
Taxol Ung thư vú, phổi Taxus brevifolia 600.000
buồng trứng
Vinblastin Ung thư máu Catharanthus roseus 1.000.000

Vincristin Ung thư máu Catharanthus roseus 2.000.000
Với sự phát triển công nghệ gen thực vật nhờ phát hiện vi khuẩn Agrobacterium tumefaciens
gây khối u ở thực vật, việc tạo giống bằng kỹ thuật di truyền đã mở ra nhiều ứng dụng mới cho
trồng trọt cũng như tạo các hợp chất thứ cấp có tác dụng sinh học cao trong các mô cấy tế bào
với hàm lượng có thể ly trích được ở quy mô công nghiệp, đặc biệt là sự hình thành rễ tơ có hàm
lượng các hoạt chất cao nhờ vào các kỹ thuật nuối cấy trong bioreactor và có bổ sung các tiền
chất như acid jasmonic và dẫn chất (Bảng 3).
Bảng 3. Sản xuất hợp chất thứ cấp bằng kỹ thuật nuôi cấy mô rễ tơ từ một số loài cây thuốc

Họ thực vật Cây thuốc Hợp chất chính Tác dụng
Araliaceae Panax ginseng Các ginsenosid
Bổ, tăng lực, chống
stress
Apocynaceae Rauwolfia micrantha Ajmalicin, Ajmalin Hạ huyết áp
Asteraceae Saussurea medusa Jaceosidin Kháng ung thư
Cucurbitaceae
Gynostemma
pentaphyllum
Gypenosid (Saponin)
Một số tác dụng sinh
học
Fabaceae Pueraria phaseoloides Puerarin
Hạ nhiệt, co thắt, hạ áp,
chống loạn nhịp
Ginkgoaceae Gingko biloba Ginkgolid
Phòng chống bệnh tim
mạch và tuổi già
Linaceae Linum favum Coniferin (Lignan) Kháng ung thư
Nyssaceae
Camptotheca

acuminate
Camptothecin
Kháng ung thư, kháng
virus
Papaveraceae Papaver somniferum
Morphin, sanguinarin,
codein
Giảm đau
Solanaceae
Solanum
chrysotrichum
Saponin Kháng virus
Verbenaceae Gmelina arborea Verbascosid
Phòng chống bệnh đau
bao tử, sốt và bệnh
ngoài da
Việc ứng dụng công nghệ sinh học thực vật đã đem lại nhiều lợi ích và có ý nghĩa lớn mà ta có
thể minh họa 2 trường hợp rất gần gũi với nước ta sau đây:
Taxol
Nhu cầu hiện nay trên thế giới đạt tới 259 kg taxol/năm. Taxol đã vào thị trường thuốc generic
vào đầu những năm 90, giờ đây được sản xuất trên quy mô lớn từ nuôi cấy mô tế bào hoặc bằng
sự bán tổng hợp từ các tiền chất DAB và baccatin III và dễ dàng tách từ lá các loài thông đỏ. Cho
đến nay, mức thu được từ 140-295 mg/l taxol của tế bào nuôi cấy Thông đỏ Thái Bình Dương
(Taxus baccata) được thương mại hóa trong sản xuất.
Nhân sâm (Panax ginseng)
Trồng Nhân sâm tối thiểu phải 4 năm mới thu hoạch rễ. Sâm phải trồng trong điều kiện đặc biệt
về độ cao, độ ẩm, ánh sáng. Ngoài ra phải giải quyết vấn đề bệnh hại và phải thường xuyên
chuẩn bị các cánh đồng trồng sâm mới cho vụ mùa sau để đảm bảo chất lượng và sản lượng.
Cho đến nay, rất ít sự thay đổi trong kỹ thuật trồng ở đồng ruộng. Vì vậy, áp dụng công nghệ sinh
học được xem xét và thay thế cho sự phát triển Nhân sâm và nhân giống và sản xuất nguyên liệu

làm thuốc. Tại Hàn Quốc, một số công ty đang sản xuất rễ tơ Nhân sâm với bioreactor có dung
tích 10.000 đến 20.000 lít. Sản phẩm này được làm nguyên liệu cho các dạng thực phẩm chức
năng và thực phẩm khác nhau trên thị trường.
Theo TS. Võ Văn Chi, số loài cây thuốc ở Lâm Đồng có thể trên 1.000 loài. Trong đó có nhiều
loài quý, hiếm như Thông đỏ, Lan gấm, Thạch tùng răng,… đang bị thu hái hay triệt phá cạn kiệt
và được đưa vào Sách đỏ Việt Nam. Vì vậy cần phải có việc tái điều tra tài nguyên cây thuốc trên
địa bàn tỉnh, khoanh vùng bảo vệ và thu hái hợp lý các cây thuốc trong tự nhiên. Tổ chức nhân
giống và trồng các cây thuốc quý có tiềm năng và có giá trị kinh tế cao ở quy mô lớn. Để thực
hiện mục tiêu này, chúng ta có thể áp dụng kỹ thuật nuôi cấy mô tế bào để bổ sung nguồn cây
giống mà kỹ thuật nhân giống truyền thống bằng hạt hoặc bằng hom cành thường mất nhiều thời
gian và hạn chế về số lượng. Nhưng để phát triển được nguồn nguyên liệu làm thuốc bằng kỹ
thuật nuôi cấy mô tế bào, thì ngoài giá trị điều trị bệnh cao, phải là cây thuốc có giá trị kinh tế cao
hơn giá trị của các loại cây trồng truyền thống của Đà Lạt như hoa và rau, quả. Có như thế mới
thu hút được sự quan tâm của các “nhà” ở các lĩnh vực: Quản lý, doanh nghiệp, nghiên cứu, nông
dân, Vì vậy, trên địa bàn tỉnh có hai cây thuốc quý hội đủ yếu tố này là Thông đỏ lá dài (Taxus
wallichiana) và Sâm Việt Nam (Panax vietnamensis). Trong đó Thông đỏ là nguồn nguyên liệu ưu
thế tại chỗ, hiện nay đang được nhân giống vô tính bằng hom cành ở quy mô sản xuất nguyên
liệu và từng bước bằng kỹ thuật nuôi cấy trong ống nghiệm. Còn Sâm Việt Nam cũng từng được
di thực trồng ở Cam Ly, Langbiang và được các nhà khoa học ở trường Đại học Đà Lạt và Viện
Sinh học Tây Nguyên nghiên cứu theo hướng nuôi cấy mô tế bào và dạng rễ tơ, tạo ra một triển
vọng chủ động nguồn nguyên liệu làm thuốc theo 2 hướng: Một là nhân giống cây sâm hoàn
chỉnh để trồng, hai là tạo rễ tơ để sử dụng như nguyên liệu cho các sản phẩm thực phẩm chức
năng và mỹ phẩm.
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. Phạm Thành Hổ. Nhập môn Công nghệ sinh học. NXB Giáo dục. 2005.
2. K.G. Ramawat and S. Goyal (2009), Natural Products in Cancer Chemoprevention and
Chemotherapy. In: K.G. Ramawat (Ed.), Herbal Drugs: Ethnomedicine to Modern Medicine.
Springer-Verlag Berlin Heidelberg , 153.
3. Kintzios S (2008) Secondary metabolite production from plant cell cultures: the success
stories of rosmarinic acid and taxol. In: Ramawat KG, Merillon JM (eds) Bioactive compounds and

Medicinal Plants. Springer, Berlin Heidelberg New York, 85.
4. Takeya K (2003) Plant tissue culture of taxoids. In: Itokawa H, Lee K-H (eds) Taxus-The
Genus Taxus. Taylor & Francis, London, 134.
5. Y.E. Choi (2007), Ginseng. In: Biotechnology in Agriculture and Forestry, Vol. 61. Transgenic
Crops VI (ed. by E.C. Pua and M.R. Davey). Springer-Verlag Berlin Heidelberg, 149.
6. I. Smetanska (2008), Production of Secondary Metabolites Using Plant Cell Cultures. In: Adv
Biochem Engin/Biotechnol. Springer-Verlag Berlin Heidelberg, 187.

Summary
Plant biotechnology has been developed over the last 30 years, whereas their application to
agriculture dates to the last 10 or 15 years or so. Controversies over the uses of biotechnology
aside, this set of tools has potentially important applications, especially when used in conjunction
with other technologies, for the production of food additives, nutraceuticals, and pharmaceuticals.
The synthesis of phytochemicals by the cell cultures in contrast to these in medicinal plants is
independent of environmental conditions and quality fluctuations. In many cases, the combined
research in the fields of establishment of in vitro cultures, targeting of metabolite synthesis, and
development of technologies for product recovery can exploit the potential of plant cells as
sources of secondary metabolites from the resources of medical herbs of Vietnam.
TS. Trần Công Luận
Trung tâm Sâm và Dược liệu Tp. HCM - Việc Dược liệu
Nguồn: Kỷ yếu hội thảo quốc tế tháng 4/2010
3.1. Rễ cây
3.1.1. Hình thái ngoài của rễ
Rễ là cơ quan trục, cùng với thân tạo nên một trục thống nhất của cây. Rễ
có khả năng phân nhánh cho ra các rễ bên làm tăng diện tích tiếp xúc với môi
trường.
Các rễ thường có hình trụ, không mang lá, gồm có 4 miền: miền chóp rễ,
miền sinh trưởng, miền hấp thu và miền trưởng thành. Trên rễ có chóp rễ có
nhiệm vụ che chở cho mô phân sinh tận cùng của rễ khỏi bị hư hỏng và xây xát
khi rễ đâm vào đất.


Rễ có nhiều kiểu khác nhau, có chức năng sinh lí khác nhau.
- Rễ trụ (rễ cọc): đặc trưng cho các cây thuộc lớp Hai lá mầm, gồm có rễ
chính và các rễ bên. Rễ chính phát triển từ mầm rễ, đâm thẳng xuống đất. Rễ
chính là rễ cấp 1 phân nhánh ra rễ bên là rễ cấp 2, rễ cấp 2 phân nhánh tạo rễ
cấp 3…
Các rễ bên được hình thành theo thứ tự hướng ngọn, rễ non nhất phát sinh
ở gần đỉnh ngọn đẩy các rễ già về phía gốc rễ (cải, cà chua, chanh, mít, táo…).

- Rễ phụ: sinh ra từ thân, cành hoặc lá, chúng mọc từ thân gần đất ẩm của
nhiều cây gỗ lâu năm hoặc trên thân rễ của các cây họ Lúa. Ví dụ: cây đa, si,
ngô, mía, tre…
- Rễ chùm: đặc trưng cho các cây thuộc lớp Một lá mầm, không có rễ
chính, gồm nhiều rễ con có hình dạng và kích thước tương đối đồng đều; không
có khả năng sinh trưởng thứ cấp. Tất cả các rễ trong hệ rễ chùm được mọc ra từ
gốc thân sau khi rễ mầm chết sớm.
Hình thái của rễ, chiều ăn sâu, lan rộng của rễ phụ thuộc vào điều kiện
sống và đặc tính di truyền của từng loài cây. Chúng có thể phát triển theo
hướng đâm sâu vào lòng đất hay mọc ngang lan rộng ra xung quanh hoặc cả hai
hướng.








A


B

C


Hình 3.1. Các kiểu rễ
A. Rễ cọc; B. Rễ chùm; C. Rễ phụ ở Chi Ficus


Các miền của rễ
- Miền chóp rễ: có màu sẫm hơn các miền khác, gồm các tế bào có vách
ngoài hóa nhầy che chở cho mô phân sinh tận cùng khỏi bị hư hỏng và xây xát
khi rễ đâm vào đất.
- Miền sinh trưởng: nằm ngay trên chóp rễ, là nhóm tế bào mô phân sinh,
phân chia liên tục làm cho rễ dài ra. Khi miền sinh trưởng bị gày thì rễ không
dài ra nữa, tại đó mọc ra nhiều rễ con.
- Miền hấp thụ: là miền quan trọng nhất của rễ có chức năng hấp thu nước
và muối khoáng, có mang nhiều lông hút sống và hoạt động trong thời gian
nhất định, chết và rụng đi.
- Miền trưởng thành: có lớp biểu bì bao ngoài hóa bần, trong trụ có các
mạch dẫn làm chức năng dẫn truyền.

Biến dạng của rễ
- Rễ củ (củ cải, củ sắn, cà rốt, củ đậu…)
- Rễ móc (rễ bám) (trầu không, tiêu, vạn niên thanh…)
- Rễ thở (rễ hô hấp) (bần, mắm, bụt mọc)
- Rễ mút (giác mút) (dây tơ hồng, các cây trong họ Tầm gửi)
- Rễ chống (đước, dà)
- Rễ cột (rễ cây đa)
- Rễ khí sinh (rễ không khí) (rễ các cây trong họ Lan)






A B




D3.2. Thân cây
3.2.1. Hình thái ngoài của thân
Các bộ phận của thân: thân chính, cành và sự
phân cành
- Thân chính: thân gồm một thân chính thường
mọc theo hướng thẳng đứng, ngược hướng với rễ.
Khi còn non thân chính có màu lục, khi già chuyển
sang màu nâu hay xám.
Hình dạng, kích thước của thân chính không
giống nhau: ở phần lớn các loài cây, thân chính là
một trụ hình nón với mặt cắt tròn (thông, phi lao,
nhãn…), có khi mặt cắt là hình 3 cạnh (cỏ gấu, cói,
xương rồng ta…), hoặc hình vuông (tía tô, bạc
hà…), hoặc hình 5 cạnh, nhiều cạnh (một số loại
xương rồng như xương rồng ngọc lân), hoặc có loại
thân dẹt (xương rồng bà, thân cây quỳnh)

Có cây không có thân như mã đề, có cây thân
rất thấp bé chỉ vài cm, nhưng nhiều cây có thân vừa
cao vừa to như chò chỉ, bạch đàn Châu Úc…

Các bộ phận của thân chính
+ Chồi ngọn: ở ngọn thân có chỗ hơi phinh to
ra, hình nón gọi là chồi ngọn. Chồi ngọn gồm nhiều
lá non phủ lên nhau che chở cho mô phân sinh ngọn
ở phía trong. Ở một số loài cây, chồi ngọn được bảo
vệ bởi các lá kèm rụng sớm (búp đa ở cây đa) hoặc
một phần lá non biến thành vảy bảo vệ chồi trong
mùa đông giá rét, khi mùa xuân tới chồi non mọc ra
thì lá vảy rụng đi (các cây ở vùng ôn đới).

+ Chồi nách: ở nách các lá dọc theo thân có
nhiều chồi nhỏ khác, cấu tạo giống như chồi ngọn
gọi là chồi nách. Các chồi này phát triển thành cành
hoặc hoa.
Giữa chồi ngọn và chồi nách có mối quan hệ




E F

Hình 3.2. Một số loại cây có rễ biến dạng
A. Rễ củ ở cây sắn; B. Rễ bám ở cây trầu không;
C. Rễ thở ở cây bụt mọc; D. Rễ hô hấp ở cây mắm;
E. Rễ chống ở cây đước; F. Rễ khí sinh ở cây phong lan

3.3. Lá cây
3.3.1. Hình dạng ngoài của lá
Lá là một bộ phận cơ quan sinh dưỡng của cây, mọc có hạn trên thân hoặc
cành, có dạng phiến dẹp và đối xưng hai bên, thực hiện chức năng dinh dưỡng

rất quan trọng của cây: quang hợp, hô hấp, thoát hơi nước.
a) Các bộ phận của lá: Lá gồm có các bộ phận: phiến lá, cuống lá và bẹ

- Phiến lá

Phiến lá là bản mỏng, màu lục gồm nhiều tế bào thịt lá chứa lục lạp. Lá có
2 mặt: mặt trên và mặt dưới. Trên phiến lá có gân lá nổi lên tương ứng với các
bó dẫn ở bên trong, làm nhiệm vụ mang nhựa nguyên đến lá và chuyển nhựa
luyện đến các bộ phận khác của cây.
Các kiểu gân lá: gân song song (gân hình cung) đặc trưng cho các cây Một
lá mầm; gân hình mạng đặc trưng cho các cây Hai lá mầm. Gân hình mạng có 2
loại: hình mạng lông chim (lá mít) và hình mạng chân vịt (lá sắn-khoai mì).
- Cuống lá: cuống lá là phần nối lá vào thân hoặc cành, có hình trụ, hơi
lõm ở phía trên. Một số cây lá không có cuống nên gốc lá đính trực tiếp vào
thân (lá dứa).








Hình 3.13. Các bộ phận của lá và các kiểu gân lá
1. Gân hình mạng chân vịt; 2. Gân hình mạng lông chim;
3. Gân song song

- Bẹ lá: là phần gốc của cuống lá loe rộng ra thành bẹ ôm lấy mấu thân
hoặc cành. Một số cây có bẹ lá lớn (cau, lúa, mía…), nhiều cây không có bẹ lá.
Ngoài ra lá còn có các phần phụ: lá kèm, lưỡi nhỏ, bẹ chìa.

- Lá kèm: là những bộ phận nhỏ hình vảy, hình tam giác hoặc hình sợi…Ở
đậu Hà lan có lá kèm lớn ôm lấy cành, ở hoa hồng lá kèm dính vào cuống, hoặc
biến thành gai ở xương rắn, xương rồng ông. Lá kèm ở một số loài làm nhiệm
vụ che chở chồi non (búp đa), chúng sẽ rụng ngay sau khi chồi lộ ra ngoài.

- Lưỡi nhỏ (thìa lìa): là bộ phận nhỏ, mỏng, có khi không màu, mọc ở chỗ
phiến lá nối với bẹ lá, là đặc trưng cho các cây họ Lúa, họ Gừng, có tác dụng
làm cho lá ngả ra tiếp nhận nhiều ánh sáng, cản trở bớt nước mưa, sương, sâu
bo…vào làm hại thân non.
- Bẹ chìa: là một màng mỏng ôm lấy thân, ở phía trên cuống lá, là đặc
điểm đặc trưng cho các cây trong họ Rau răm (Polygonaceae) như rau răm, rau
nghể, hà thủ ô đỏ…
Kích thước của lá sẽ thay đổi tùy theo từng loài cây, lá có thể đạt đến kích
thước dài 20m, rộng 12m (lá của cây thuộc chi Raphia trong họ Cau), lá nong
tằm (Victoria) trong họ Súng có đường kính trên 1m, nhưng cũng có những lá
hết sức nhỏ như lá cành giao, phi lao, lá trắc bách diệp

b) Các dạng lá: có 2 dạng lá đơn và lá kép
- Lá đơn
+ Lá đơn nguyên: phiến lá nguyên, mép lá không bị chia cắt.
Mép lá có thể phẳng (lá xoài, lá mít),
mép lượn sóng (lá thuốc bỏng) hoặc có răng nhọn (lá chè).







Hình 3.14. Một số dạng lá đơn nguyên




+ Lá đơn có thùy: lá đơn có thùy lông chim (lá trạng nguyên, lá cà) và
lá đơn có thùy hình chân vịt (lá mướp).
+ Lá đơn chia thùy (lá đơn phân thùy): lá đơn chia thùy lông chim (lá cà
dại) và lá đơn chia thùy chân vịt (lá thầu dầu)
+ Lá đơn xẻ thùy: lá đơn xẻ thùy lông chim (ngải cứu) và lá đơn xẻ thùy
chân vịt (lá sắn, lá đu đủ).






Hình 3.15. Lá đơn xẻ thùy

- Lá kép
+ Lá kép lông chim: lá kép lông chim lẻ (lá hoa hồng), lá kép lông chim
chẵn (lá cây lạc), lá kép lông chim một lần (lá me), lá kép lông chim hai lần (lá
phượng), lá kép lông chim ba lần (lá cây núc nác).
+ Lá kép chân vịt (cây gạo, cây bông gòn, cây chân chim)





Hình 3.16. Lá kép lông chim Hình 3.17. Lá kép chân vịt



c) Biến dạng của lá
Để thích nghi với môi trường sống khác nhau, hoặc với một số chức năng
đặc biệt, lá có thể biến đổi hình dạng thành các bộ phận như:
- Vảy (dong ta, dong riềng, hành, tỏi, phi lao…)
- Gai (hoàng liên gai, xương rồng)
- Tua cuốn (đậu Hà lan, phần ngọn của lá kép biến thành tua cuốn)
- Lá bắt mồi (cây nắp ấm, cây bèo đất, cây rong li)





Hình 3.18. Lá dạng vảy ở
phi lao
Hình 3.19. Lá biến thành gai





Hình 3.20. Ngọn lá biến thành tua
cuốn ở đậu Hà lan
Hình 3.21. Lá bắt mồi


d) Cách mọc của lá
- Mọc cách hay mọc so le: mấu chỉ mang 1 lá (ngô, lay ơn, gừng, củ ấu…)
- Mọc đối: mỗi mấu mang 2 lá mọc đối diện nhau (các họ cây Cà phê,
Trúc đào, Thiên lí )
- Mọc vòng: mỗi mấu mang từ 3 lá trở lên (lá cây sữa, lá trúc đào, dây

huỳnh)


4.1. Các hình thức sinh sản ở thực vật
4.1.1. Sinh sản sinh dưỡng
Là sự tạo thành cơ thể mới trực tiếp từ cơ quan sinh dưỡng của cơ thể mẹ.
Kiểu sinh sản này gặp ở cả thực vật bậc thấp và thực vật bậc cao. Có 2 lối sinh
sản sinh dưỡng: sinh sản sinh dưỡng tự nhiên và sinh sản sinh dưỡng nhân tạo.
a) Sinh sản sinh dưỡng tự nhiên
Phổ biến ở tảo, ở tảo đơn bào sinh sản bằng cách phân chia tế bào
(Chlamydomonas, Pinnularia), đối với tảo đa bào thì sinh sản bằng cách cắt đôi
sợi tảo hoặc một đoạn cơ thể gọi là sinh sản sinh dưỡng bằng cách khúc sợi hay
khúc tản (tảo xoắn Spirogyra).

Ở nấm men (Saccharomyces) sinh sản sinh dưỡng theo lối nảy chồi. Ở
thực vật có hoa đôi khi hình thức này lại đóng vai trò quan trọng. Ví dụ: ở cây
beo tấm, bèo cái sinh sản sinh dưỡng là chủ yếu: từ cây mẹ mọc ra cây con, sau
đó tách rời khỏi cây mẹ.

+ Từ rễ: rễ một số cây có khả năng mọc ra chồi đâm lên khỏi mặt đất, chồi
sẽ ra rễ và phát triển
thành cây mớicủ khoai lang, rễ cây ngấy
+ Từ thân hay biến dạng của thân: từ một khúc thân của xương rồng bà
(Opuntina monachanta) hay cây quỳnh (Epiphyllum oxypetalum) có thể nảy
chồi, sinh ra rễ phụ và mọc thành cây mới. Củ gấu, cỏ tranh và nhiều loài cỏ
khác thì sinh sản bằng thân rễ rất phát triển và thường có hại bởi chúng sinh sản
nhanh và khó diệt trừ, chúng cạnh tranh thức ăn với cây trồng.
+ Từ lá: lá thuốc bỏng, lá cây thu hải đường…khi rụng xuống đất ẩm
hoặc gặp điều kiện ẩm từ mép
lá sẽ mọc ra những chồi con, từ đó phát triển thành cây mới.

Trong sinh sản sinh dưỡng, những đặc tính của cây mẹ đều được truyền lại
cho các thế hệ con cháu.









Hình 4.1.Sinh sản sinh dưỡng
A. Sinh sản từ lá (trường sinh); B. Sinh sản từ thân (quỳnh);
C. Sinh sản từ thân rễ (củ gấu)


b) Sinh sản sinh dưỡng nhân tạo
Là hình thức sinh sản do con người thực hiện trên các bộ phận cơ quan
sinh dưỡng, dựa vào khả năng tái sinh của cây. Có nhiều cách:
+ Giâm cành: là tách 1 cành ra khỏi cây mẹ rồi cắm xuống đất cho rễ phát
triển và mọc thành cây mới. Phương pháp này thường được áp dụng đối với
một số cây: mía, khoai lang, dâm bụt Đối với các cây Hai lá mầm, chồi của
cành giâm thường mọc ra ở phía ngọn còn rễ thì mọc ở phía gốc, do đó khi
giâm chúng ta chú ý không nên đặt ngược phần ngọn xuống đất.
+ Chiết cành: là tạo điều kiện cho cây con ra rễ trên cây mẹ rồi mới tách
ra. Có 2 cách chiết: uốn cong 1 cành xuống đất rồi lắp đất lên, sau một thời
gian chỗ bị vùi xuống đất sẽ có rế mọc ra; bóc 1 khoanh vỏ xung quanh cành
rồi bó đất lại, tưới nước thường xuyên để cho rễ mọc ra, sau đó người ta mới
tách cành chiết ra khỏi cây mẹ rồi đem trồng (áp dụng đối với cam, chanh,
bưởi ).

+ Ghép cành: ghép áp, ghép nêm, ghép vát cành, ghép dưới vỏ, ghép mắt.
Mỗi phương pháp đều có yêu cầu về kỹ thuật riêng.
Ghép áp: chọn 2 cành của 2 cây khác nhau mọc cạnh nhau, trên cả 2
cành vạt 2 dải vỏ bằng nhau, phía đối diện vết vạt của cành ghép phải có chồi.
Áp sát 2 vết vạt của 2 cành lại với nhau, buộc chặt lại, chừa phần chồi.
Ghép nêm: xẻ dọc gốc ghép một đoạn và vát cành ghép với hình dạng
thích hợp để nêm vào gốc ghép rồi cột chặt lại. Gốc ghép phải to hơn cành
ghép.
Ghép vát cành: gần giống kiểu ghép áp nhưng cành ghép được cắt rời
và cành ghép có độ lớn bằng gốc ghép.
Ghép dưới vỏ: thường được áp dụng đối với cây thân gỗ. Cắt ngang
gốc ghép, sau đó xẻ dọc vỏ theo hướng từ trên xuống và dùng tay tách mép vỏ
ra. Chọn cành ghép có 3-4 mắt, vát nhọn phần dưới. Đặt cành ghép vào dưới vỏ
của gốc ghép cho phần lồi quay ra ngoài rồi cột chặt lại.
Ghép mắt: chúng ta không dùng cành ghép mà chỉ lấy 1 chồi (mắt)
với 1 phần gỗ ghép vào dưới vỏ của gốc ghép. Rạch 1 miếng vỏ hình chữ T trên
gốc ghép, tách vỏ chỗ cắt đó ra khỏi phần gỗ rồi đặt mắt ghép vào cột chặt lại.








Hình 4.2. Các kiểu ghép cành
1. Ghép áp; 2. Ghép vát cành; 3. Ghép nêm;
4. Ghép dưới vỏ; 5. Ghép mắt


×