Tải bản đầy đủ (.doc) (32 trang)

Khám phá tiềm năng du lịch Hưng Yên - Địa danh Hưng Yên - Du lịch Hưng Yên ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (484.04 KB, 32 trang )

KHÁM PHÁ TIỀM NĂNG DU LỊCH HƯNG YÊN - ĐỊA DANH HƯNG YÊN - DU
LỊCH HƯNG YÊN (19/12/2010)
Số bình chọn: 1 | Lượt đọc: 34
Tác giả: hvt912009_victory | Điểm cống hiến: 0.58
Hưng Yên có di tích Phố Hiến, một thương cảng sầm uất từ thế kỷ 17 “Nhất Kinh Kỳ,
Nhì Phố Hiến”. Nhiều di tích lịch sử văn hoá độc đáo như chùa Kim Chung, đình Nam
Hiến… đặc biệt có nhãn lồng là loại trái cây đặc sản nổi tiếng, từng là loại quả quý hiếm
để tiến vua.
Hưng Yên là tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng Bắc Bộ, phía bắc giáp Bắc Ninh, phía đông
giáp Hải Dương, phía đông nam giáp Thái Bình, phía tây và tây bắc giáp Hà Tây và Hà
Nội, phía nam và tây nam giáp Nam Hà được thành lập dưới thời vua Minh Mạng 1831.
Với diện tích 923,1 km² , dân số khoảng 1.068.705 người (1.04.1999) thủ phủ là thị xã
Hưng Yên, tỉnh được tách ra từ tỉnh Hải Hưng năm 1995. Hưng Yên có khí hậu nhiệt đới
gió mùa, chi làm hai mùa: mùa nóng và mùa lạnh. Nhiệt độ trung bình năm khoảng 23
độ. Địa hình của tỉnh tương đối bằng phẳng, với nhiều sông hồ vì vậy giao thông đường
bộ, đường sông, đường sắt đều rất thuận lợi.
Hưng Yên có di tích Phố Hiến, một thương cảng sầm uất từ thế kỷ 17 “Nhất Kinh Kỳ,
Nhì Phố Hiến”. Nhiều di tích lịch sử văn hoá độc đáo như chùa Kim Chung, đình Nam
Hiến… đặc biệt có nhãn lồng là loại trái cây đặc sản nổi tiếng, từng là loại quả quý hiếm
để tiến vua.
Hưng Yên cũng là một trong những địa bàn cư trú của người Việt Cổ. Các nhà khảo cổ
học đã phát hiện ra mộ thuyền ở Từ Lạc, rìu đồng, trống đồng của người Lạc Việt.
Hưng Yên là quê hương của nhiều danh nhân văn hoá, anh hùng dân tộc và đây cũng là
vùng đất phát sinh và bảo tồn vốn văn hoá dân gian đặc sắc của Việt Nam như hát xẩm,
hát ả đào, hát chèo…

KHU DI TÍCH HẢI THƯỢNG LÃN ÔNG HƯNG YÊN:
Khu di tích nằm tại thôn Liêu Xá, xã Liêu Xá, huyện Yên Mỹ, có quan hệ tới Hải Thượng
Lãn ông Lê Hữu Trác - Đại y tôn Việt Nam. Ông sinh năm 1720 mất năm 1791, quê tại
Liêu Xá. Ông là nhà y học vĩ đại, nhà thơ, nhà văn xuất sắc, một nhà tư tưởng tiến bộ
thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân đạo. Sau khi ông mất, nhân dân và giới y học cả nước


suy tôn là bậc Y Thánh của Việt Nam.
Qua hơn hai thế kỷ, tại Liêu Xá còn lưu giữ nhiều di tích quan hệ tới Đại danh y Hải
Thượng Lãn Ông:
Đền thờ tiến sĩ Lê Hữu Mưu: thân phụ Lê Hữu Trác. Tại đây còn sắc phong, câu đối, bia
ký thế kỷ 18.
Nhà thờ Đại tôn: Nhà thờ dòng họ Lê tại Liêu Xá.
Chùa Văn hay chùa Bà Sinh: Xây dựng từ thế kỷ thứ 17, trùng tu năm 1782, năm Hải
Thượng Lãn Ông từ quê ngoại về thăm quê nội. Tương truyền chùa do cụ Lê Hữu Kiều,
anh ruột Lê Hữu Trác hưng công xây dựng. Đây cũng là cơ sở của Xứ ủy Bắc Kỳ thời kỳ
1942 - 1945 và là nơi in báo của Đảng.
Khu lăng mộ họ Lê: xây dựng từ thế kỷ 18.
Nhà lưu niệm Hải Thượng Lãn Ông: xây dựng trên nền đất cũ của gia đình năm 1990.
Đình thôn Liêu Xá: xây dựng đầu thế kỷ 20.
Lễ hội truyền thống tưởng niệm Đại danh y hàng năm được tổ chức vào ngày 15/1 âm
lịch, ngày mất của Đại danh y. Từ năm 2000 ngày lễ tưởng niệm này được chọn làm ngày
truyền thống của những người làm công tác y dược học cổ truyền Việt Nam.

CHÙA HIẾN HƯNG YÊN:
“Cửa ngọc, tòa vàng, Phật đã đắp cao nền bảo hiện,
Thôn Hoa, chùa Hiến, sư càng mến cảnh luyện tâm kinh.”
Chùa Hiến có tên chữ Hán là “Thiên Ứng tự”, thuộc địa phận Phố Hiến Hạ, nay là đường
Phố Hiến, phường Hồng Châu, thị xã Hưng Yên. Tương truyền chùa được xây dựng từ
thời Trần, niên hiệu Thiên Ứng của vua Trần Thái Tông (1232-1250), do Tô Hiến Thành,
quan đại thần nhà Lý hưng công xây dựng. Đến năm 1625, 1709 chùa được trùng tu lại.
Chùa Hiến có bố cục kiến trúc kiểu “nội công ngoại quốc”, gồm tiền đường, thiên hương,
thượng điện và ba mặt là hành lang. Giữa thượng điện là tượng Quan Âm Nam Hải ở thế
ngồi, có tám đôi tay, bố trí đăng đối. Đầu tượng đội mũ chạm hoa cúc, sen, phù dung.
Phía trước là tượng tứ vị bồ tát ngồi trên tòa sen, khuôn mặt đầy đặn, trang nghiêm. Các
pho tượng này đều có niên đại thế kỷ 19. Việc thượng điện đặt ban thờ nổi bật tượng
Quan âm cùng tứ vị bồ tát thể hiện tâm lý sùng bái vị thần có nhiều phép cứu giúp chúng

sinh trên sông, biển. Đây là đặc điểm khác biệt trong bố cục thờ tự của chùa Hiến so với
các nơi khác, nơi nhiều thương nhân trong và ngoài nước đến sinh sống, buôn bán.
Phía trước sân chùa Hiến có hai tấm bia đá lưu giữ nhiều tư liệu lịch sử nói lên quá trình
tụ cư của thương cảng Phố Hiến. Tấm bia “Thiên ứng tự - Tân tự trùng tu thạch bi ký”
niên đại Vĩnh Tộ thứ 7 (1625) ghi việc hưng công tu sửa chùa, có thể xếp chùa vào hàng
thứ năm sau bộ “tứ đại khí” thời Lý. Bia ghi nhận “Phố Hiến Nam nổi tiếng là nơi đô hội
tiểu Tràng An của bốn phương” và trụ sở Ty Hiến sát Trấn Sơn Nam đóng ở đất Hoa
Dương. Tấm bia “Thiên ứng tự - bia ký công đức trùng hưng” dựng năm Vĩnh Thịnh thứ
5 (1709) ghi việc góp công tu sửa chùa, có 481 người có quê quán nhiều vùng khác nhau,
trong đó có 56 người Trung Quốc. Qua đó chúng ta có thể hình dung được khung cảnh
của đô thị Phố Hiến, nơi hội tụ của nhiều cư dân đến buôn bán.
Chùa Hiến còn nổi tiếng có cây nhãn Tổ, chính xác ra tên gọi là cây nhãn tiến, nằm phía
trước cửa chùa. Đây là cây nhãn đường phèn có dáng hình đẹp, mã lụa, quả to, cùi dày,
hương vị thơm ngon đặc sắc nhất. Mỗi mùa nhãn chín, nhãn thường được chọn hái để
dâng đức phật, cúng thần thành hoàng và để quan lại địa phương tiến vua. Thân cây chính
đã già cỗi, bọ ruỗng, đổ chỉ còn một nhánh, được đắp vun gốc, chăm sóc phát triển thành
cây “hậu duệ”, hiện diện như một biểu tượng của giống nhãn đặc sản Phố Hiến - Hưng
Yên.

CHÙA HƯƠNG LÃNG HUNG YÊN:
Chùa Hương Lãng có tên chữ là Thạch Quang Tự hay còn gọi là chùa Lạng thuộc thôn
Hương Lãng, xã Minh Hải, huyện Văn Lâm. Tương truyền chùa do Thái hậu Ỷ Lan xây
dựng từ thế kỷ XI. Chùa có quy mô lớn, gồm nhiều tòa, bố cục kiến trúc kiểu "nội công
ngoại quốc". Từ ngoài vào là Tam quan, có ba lối vào, rồi bậc tam cấp dẫn lên một nền
phẳng. Từ cấp này lên cấp thứ hai cũng có ba lối lên. Cấp thứ ba là khu chính, bao gồm
nhà tăng, nhà hội đồng, phật điện
Chùa Hương Lãng hiện còn lưu giữ nhiều di vật thời Lý, rất đặc sắc và độc đáo. Giá trị
nổi bật là tượng sư tử, còn gọi là ông Sấm. Tượng được tạo bằng phiến đá lớn, dài 2m80,
rộng 1m50, cao 0m90 dùng làm bệ cho một pho tượng nào đó nay không còn nữa. Hai
đầu của phiến đá chạm khắc thành hình đầu và phía sau của con sư tử. Mặt sư tử tạo tác

dũng mãnh, mũi to căng tròn, cặp mắt lồi như hai quả trứng, vầng trán cao. Mông sư tử
căng tròn, trang trí dày đặc hoa văn xoắn ốc và hoa cúc dây. Chùa có mười đôi tay vịn
bằng đá, chạm phượng và chồn, hoa cúc dây; bốn cột đá vuông bốn góc đỡ các xà bằng
đá của công trình trước đây, mười con chồn đá đặt ở các bậc thềm. Cạnh đó có nhiều hoạ
tiết trang trí như phượng vũ cánh, hoa cúc dây mang nghệ thuật đời Lý cùng một tấm bia
đá ghi lại việc trùng tu chùa vào thế kỷ 16.
Tượng sư tử, các bức tay vịn bằng đá tại chùa là những tác phẩm điêu khắc đá vô giá của
thời Lý hiện còn lại ở Việt Nam.

CHÙA NỄ CHÂU HƯNG YÊN:
Chùa Nễ Châu còn có tên gọi là Thụy Ứng Tự, nằm ở thôn Nễ Châu, xã Hồng Nam,
huyện Tiên Lữ. Phía trước cửa chùa là đường phố Hiến, trước kia vốn là khu vực chợ Nễ
Châu, địa danh cuối của phố Hiến hạ - Trung tâm thương cảng phố Hiến thời phồn thịnh.
Chùa được xây dựng từ cuối thế kỷ thứ 10, gắn với truyền thuyết về bà Nguyễn Thị Ngọc
Thanh, vợ vua Lê Hoàn. Khi Lê Hoàn về đóng quân trấn ải ở đây chống quân xâm lược
nhà Tống, đã lấy bà làm vợ. Bà giúp nghĩa quân cất giấu lương thảo, chăm lo hậu cần.
Giặc tan, bà xin ở lại phụng dưỡng cha mẹ và đi tu tại chùa làng. Lê Hoàn cử Giới Quốc
Công về xây dựng chùa. Khi bà mất, nhà vua cho lập đền thờ ngay phía trước cổng chùa.
Trải qua 10 thế kỷ, chùa đã được tu sửa nhiều lần. Khoảng thế kỷ 17, chùa được tu sửa
lớn, năm 1926 có tu sửa lại, nhưng mẫu dạng kiến trúc của thế kỷ 17 vẫn còn giữ được
tới nay.
Nổi bật về giá trị nghệ thuật điêu khắc chùa Nễ Châu là bộ tượng Tam Thế và tượng
Tuyết Sơn có niên đại thế kỷ 18. Tượng được tạo tác cân đối, đường nét sống động thể
hiện trình độ nghệ thuật tạo hình khá cao.

CHÙA THÁI LẠC HƯNG YÊN:
Chùa tọa lạc tại thôn Thái Lạc, xã Lạc Hồng, huyện Văn Lâm. Chùa thờ Phật và thần
Pháp Vân nên có tên gọi là Pháp Vân tự. Chùa được xây dựng từ thời Trần (1225-1400).
Kiến trúc kiểu "nội công ngoại quốc", gồm tiền đường năm gian, ba gian thượng điện, hai
dãy hành lang mỗi bên chín gian, nhà tổ bảy gian. Chùa Thái Lạc còn giữ được bộ vì gỗ ở

gian giữa tòa thượng điện, kiến trúc thời Trần, còn khá nguyên vẹn. Bộ vì kiến trúc kiểu
giá chiêng, dựa trên kết cấu bốn hàng chân cột. Trên bộ vì được kết hợp hài hòa giữa kiến
trúc và trang trí. Trên các cốn, các đố của bộ vì và trên các cột, đấu có nhiều mảng chạm
khắc lớn. Hiện tại chùa còn lưu giữ được 16 bức. Mỗi bức chạm thể hiện nội dung khác
nhau như tiên cưỡi phượng dâng hương, tiên đánh đàn, thổi sáo, tiên ngủ trong mây, tiên
nữ dâng hoa, đường nét rất tinh xảo. Các hoạ tiết này phản ánh khá rõ nét xã hội Việt thời
Trần với hào khí Đông Á. Độc đáo hơn còn có cảnh chạm dàn nhạc ba người đang sử
dụng những nhạc cụ dân tộc. Chùa Thái Lạc còn giữ được tượng Pháp Vân, ba bệ thờ và
ba tấm bia đá ghi quá trình trùng tu tôn tạo chùa. Tất cả đều có niên đại thế kỷ 16-17.
Năm 1964, chùa Thái Lạc được Bộ Văn hóa - Thông tin xếp hạng di tích kiến trúc nghệ
thuật đặc biệt quan trọng.

CỔ KÍNH LÀNG NÔM HƯNG YÊN:
Làng còn có tên là Đại Đồng thuộc xã Đại Đồng, huyện Văn Lâm, tỉnh Hưng Yên, là một
trong số những làng hiếm hoi còn lưu giữ nhiều giá trị đậm nét về di tích lịch sử văn hóa,
cảnh quan kiến trúc, cảnh quan thiên nhiên, phong tục tập quán ) của nông thôn vùng
ven châu thổ sông Hồng, sông Đình Dù chảy qua cầu đá cổ, một bên là làng Nôm, một
bên là ngôi chùa Nôm cổ bảo tồn gần như nguyên vẹn hơn 100 pho tượng cổ.
Bao bọc quanh làng Nôm vẫn còn nguyên những rặng tre xanh kĩu kịt gió đưa. Những
con đường gạch đỏ son và những bờ rào duối hiếm hoi còn lại xen lẫn với dẫy bờ tường
xây dẫn du khách vào các ngõ ngách của làng.
Cùng với những ngôi nhà cổ, khu di tích đình chùa của làng Nôm càng tôn thêm vẻ đẹp
cổ kính của làng quê. Chùa Nôm, tên tự là "Linh thông cổ tự" Chùa trước đây là ngôi
đại tự hoành tráng thuộc miền Kinh Bắc, nay là Hưng Yên. Theo truyền thuyết thì xưa
kia Chùa Nôm được xây giữa rừng thông cổ thụ nằm trong quần thể di tích lịch sử gắn
liền với quá trình thành lập làng Nôm. Đó là đình Tam Giang thờ vị tướng thời Hai Bà
Trưng. Đó là cây cầu đá gồm 9 nhịp đầu rồng đã mấy trăm năm nay soi bóng xuống dòng
sông Nguyệt Đức, nâng bước chân thiện nam tín nữ đến với chùa. Đó là làng nghề đúc
đồng truyền thống nên trước cổng chùa từ xưa đã trở thành nơi họp chợ mua bán các
nguyên liệu phục vụ làng nghề.

Cây cầu đá chín nhịp dẫn lối vào làng
Chùa Nôm được xây dựng từ bao giờ không ai còn nhớ.Theo 2 tấm bia lớn còn lưu lại tại
đây thì chùa đã được xây dựng lại vào thời Hậu Lê, năm 1680 và được trùng tu nhiều lần
sau đó, lần trùng tu mới nhất là vào năm 1998.
Nét đẹp của làng Nôm còn thể hiện ở đời sống văn hóa của người trong làng. Ngoài ngày
hội làng, những ngày đi lễ chùa, người dân làng, nhất là các cụ già cũng thường hôm sớm
đến đình chùa làm công quả để tô điểm cho cảnh quan đình chùa, cảnh làng ngày càng
đẹp hơn trong mắt du khách thập phương khi dừng chân ghé đến.

ĐẬU TRÀ BỒ HƯNG YÊN:
Trà Bồ, một trong bảy di tích có tên gọi là Đậu, một đặc trưng của văn hóa di tích Hưng
Yên. Đậu Trà Bồ có tên nôm là Đậu Chè Nhang, tên tự là Sùng Hưng Điện, thuộc tổng
Ba Đông, huyện Phù Hoa, phủ Khoái Châu xưa, nay là thôn Trà Bồ, xã Phan Sào Nam,
huyện Phù Cừ.
Theo "Ngọc phả Đậu Trà Bồ" do Hàn lâm Đông các Đại học sĩ Nguyễn Bính phụng soạn
năm Hồng Phúc nguyên niên (1572), sau đó được Quản giáp Bách thần Tri điện Hưng
thiếu khanh Nguyễn Hiền sao lại năm Vĩnh Hựu tam niên (1737) thì Đậu Trà Bồ thờ ba
vị thần Quý Minh Hiển Đức Đại Vương, Tĩnh Minh Bảo Hựu Đại vương và Đức Đông
Hải Đoàn Thượng Đại vương.
Ngọc phả có thể tóm tắt như sau: Vào thời Hùng Duệ vương, có người họ Cao là Nguyễn
Công, quê huyện Thanh Xuân phủ Gia Hưng, đạo Hưng Hóa (tỉnh Hà Tây ngày nay).
Ông có tài kiêm văn võ, dũng lược hơn người, được vua Hùng tin dùng và khen là người
có tài, đức. Qua hai đời vợ không có con, Huyền Công rất buồn, sau ông chọn được thế
đất "phượng hàm thư" trên núi Tựu Lĩnh để đặt mộ phần cha mẹ. Từ đó, vợ ông có mang
sinh được ba người con: con cả là Sùng Công, hiệu Cao Sơn; con thứ hai là Hiển Công,
hiệu Quý Minh và con thứ ba là Tĩnh, hiệu Minh Công. Khi trưởng thành, các con ông
đều thông tuệ, khỏe mạnh, được vua Hùng gia phong làm tướng, cai quản vùng Sơn Nam
thượng và Sơn Nam hạ.
Trong một buổi du ngoạn, Quý Minh và Tĩnh Minh đã dừng chân tại địa phận Trà Bồ,
huyện Phù Hoa (sau này đôi thành Phù Cừ). Thấy hình thế đất đẹp liền chọn hướng cho

làm hành cung và hai ông ở lại để giáo huấn nhân dân, chăm lo việc nông tang cày cấy,
khuyến thiện, trừ ác. Trong lúc vua Hùng Duệ Vương muốn nhường ngôi cho Tản Viên
Sơn Thánh (Sơn Tinh), nhưng Sơn Thánh từ chối. Quân Thục từ Ai Lao tiến vào xâm
lược, Quý Minh và Tĩnh Minh về Trà Bồ và các địa phương xung quanh chiêu mộ quân
sĩ, rồi hợp cùng các tướng đánh quân Thục. Trải qua 36 trận giao tranh lớn nhỏ, quân
Thục bị thua.
Ba năm sau, quân Thục phục thù và Quý Minh, Tĩnh Minh lại lập được công lớn. Đất
nước thanh bình, Hùng Duệ Vương vẫn có nhã ý nhường ngôi cho Tản Viên Sơn Thánh,
ông vẫn từ chối và tâu rằng: "Vua cho hạ thần gọi chúa Thục đến người ngôi để giữ bề
yên ổn lâu dài " Chúa Thục lên ngôi, hiệu là Thục An Dương Vương, chuyển kinh đô từ
Phong Châu về Cổ Loa, đổi tên nước là Âu Lạc. Được tin Quý Minh và Tĩnh Minh đã
than rằng: "Quốc gia đã thuộc về người khác!" bèn cùng một số cận thần xa giá đi du
ngoạn. Một hôm Lưỡng Công đến sách Tự Pháp (miền ngược gọi là sách tương đương
ấp, làng ở miền xuôi), huyện Bất Bạt, phủ Gia Lương, đạo Hưng Hóa ngắm cảnh và trèo
lên ngọn núi Thu Tinh rồi tự hóa thân. Hôm đó là ngày 12 tháng Ba năm Bính Thân.
Nghe tin, dân làng Trà Bồ đã giết tam sinh (trâu, bò, lợn) hành lễ, cúng tế và lập miếu thờ
tại Hành cung của Lưỡng Công. Trải qua các triều đại, hai vị đều được phong mỹ tự
"Thượng đẳng phúc thần".
Cũng theo ngọc phả thì vào cuối thế kỷ XI, đầu thế kỷ XII, có người tên Đoàn Thượng,
con của Đoàn Trung và bà Hoàng Thị Mỹ ở chợ Hồng Thị, phủ Thượng Hồng, đạo Hải
Dương (thuộc huyện Gia Lộc, tỉnh Hải Dương ngày nay) thông minh xuất chúng, yêu
thích cung nỏ, ham đọc binh thư thực là một người tài giỏi. Đời Lý Huệ Tông (1211-
1224) đã phong Đoàn Thượng làm Tổng đốc đạo Sơn Nam kiêm vùng Hưng Tuyên. Khi
nhà Trần thay thế nhà Lý đã suy vi, ông rất tức giận, vung kiếm phi ngựa về Hồng Châu
chiêu tập binh mã, xây thành luỹ tại xã An Nhân và tự xưng là "Đông Hải Đại Vương".
Một hôm, Thượng Công đi qua xã Trà Bồ, nghe tin đồn miếu Lưỡng công nổi tiếng linh
ứng nên lập Tả đồn, Hữu đồn ở đây làm căn cứ chống lại nhà Trần và đã thu được nhiều
thắng lợi. Do mưu kế "giả cách hoà hoãn", Đoàn Thượng đã bị Nguyễn Nộn (cũng là một
công thần nhà Lý chống Trần, song bị nhà Trần mua chuộc) phản bội vào ngày 04 tháng
12 năm ất Mùi (1235). Thượng Công bất lực mà than rằng "Xuất quân chưa thắng mình

đã chết, mãi mãi khiến cho nước mắt anh hùng thấm ướt vạt áo". Nói xong, ông vung cao
tay kiếm tự hoá.
Ngay hôm đó, dân làng Trà Bồ, Đoàn Đào làm lễ tế phụng và viết thần hiệu "Đông Hải
Đoàn Thượng đại vương" cùng thờ với Lưỡng Công tại miếu Trà Bồ. Vì thế Trà Bồ là
một trong 71 nơi thờ đức Đông Hải Đại Vương.
Theo thường lệ, lễ hội Đậu Trà Bồ xưa được tổ chức từ ngày 12 đến ngày 18 tháng 3 âm
lịch. Trong ngày khai hội, ngoài lễ "khai quang tẩy uế" có lễ rước kiệu tam vi đại vương
từ miếu Phú (nơi thờ vọng) và rước Mẫu Liễu Hạnh từ chùa về Đậu chính. Từ ngày 13
đến 17 lần lượt bốn giáp (nhất, nhì, tam, hanh) và khách thập phương vào tế lễ làm cỗ
chay. Ngày 18 tháng 3 tiến hành rước kiệu thánh từ Đậu chính về miếu Phú an vị.

ĐỀN ĐA HÒA HƯNG YÊN:
Đền Đa Hòa nằm ngay bên sông Hồng, thuộc địa phận thôn Đa Hòa, xã Bình Minh,
huyện Khoái Châu, thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung - Hồng Vân công chúa. Đền nhìn ra
sông Hồng và bãi Tự Nhiên, tương truyền là nơi tác thành mối tình Chử Đồng Tử - Tiên
Dung.
Đền Đa Hòa được xây dựng từ lâu, công trình hiện nay được hưng công cuối thế kỷ 19,
từ 1884 đến 1886 do Chu Mạnh Trinh, người làng Phú Thị, tổng Mễ Sở, quan Án sát tỉnh
Hưng Yên đảm trách. Công trình nổi tiếng với quy mô đồ sộ, ý tưởng kiến trúc độc đáo,
hài hòa với cảnh quan thiên nhiên.
Khu đền bao gồm 18 công trình lớn nhỏ: nhà bia, gác chuông, gác khánh, ngọ môn, nhà
tiền tế, tòa thiêu hương, đệ nhị cung, đệ tam cung, hậu cung và các nhà thảo xá, thảo bạt,
nhà ngựa, nhà pháo. Các mái đền tạo dáng hình thuyền rồng cách điệu. Nếu từ trên cao
nhìn xuống sẽ thấy các nóc đền, tổ hợp lại trông giống như một đoàn thuyền đang dập dìu
trên sông nước. Chu Mạnh Trinh có ý tạo hình khu đền giống như đoàn du thuyền của
nàng Tiên Dung mười tám tuổi con gái vua Hùng thứ 18 đang du ngoạn trên sông.
Đền Đa Hòa còn giữ được nhiều di vật quý giá. Tượng đức thánh Chử Đồng Tử và hai vị
phu nhân đúc bằng đồng, tầm vóc cỡ như người thật. Ba cỗ ngai thờ Chử Đồng Tử và hai
vị phu nhân, làm bằng gỗ, bố cục cân đối, đầu ngai chạm rồng trong tư thế quay đầu vào.
Ngai có niên đại cuối thế kỷ 16 đầu thế kỷ 17, được coi là cổ nhất của loại hình này hiện

còn tìm thấy ở nước ta.
Hội đền Đa Hòa tổ chức từ ngày 10-12/2 âm lịch. Ngày chính hội được mở đầu bằng đám
rước thần thành hoàng 8 làng thuộc tổng Mễ xưa về đền chính (gồm làng Mễ Sở, Đa Hòa,
Bằng Nha, Phú Thị, Phú Trạch, Thiết Trụ, Nhạn Tháp). Mỗi đám rước đều có cờ, chiêng
trống, bát bửu, lộ bộ, phường bát âm, kiệu bát cống, múa sinh tiền, rồng, sư tử. Đám rước
của 8 làng gặp nhau chiêng trống vang rền, rồng vàng uốn lượn từ đầu đến cuối đám
rước.
Ngày hôm sau là cuộc rước nước. Đám rước gồm kiệu nước, kiệu thành hoàng của 8 làng
tổng Mễ xưa lên thuyền ra giữa dòng sông Hồng làm lễ lấy nước về đền tế lễ. Cả khúc
sông tưng bừng tiếng trống chiêng rộn rã, nhạc bát âm rộn ràng.
Múa rồng, có từ 6-8 con rồng. Động tác múa của rồng theo sự điều khiển của người cầm
quả cầu và tiếng trống khẩu. Rồng múa vòng quanh, uốn lượn nhịp nhàng. Khi trống
đánh chậm thì múa chậm, khi trống đánh nhanh thì múa nhanh, sôi nổi. Rồng múa đơn,
múa từng đôi hoặc tất cả rồng các làng đều múa, trình diễn những động tác điêu nghệ của
rồng làng mình.
Tham gia vật lão là các cụ già 70-80 tuổi, trong trang phục ngày hội, đầu chít khăn điều,
mặc áo xanh, áo vàng, thắt lưng đỏ, vàng biểu diễn các động tác vật tượng trưng. Cuộc
biểu diễn này gợi mọi người tưởng nhớ tới công ơn của Chử Đồng Tử - Tiên Dung đã
cứu nhiều người khỏi bệnh tật và để chứng tỏ mình hoàn toàn khoẻ mạnh, họ kéo nhau ra
sân vật nhau, làm trò cho ông bà xem.
Cờ người, được tổ chức tại sân đền. Có 32 quân chia làm 2 phe, một phe nam, một phe
nữ. Người đóng vai tướng sĩ, quân cờ đều là trai chưa vợ, gái chưa chồng. Đẹp nhất là vai
tướng ông, tướng bà. Kỳ thủ các nơi về đọ tài cao thấp.

ĐỀN HÓA DẠ TRẠCH HƯNG YÊN:
Đền Hóa Dạ Trạch còn có tên gọi là đền Dạ Trạch, thuộc thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch,
huyện Khoái Châu, thờ Chử Đồng Tử - Tiên Dung - Hồng Vân Công chúa. Tương
truyền, đền Hóa Dạ Trạch được xây dựng trên nền cao của lâu đài thành quách xưa, ngay
sau khi Chử Đồng Tử - Tiên Dung hóa về trời.
Vào cuối thế kỷ 19, đền được trùng tu tôn tạo, do công sức đóng góp của nhân dân tổng

Vĩnh và người chỉ huy xây dựng là tiến sĩ Chu Mạnh Trinh.
Đền Hóa Dạ Trạch lưu giữ nhiều cổ vật như sắc phong, hoành phi câu đối, đại tự. Đặc
biệt là chiếc nón và cây gậy - phép biến hóa của Chử Đồng Tử dùng để cứu nhân độ thế.
Tượng cá chép, gọi là ông “Bế”, “Bế ngư thần quan”, tạo hình cá chép đang hóa rồng.
Chuông “Dạ Trạch Từ chung” (Chuông đền Dạ Trạch), đúc năm Thành Thái thứ 14
(1902) ghi lại quá trình trùng tu di tích.
Tương truyền, khi quân Minh xâm lược nước ta, nhà Hồ thất thế, Nguyễn Trãi đến đền
Hóa Dạ Trạch cầu đảo được thần báo mộng vào Lam Sơn, phò Lê Lợi chống giặc Minh
xâm lược.
Trong quần thể di tích còn có đầm Dạ Trạch. Đây là dấu tích của khu đầm Dạ Trạch rộng
lớn trước đây, nơi Dạ Trạch Vương Triệu Quang Phục đóng quân doanh chống quân
Lương xâm lược (thế kỷ 6) thắng lợi.
Hàng năm, đền Hóa Dạ Trạch có bốn tiết chính: ngày 4/1 (âm lịch), ngày sinh của Tiên
Dung công chúa; 10/2 ngày sinh của Hồng Vân công chúa; 12/8 ngày sinh Chử Đồng Tử;
17/11 ngày kỵ thánh. Lễ hội chính diễn ra từ ngày mùng 10 đến 12 tháng 2 (âm lịch), kỷ
niệm ngày sinh Hồng Vân công chúa.
Mở đầu là nghi thức rước nước từ sông Hồng về lễ thánh. Đám rước uy nghi, rồng vàng
dẫn đầu, hội rước cờ, trống, phường bát âm, múa sinh tiền, bát bửu, kiệu long đình, kiệu
chóe nước, kiệu đặt nón, gậy, kiệu “Bế ngư thần quan”, ba kiệu rước Chử Đồng Tử, Tiên
Dung, Hồng Vân công chúa. Đám rước tới sông Hồng cũng là lúc thuyền rồng bên bãi Tự
Nhiên (xã Tự Nhiên - Thường Tín - Hà Tây) ra chào đón, cùng tham gia hội. Trên sông
cờ xí rợp trời, rồng vàng uốn lượn, tiếng hát, tiếng đàn, tiếng trống rộn ràng thúc. Một bô
lão cao tuổi trong làng thận trọng múc từng gáo nước đổ vào chóe.
Theo định kỳ cứ ba năm Dạ Trạch rước giao hiếu với Từ Hồ vào ngày 11. Đoàn rước ở
lại tế lễ một đêm, sau đó rước về. Nếu khóa hội này Từ Hồ rước kiệu xuống tham gia tế
lễ thì khóa sau Dạ Trạch rước kiệu lên. Đám rước tế tại khu vực đền Yến (khu vực đình,
chùa Từ Hồ, tương truyền là nơi ông bà ăn yến tiệc trước khi về hóa tại Dạ Trạch). Năm
hội nào Từ Hồ rước giao hiếu xuống Dạ Trạch, thì Dạ Trạch tổ chức rước du vào buổi
sáng ngày 11. Đám rước qua thôn Đức Nhuận, Đông Kim, qua vườn ngô, bãi mía, thăm
đầm Dạ Trạch để tưởng nhớ tới làng quê trù phú, lâu đài thành quách khi xưa.

Trong ngày hội tổ chức hát trống quân, quan họ, ca trù và nhiều trò chơi dân gian như
đập niêu đất, đi cầu kiều, bắt vịt trong ao, bịt mắt bắt dê…

ĐỀN MẪU HƯNG YÊN:
Đền Mẫu nằm trên địa bàn phường Quang Trung, thị xã Hưng Yên. Đây là một trong
những danh lam thắng cảnh đẹp nhất của Phố Hiến. Bên phải đền là hồ Bán Nguyệt, phía
trước là sông Hồng, Bến Đá - nơi thuyền cập bến buôn bán tại Phố Hiến xưa.
Đền Mẫu thờ bà Quý Phi họ Dương nhà Tống (Trung Quốc), được người đời tán xưng là
Dương Thiên Hậu, Mẫu Nghi Thiên Hạ. Theo truyền thuyết, vào thế kỷ XIII khi quân
Nguyên xâm lược nhà Tống, vua và hoàng tộc xuống thuyền chạy về phương Nam. Vì
không chịu khuất phục trước sự truy bức của quân Nguyên, vua Tống và một số người
trong hoàng cung nhảy xuống biển tự tận. Thi thể của Dương Quý Phi trôi dạt về vùng
cửa sông Phố Hiến, được nhân dân chôn cất chu đáo. Người nội thị của triều đình Bắc
quốc là quan thái giám họ Du trong cơn loạn lạc tới Phố Hiến, được nhân dân địa phương
giúp đỡ đã tập hợp những người Hoa lánh nạn hưng công xây dựng đền thờ, lập làng Hoa
Dương. Khi thái giám mất, dân làng tôn làm thành hoàng làng, ngôi mộ được giữ gìn
trong khuôn viên của đình Hiến.
Qua nhiều lần trùng tu, quy mô đền như hiện nay là lần tu sửa năm Thành Thái thứ 8
(1897), kiến trúc hoàn chỉnh gồm: tam quan, thiên hương, tiền tế, trung từ, hậu cung. Tòa
tiền tế, trung từ có nhiều bức cốn chạm khắc đề tài tứ linh, tứ quý. Hậu cung có tượng
Dương Quý Phi cùng hai người hầu là Kim Thị và Liễu Thị, niên đại thế kỷ 17-18.
Tượng Quý Phi được tạo tác sống động, nét mặt trang nghiêm, đôn hậu. Dưới ban thờ có
dấu tích một cái giếng nhỏ. Tương truyền giếng vốn là “rốn biển”, khi biển lùi xa để lại
dấu tích cùng với hồ Bán Nguyệt cho nên nước giếng luôn đầy vơi theo nước hồ. Trong
đền lưu giữ nhiều di vật quý như kiệu võng, long đình, long sàng, long kỷ có niên đại thế
kỷ 18-19 và 15 đạo sắc phong từ triều Lê đến Nguyễn, cùng nhiều bức hoành phi, câu
đối, đại tự ca ngợi tấm gương trung trinh tiết liệt của Quý Phi.
Đền Mẫu cũng nổi tiếng bởi có cây sanh, si, đa cổ thụ ngót tám trăm năm ở phía trước
cửa đền. Ba thân cây quấn lấy như hòa vào làm một, thân rễ quấn quýt làm thành thế
kiềng ba chân vững chãi, cành lá vươn cao xum xuê che phủ cho toàn bộ ngôi đền, tạo ra

cảnh trí thâm nghiêm huyền bí.
Lễ hội truyền thống đền Mẫu tổ chức từ ngày 10 đến 13 tháng 3 âm lịch. Mở đầu là buổi
tế long trọng do các quan viên làng Mậu Dương thực hiện. Hôm sau tổ chức rước nước từ
sông Hồng về làm lễ mục dục. Buổi rước sôi động nhất là rước liềm và rước du.
Rước liềm tổ chức vào ngày 12/3, đám rước xuống đình Hiến và trở về đền chính. Đi đầu
là cờ, trống chiêng, long đình, bát bửu, lộ bộ, có đội múa lân, múa rồng. Đám rước đi một
đoạn thì dừng lại để biểu diễn múa cờ. Bốn thanh niên cầm 4 cờ, múa theo nhịp trống, lúc
nhanh, lúc chậm. Sau mỗi tiếng trống, người múa cờ “hứ” một tiếng to và dài (nên được
gọi là trò “tùng hứ”).
Đám rước du được tổ chức vào ngày hôm sau. Đám rước đi quanh phố. Đi trong đám
rước cũng như hôm rước liềm. Trong đám rước, rồng vàng uốn lượn từ đầu đến cuối đám
rước, có múa “Con đi đánh bồng”. Đám rước đi đến đâu hai bên đường các gia đình đốt
pháo nổ không dứt.
Trong ngày hội, sân đền tổ chức thi đấu cờ, quân cờ là nam thanh nữ tú. Tổ chức thi đấu
tổ tôm điếm, chọi gà; buổi tối hát chầu văn.

ĐỀN PHẠM CÔNG TRỨ HƯNG YÊN:
Phạm Công Trứ, người làng Liêu Xuyên, tổng Liêu Xá, huyện Đường Hào, phủ Thượng
Hồng, trấn Hải Dương, nay thuộc thôn Thanh Xá, xã Nghĩa Hiệp, huyện Yên Mỹ, tỉnh
Hưng Yên. Ông sinh ngày 17 tháng 3 năm Kỷ Hợi (1599) trong một gia đình nho học,
cha là Phạm Cai, mẹ là Nguyễn Thị Liên. Ngay từ nhỏ ông tỏ ra rất ham học, phong độ
giản dị, tính tình cương trực và nhân hậu. Được sự chăm sóc, dạy dỗ chu đáo của cha mẹ,
lại được quan Huấn đạo Nguyễn Hiền (người ở xã An Tháp, cùng huyện) giúp đỡ, nên
Phạm Công Trứ đã sớm nổi tiếng giỏi thơ, văn. Lớn lên, được vào học ở trường huyện
Đường Hào (ông có học cả võ bị) và được xếp vào bậc "Nhiêu học" (tiên tiến xuất sắc
bây giờ).
Năm 29 tuổi, Phạm Công Trứ đỗ Đệ tam giáp đồng tiến sĩ, xuất thân khoa Mậu Thìn,
niên hiệu Vĩnh Tộ thứ 10 (1628) đời vua Lê Thần Tông (1619- 1643), được giao giữ
chức Thái thượng Tự khanh ở Hàn Lâm viện. Cả sự nghiệp và cuộc đời của ông gắn liền
với việc xây dựng và phò tá triều Lê-Trịnh thế kỷ XVII.

Năm Tân Mùi (1631), ông được giao giữ chức Hiến sát sứ trấn Thanh Hóa. Năm Kỷ Mão
(1639) ông giữ chức Phủ Doãn phủ Phụng Thiên (thủ đô Hà Nội ngày nay), rồi làm Tham
chính Tự khanh, được phép tham gia bàn luận việc Nội phủ. Năm Dương Hòa thứ 8
(1642) ông được thăng lên Tán lý đạo Sơn Nam, coi giữ việc binh. Trong hai năm Quý
Mùi (1643) và Giáp Thân (1644) ông được lệnh tham gia phối hợp với Trịnh Tạc (1657-
1682) đem quân đánh dẹp quân Nguyễn Phúc Lan ở phía Nam và quân Mạc ở phía Bắc.
Do có công lớn, năm Ất Dậu (1645), Phạm Công Trứ được giao chức Phó Đô ngự sử, gia
phong tước Khánh Yến Bá. Ông đã cùng Nguyễn Duy Thì dẹp được cuộc nổi loạn của
Trịnh Sâm, được triều đình trọng thưởng và thăng chức Ngự sử đài chính chưởng.
Phạm Công Trứ còn đề ra nhiều chính sách cải cách quản lý nhà nước và ông là một nhà
chính trị xuất sắc. Năm Vĩnh Thọ thứ ba (1660) ông đã dâng sớ xin kiện ước văn-võ,
thưởng phạt nghiêm minh khi giữ chức Tham tụng, ông đã nêu rõ phép "khảo khóa"
(cất nhắc quan lại, ban điều lệ giáo hóa, khen thưởng phân minh, xét lại sổ đinh điền,
định lại ngạch thuế ). Những việc sắp đặt của ông được chúa Trịnh chấp nhận để ổn
định trị an xã tắc. Người đương thời khen ông là vị quan đa tài, liêm khiết. Năm Tân Sửu
(1661) vâng lệnh triều đình, ông đem đại quân đi đánh dẹp lực lượng cát cứ Nguyễn Phúc
Tần nổi dậy ở vùng Thuận Hóa. Thắng trận trở về ông được phong hàm Thiếu Bảo, tước
Quận công. Để giáo dục kẻ sỹ, mở mang Nho học, tuyển chọn nhân tài cho đất nước, năm
Nhâm Dần (1662) triều đình cử ông quản lý Văn miếu Quốc Tử Giám và làm tham tụng
phủ Chúa Trịnh. Thời gian này, ông còn cho xây dựng bia Tiến sĩ tại huyện Đường Hào
(quê hương ông) để khích lệ tinh thần học tập của nhân dân địa phương.
Cảm công lao to lớn của ông, vua Lê Huyền Tông (1663- 1671) đã tấn phong "Đặc tiến
Kim tử Vinh lộc Đại phu, Lễ bộ Thượng thư, kiêm Đông các Đại học sĩ, Thiếu Bảo Yến
Quận công, Thượng trụ quốc thượng, trật Phạm Công Trứ khả vi Đặc tiến Kim tử Lại bộ
Thượng thư".
Năm Cảnh Trị thứ ba (1665) đời vua Lê Huyền Tông, Phạm Công Trứ được Tây Vương
Trịnh Tạc giao cho việc khảo đính (phụ trách sửa chữa và xem xét) lại bộ sách Đại Việt
sử ký toàn thư. Ông đã cùng với Hồ Sỹ Dương, Nguyễn Quốc Khôi, Đặng Công Chất,
Đào Công Chính, Vũ Duy Đoán khảo, đính toàn bộ bộ sách này, chép từ họ Hồng Bàng
đến Ngô sứ quân (thế kỷ X) làm bộ "Đại Việt sử ký ngoại kỷ toàn thư"; từ thời Đinh Tiên

Hoàng đến Thái tổ Cao Hoàng đế (Lê triều) làm bộ "Đại Việt sử ký bản kỷ toàn thư",
theo trước tác của sử gia Ngô Sỹ Liên. Đây là một đóng góp rất lớn cho quốc sử nước
nhà. Cũng trong thời gian này, ông đã biên soạn sách "Bốn mươi bảy điều giáo hóa" bổ
sung cho Hình luật, xây dựng đạo đức góp phần giữ vững kỷ cương phép nước.
Vào năm Đinh Mùi (1667) và Kỷ Dậu (1669), Phạm Công Trứ cùng chúa Trịnh Căn
đánh bại quan Mạc tại Cao Bằng, chặn đứng âm mưu của nhà Thanh định mượn cớ "Phù
Mạc, diệt Lê" xâm lược nước ta.
Sau 40 năm phục vụ đất nước, năm Mậu Thân (1668) vua đã phong ông làm "Quốc Lão",
được tham dự các việc cơ mật trong triều. Cũng thời gian này ông đã xin nghỉ hưu ba lần
mới được chấp nhận. Khi về, ông được thăng Thái Bảo, chúa Trịnh đã tặng ông đôi câu
đối thêu vào cờ:
"Điền đỉnh nại, nhiếp âm dương, triều đình trụ thạch.
Hoàn quy mô, định hiệu lệnh, quốc gia đống lương."
(Nêm canh định vạc, điều hoà khí âm dương, làm cột đá cho triều đình.
Định ra các hiệu lệnh, hoàn thành được quy mô, là rường cột của Nhà nước.)
Đến năm Quý Mùi (1673) triều đình lại mời ông ra làm Tể tướng, coi việc sáu bộ, tham
tán việc cơ mật.
Ngày 28 tháng 10 năm ất Mão (1675) Phạm Công Trứ qua đời tại quê nhà, thọ 76 tuổi.
Triều đình cho xây dựng đền thờ ông, vua Lê thương tiếc phong tặng "Thái tể, thụy là
Trung Cầu".
Cả cuộc đời, ông đã đóng góp công lao xây dựng triều đình, đất nước trong mọi lĩnh vực
như chính trị, quân sự, văn học, sử học, pháp luật Phạm Công Trứ đều có những cống
hiến quan trọng, là rường cột của nước nhà. Công lao đó được Phan Huy Chú, trong
"Lịch triều hiến chương loại chí" viết: " Ra đương việc nước 19 năm (ông) đặt ra phép
tắc, sửa soạn kỷ cương; đè nén những kẻ cậy thế, nhũng loạn; yêu chuộng người có
phong cách tiết tháo có đức tốt, có công lao sự nghiệp, là bậc hiền tể thứ nhất sau đời
Trung Hưng " hay như trong Gia phả họ Phạm có viết: " ông là một nhà chính trị đại
tài, lái hai con thuyền phong kiến trong lúc khó khăn ".
Ngày nay, hàng năm hai lần nhân dân địa phương cùng các con cháu trong dòng họ lại tế
lễ, mở hội vào ngày 17 tháng 3 âm lịch (kỷ niệm ngày sinh) và ngày 28/10 (ngày mất)

nhằm ôn lại truyền thống hào hùng của ông.

ĐỀN THIÊN HẬU HƯNG YÊN:
Đền Thiên Hậu được xây dựng từ năm 1640 do 40 dòng họ người Trung Quốc ở Quảng
Đông, Quảng Tây, Phúc Kiến quyên góp. Kiến trúc ngôi đền theo kiểu nội tự ngoại tế
nghĩa là bên trong thờ phụng, bên ngoài làm nơi tế tự. Đây là công trình mang đậm màu
sắc kiến trúc Trung Hoa trên nhiều phương diện, như tam quan, nhà tế, mái đền, đao góc
và kết cấu vì kèo. Theo truyền ngôn của kiều dân thì công trình được làm sẵn ở Trung
Quốc, rồi chở sang Việt Nam cất dựng.
Mặt tiền là tam quan cao rộng, tường bao hai bên trang trí các ô vuông gắn gạch men hoa
màu xanh lam rất đẹp. Sân trước nhà tiền đường có hai con nghê chầu; con đực ngậm
viên ngọc, con cái ôm con bú, chất liệu bằng đá hoa cương, tạc khá sinh động. Viên ngọc
được đẽo gọt tròn, nhẵn, không biết bằng cách nào đưa vào miệng con đực. Hai con nghê
đã nói lên quan niệm sống của người Hoa: được của và được con là hạnh phúc lớn nhất
của cuộc đời. Thềm đền được lát bằng những tấm đá cuội trải mưa gió hàng mấy trăm
năm vẫn trơ gan không mòn vẹt. Đền chính xây bằng gạch Bát Tràng, rêu không bám
được. Mái đền lợp ngói ống, đầu đao cong nhẹ hình đuôi cá. Cánh cửa tiền đường khắc
hình các quan văn võ theo hầu tô sơn xanh đỏ. Trên các vì kèo ở gian tiền tế cũng khắc
các tích chuyện rút ra từ Tam Quốc hoặc Tây Du. Khách vào đền dù xa lạ cũng biết ngay
là nơi tế tự của Hoa kiều.
Đền thờ bà Lâm Tức Mặc, theo Đại Thanh nhất thống chí, bà là một thần biển, con gái
thứ sáu của Lâm Nguyện, người Bồ Điền, tỉnh Phúc Kiến, nguyên là cô gái dệt lụa sinh
vào ngày 23 tháng 3 âm lịch. Tương truyền Lâm Tức Mặc khi sinh ra có hương thơm
ngào ngạt, hào quang rực rỡ, lớn lên có phép màu cưỡi chiếu bay trên biển. Từ tuổi hoa
niên bà đã phát hiện ra một thứ rong biển dùng nấu thạch làm thức ăn cứu đói cho dân, và
còn tìm ra một thứ dầu ăn gọi là ma mộc rút từ cây thuộc họ vừng giúp dân nghèo qua
những trận đói kéo dài
Ngày mồng 9 tháng 9 âm lịch bà không bệnh tật, tự nhiên qua đời. Theo thánh phả bà hoá
vào một ngày có quần tiên tấu nhạc. Bốn chữ "Bạch nhật phi thăng" khắc ở cỗ kiệu trong
đền của bà nói lên điều đó.

Sau khi hóa, ngài thường mặc áo đỏ bay lượn trên biển. Thời Tống, Nguyên, Minh,
Thanh thường hiển linh cứu hộ thuyền bè. Thời Khang Hy phong làm Thiên Phi, sau gia
phong Thiên Hậu. Người Phúc Kiến tôn bà là Thần Biển nên di cư đến đâu mang thần
tích lập đền thờ đến đó. Cho nên ta không lấy làm lạ, dọc bờ biển nước ta có nhiều nơi
lập đền thờ Thiên Hậu. Tại Thiên Hậu Cung ở Phố Hiến Hạ có hai cuốn sách nói về sự
tích bà: Thiên Hậu Thánh Mẫu Thánh Tích Đồ Chí (in lần thứ hai năm Hàm Phong thứ 3
(1853) và cuốn Thiên Thượng Thánh Mẫu cứu khổ chân kinh, in năm Thành Thái thứ 19
(1907)).
Trong đền Thiên Hậu có nhiều bức đại tự liên quan tới việc đi sông biển và ngợi ca tài
danh của vị nữ thần, nào là Phong điều vũ thuận - Quốc thái dân an (Mưa gió điều hòa -
Đất nước yên vui), nào là Hải bất dương ba (Biển không nổi sóng) Quá hải tề thiên (Vượt
biển trời êm).
Ngoài gian chính thờ bà Lâm Tức Mặc, hai gian bên còn có bàn thờ cha mẹ và anh ruột
bà, bàn thờ các dòng họ người Hoa đã có công xây dựng và tôn tạo ngôi đền. Hàng năm,
đền Thiên Hậu mở hội vào ngày 23 tháng 3 âm lịch (ngày sinh) và ngày mồng 9 tháng 9
(ngày hóa) của Lâm Tức Mặc. Các dòng họ người Hoa ở Phố Hiến và người Việt về đây
tế lễ, rước kiệu linh đình, lễ vật có bánh rong câu, kẹo sìu, bánh rùa, bánh Tô Châu là
những sản vật truyền thống của người Hoa.

ĐỀN THỜ CHỬ ĐẠO TỔ HƯNG YÊN:
Đền thờ Chử Đồng Tử có ở nhiều nơi trên đất nước Việt Nam. Tại huyện Khoái Châu
tỉnh Hưng Yên, cách Hà Nội chừng 25km theo đê sông Hồng, có hai ngôi đền thờ Đức
thánh Chử Đồng Tử. Một ngôi đền nằm ở địa phận thôn Đa Hoà, xã Bình Minh, bên dòng
sông Hồng nhìn ra bãi Tự Nhiên nơi nàng công chúa Tiên Dung xinh đẹp, con gái vua
Hùng thứ 18 kỳ ngộ và nên duyên với chàng Chử nghèo khó; ngôi đền thứ hai thuộc địa
phận thôn Yên Vĩnh, xã Dạ Trạch, nơi chàng Chử cùng nhị vị phu nhân hoá về trời.

ĐỀN TỐNG CHÂN HƯNG YÊN:
Tục truyền rằng, vào thời nhà tiền Lý (ở Văn Miếu Hưng Yên ghi ông sống vào thời nhà
Trần) ở xã An Đô, tổng Võng Phan, huyện Phù Dung (nay là thôn An Cầu, xã Tống Trân,

huyện Phù Cừ) có một người họ Tống, tên gọi Thiệu Công thuộc dòng dõi thi thư, trong
gia đình rất hiếu đễ, ngoài xã hội khoan hoà. Tống Thiệu Công lấy vợ người xã Phù Oanh
(cùng huyện) tên là Đào Thị Cuông, vợ chồng sống rất nhân từ, tu nhân tích đức, hay làm
điều thiện Việc làm của họ thấu tới cả trời xanh, nhà Trời đã sai thiên sứ xuống đầu
thai. Bà Đào Thị Cuông có thai 11 tháng mới sinh một cậu bé khôi ngô, tuấn tú vào ngày
rằm tháng Tư năm Bính Ngọ.
Lên 3 tuổi, cậu bé đã rất giỏi âm luật, cha mẹ rất yêu thương nên đặt tên là Trân. Tống
Trân lên 5 tuổi đã có khí chất thông minh, thiên tư sáng suốt, học một biết mười, trên từ
thiên văn, dưới đến địa lý đều am hiểu tinh tường. Khi Ngài cùng mẹ lang thang hành
khất, đến Sơn Tây vào một gia đình trưởng giả giàu có ăn xin, được Cúc Hoa (con gái
ông trưởng giả) đem lòng yêu mến vì tài đối đáp thông minh của Tống Trân. Ba người trở
về quê hương làm ăn, riêng Tống Trân dùi mài kinh sử. Đến năm 7 tuổi vua Lý Nam Đế
(544-548) mở khoa thi để tuyển chọn nhân tài và đến ngày 29 tháng 9, Tống Trân vào
kinh ứng thí, cả ba kỳ đều đỗ thủ khoa. Đến ngày mồng 1 tháng 2 năm Quý Sửu, ông đỗ
Đệ nhất giáp cập đệ đệ nhất danh (tức Trạng Nguyên). Vua khen rằng: "Quốc sĩ vô song,
tướng tài quả nhị" - nghĩa là "kẻ sĩ cả nước chỉ có một (Tống Trân), tướng tài không có
người thứ hai"". Ngày mồng 10 tháng 4, vua ban cho cờ biển, một nghìn vuông gấm và
mười đĩnh vàng cho về vinh quy bái tổ.
Trở về làng bái yết tổ tông, thăm hai bên nội ngoại, khao vọng làng trong một tháng, rồi
cưới nàng Cúc Hoa làm vợ. Tống Trân làm nhà ở làng Phù Oanh, cho vợ trông coi rồi trở
lại kinh thành. Được ba tháng, vua cử ngài đi sứ sang Bắc quốc. Vua Trung Quốc dùng
đủ mọi cách để thử tài Tống Trân, nhưng quan Trạng đều ứng đối trôi chảy, xử thế mưu
trí. Vua Trung Quốc khen là nhân tài thứ nhất trong 18 nước chư hầu và phong làm
"Lưỡng quốc trạng nguyên" (trạng nguyên hai nước). Vua Tầu muốn gả con gái cho
nhưng Tống Trân từ chối, vì thế bị giam vào chùa Linh Long trong một trăm ngày, không
cho thức ăn, nước uống. Tại đây, ông đã nảy ra sáng kiến bẻ ăn tượng phật (được làm
bằng chè lam) và uống nước lã, nên một lần nữa, vua Tàu phục tài bèn phong làm "Phụ
quốc thượng tể Đẩu Nam Tống đại vương".
"Bảy tuổi Trạng nguyên lừng đất Việt.
Mười năm tứ tiết khiết trời Ngô."

Mười năm đi sứ, khi Tống Trân trở về thì Cúc Hoa bị ép lấy chồng khác. Tống Trân giả
dạng người hành khất để dò la tình ý, biết Cúc Hoa vẫn thủy chung với mình, khen Cúc
Hoa đủ tam tòng, tứ đức, thực là nữ trung Nghiêu, Thuấn. Tống Trân đón vợ về, cùng
nhau đoàn tụ. Vua biết chuyện, đã phong cho Cúc Hoa làm "Quận phu nhân". Khi Lý
Nam Đế băng hà, Triệu Quang Phục lên ngôi hiệu là Triệu Việt Vương, có vời Tống Trân
ra làm "Phụ chính đại thần". Được hơn mười năm, Tống Trân ngoài 60 tuổi, mới dâng
biểu cao quan về quê dạy học. Cúc Hoa không có con, lại mắc chứng bệnh đau bụng, ba
hôm sau thì mất (ngày 3 tháng 3). Năm năm sau, Tống Trân bị chứng bệnh "mã đao"
(hạch ở cổ) và mất ngày mồng 5 tháng 5 năm Tân Hợi. Ngoài được phong sắc "Thượng
đẳng tối linh phụ quốc Tống Trân đại vương" và về sau được truy phong làm "Thượng
đẳng phúc thần".
Tại đền còn lưu giữ những câu đối ca ngợi mảnh đất "địa linh" của huyện Phù Dung:
"Đức phối nhị vương, An quận ninh khang ca thánh trạch.
Công cao thiên cổ, Phù Dung hiển tích tạ thần lưu."
(Đức sánh hai vua, An quận yên lành nhờ thánh trạch.
Danh lưu muôn kiếp, Phù Dung linh ứng tỏ thần công đã sản sinh ra "nhân kiệt" cho địa
phương.)
"Văn vũ bẩm toàn tài, kháng Nguỵ, sánh Ngô cái thế huân danh minh Việt sử.
Bắc, Nam dai cử thủ phong, tích tước huy niên thang mộc trang lăng từ."
(Toàn tài văn võ, dẹp Ngô đánh Nguỵ, muôn kiếp công lao ghi sử sách.
Quy phục Bắc Nam, phong Vương tiến tước nghìn năm đất tổ tế lăng từ thật xứng
Lưỡng quốc Trạng Nguyên.)
Trạng nguyên Tống Trân còn được biết đến thông qua truyện nôm khuyết danh "Tống
Trân - Cúc Hoa" nổi tiếng xưa nay.
Theo quy định hàng năm, lễ hội làng được tổ chức từ ngày 10 đến ngày 17 tháng 4 âm
lịch, trong đó ngày 13 và 14/4 là ngày hội chính. Ngày 13/4 tiến hành rước kiệu từ các
đền, chùa trong làng. Trong ngày chính hội (tức ngày 14/4) dân làng rước kiệu quan
Trạng đi vòng quanh làng với đoàn tuỳ tùng, cờ xí, võng lọng trông rất uy nghi. Và đến
ngày 16/4 lại rước kiệu về các đình, đền, chùa để an vị. Ngày 17/4 làm lễ bế hội. Lễ hội
đền Tống Trân là một trong những lễ hội lớn nhất của huyện Phù Cừ.


ĐÌNH QUAN XUYÊN HƯNG YÊN:
Làng Quan Xuyên nằm ở phía Tây Bắc của tỉnh, cách thị xã Hưng Yên hơn 20km, thuộc
tổng Đại Quan, huyện Đông An, phủ Khoái Châu (ngày nay thuộc xã Thành Công, huyện
Khoái Châu). Quan Xuyên nằm bên bờ sông Hồng, mang những nét đặc trưng của một
làng truyền thống vùng đồng bằng Bắc Bộ với "cây đa, giếng nước, sân đình". Trong
làng, còn lưu giữ được một quần thể di tích lịch sử - văn hóa phong phú, gồm có Đình
Quan Xuyên, (thờ Ngũ vị đẳng thần); Miếu Thượng (thờ Tam vị thượng đẳng thần Chử
Đồng Tử và nhị vị phu nhân); Miếu Trung (thờ Linh ứng đại vương Phạm Công Nghi,
được phong Trung đẳng thần); Miếu Hạ (thờ thành hoàng làng Quang Chiếu đại vương
Vũ Quang Chiếu, được phong làm Trung đẳng thần); chùa Quan Xuyên; nhà sắc hay nhà
Hội đồng (lưu giữ giấy tờ quan trọng của cả làng); Văn chỉ Quan Xuyên và lăng mộ Vũ
Quang Chiếu. Tất cả những di tích trên đều có quan hệ mật thiết tới lễ hội làng Quan
Xuyên, tạo thành một lễ hội hoàn chỉnh.
Theo thần tích, thần sắc tại đình Quan Xuyên thì cả "Ngũ vị đẳng thần" đều có công rất
lớn đối với dân, với nước. Tam vị đức thánh tiên đại diện cho quá trình khai phá vùng đất
hoang vu thành những làng mạc trù phú, có công cứu nhân độ thế, mở mang nghề buôn
và đặc biệt là lòng thủy chung son sắt trong gia đình, xã hội. Do có công lao to lớn, đời
vua Lê Trang Thông (1533-1548, niên hiệu Nguyên Hòa) đã sắc phong cho Đức Thánh
Ông là "Chử công Đồng Tử thượng đẳng phù tiên tôn thần", cho "Tiên Dung công chúa
thượng đẳng phù tiên tôn thần " và cho Tây Sa công chúa làm "Nội giáp Tây cung công
chúa huyền diệu tôn thân". Các đời vua về sau đều ban phong cho ba vị làm "Thượng
đẳng thần". Vì thế, Quan Xuyên là một trong 72 làng ven dọc sông Hồng thờ Chử Đồng
Tử và nhị vị phu nhân làm Đức Thành Hoàng.
Vũ Quang Chiếu và Phạm Công Nghi là bạn quan đồng liêu. Tuy có quê quán khác nhau
(Vũ Quang Chiếu quê làng Lan Xuyên, Thành Công, còn Phạm Công Nghi quê làng
Vĩnh Niêm, huyện Nghi Dương, phủ Kinh Môn, tỉnh Hải Dương) nhưng cả hai đều là
những công hầu khánh tướng, phụ giúp nhà Lê. Hai ông đã kết nghĩa làm anh em vào
ngày 15/2. Sau đó, nhà Mạc mất, Phạm Công Nghi dược truy phong làm Thái Bảo Nghi
Công, Linh Ứng đại vương, còn Vũ Quang Chiếu làm Thái phó, Quang Chiếu đại vương.

Về sau, cả hai đều được phong làm " Trung đẳng thần".
Lễ hội truyền thống đình Quan Xuyên được tổ chức hàng năm từ ngày mồng 9 đến ngày
16 tháng 2 âm lịch, nhưng sau này vào năm 1938 cụ Cao Văn Linh (làm thông phán ở
Hưng Yên) đã quy định lịch tổ chức lễ hội vào các năm "Thìn, Tuất, Sửu, Mùi" (tức ba
năm một lần). Lễ hội đình Quan Xuyên cũng mang đặc trưng chung của lễ hội vùng đồng
bằng Bắc Bộ, nghĩa là có hai phần quan trọng là Lễ và Hội.

LÀNG CỔ ĐÔNG AN HƯNG YÊN:
Làng Đông An, nay thuộc thị xã Hưng Yên, tỉnh Hưng Yên, thờ ông Đùng bà Đà. Hàng
năm từ ngày 6 đến ngày 10 tháng Ba âm lịch dân là có tổ chức lễ hội để tưởng nhớ đến
truỵền thuyết về hai ông bà.
Tương truyền, ông Đùng bà Đà là hai chị em ruột, đã luống tuổi mà vẫn ở vậy. Một hôm
họ thỏa thuận hai chị em đi vòng một quả núi, nếu gặp ai thì lấy người đó. Kết quả họ lại
gặp nhau và cho là số trời đã định, nên họ phải lấy nhau. Đêm đầu bà Đà bỏ trốn ông
Đùng tìm rước về. Đêm thứ 2, bà Đà lại bỏ trốn. Đến đêm thứ 3, khi đưa về đến giữa
đường gặp hổ, ông Đùng đuổi mãi hổ vẫn không đi, sau phải nhờ hai mẹ con một bà lão
câu ếch ra giúp, hổ mới bỏ chạy. Lần này ông bà lấy nhau. Tin đồn đến tận kinh kỳ, vua
cho xử tội họ bằng cách tùng xẻo, chặt đầu, ngâm xác vì loạn luân. Hai ông bà chết dân
làng Đông An lập đền thờ hàng năm mở hội.
Để diễn ra lễ hội, dân làng chuẩn bị hai hình nhân đan bằng nan tre thật to, phết giấy to
mặt, dán quần áo ông Đùng râu ba chòm, bà Đà má phính mặt bầu. Đoàn người rước hình
nhân đi các ngả, lại rước đi vòng quanh làng tượng trưng hai người đi quanh núi hai hình
nhân theo hai ngả và cuối cùng gặp nhau, làm sao cho nắm tay hình nhân cử động như
biểu lộ sư vui mừng, rồi khiêng ông Đùng đụng vào bà Đà, tuồng như họ ôm nhau hoan
lạc vậy, trong tiếng reo hò của người dự hội. Sau đó đám rước trở về đình làng có người
đóng vai cọp, vai lực sĩ và vai hai mẹ con bà câu ếch. Tan cuộc rước, ông Đùng, bà Đà
được thờ tại đình cho đến ngày mồng 9 rạng mồng 10 tháng Ba, vào lúc nửa đêm, ban tổ
chức hội lễ xử tội hai ông bà như trong truyền thuyết. Xử xong, người ta khiêng hai hình
nhân ngâm xuống ao làng.


TƯƠNG BẦN HƯNG YÊN:
Hay còn gọi là tương Bắc, là một loại tương truyền thống và đặc sản của miền Bắc tại
khu vực Phố Nối- Hưng Yên. Tương làm bằng đậu nành, nêm chay mặn đều dùng được.
Cách làm: đậu nành được đem rang khô, sau đó đem ủ cùng với các gia vị: đường, muối,
lá cây thơm trong vòng khoảng một tháng. Sau đó, được đem ra trộn với thính (gạo rang
vàng xay nhuyễn) để khô. Cuối cùng trộn với các nước tỏi tươi trong vòng 15 ngày thì
dùng được.
Tương bần thường được dùng với rau muống, thịt dê tái, chân bò. Ngày nay khu vực này
bán tương khá nhiều nhưng theo các nhà chuyên môn tương ơ đây đã bị mất gốc, một loại
gia vị ngon bị thất truyền.
ĐẬU TƯƠNG VÀ LẠC:
Ở nước ta, hai loại cây công nghiệp ngắn ngày là đậu tương và lạc có tốc độ phát triển
chậm so với nhiều loại cây trồng khác. Các vùng sản xuất lạc tương đối tập trung ở nước
ta là: khu bốn cũ, Đông Nam Bộ, Cao Bằng, Bắc Giang… trong 10 năm, tuy diện tích
dừng lại ở 210.000ha lạc và 120.000 ha đậu tương, nhưng sản lượng có xu hướng tăng từ
144.000 tấn lạc 1985 lên gần 260.000 tấn năm 1995, từ 69.000 tấn đậu tương năm 1985
lên 112.000 tấn năm 1995, chủ yếu là do tăng năng suất lạc từ 9,2tạ/ha lên gần 12tạ/ha và
đậu tương từ 7,4tạ/ha lên 9tạ/ha.
Để tạo điều kiện đẩy mạnh sản xuất lạc và đậu tương, ngoài các chính sách chuyển đổi cơ
cấu cây trồng cũng như chủ trương chuyển đổi cơ cấu mùa vụ nhà nước đã đầu tư và cho
thực hiện đề tài cấp nhà nước mang mã số KN01-06 trong chương trình KN01 “phát triển
cây lương thực và cây thực phẩm”. Qua 5 năm thực hiện (1991-1995) đề tài đã thu nhập
2442 mẫu giống lạc, đậu tương và các loại đỗ khác để chọn giống và lai tạo giống mới có
triển vọng về năng suất và chất lượng: chọn lọc lai tạo, gây đột biến và đưa ra sản xuất 39
giống đậu, trong đó có 10 giống được công nhận quốc gia, 16 giống được phép khu vực
hoá và 18 giống tiếp tục thảo nghiệm.
Hiện nay, nước ta đã có những giống lạc mới cho năng suất cao, phẩm chất tốt là V79,
4329, 1660, BG78, JĨ, LVT và các dòng D329, D332, các giống đậu tương đắng chú ý kà
Đt 80, AK05, DT64, AK04, V48, ĐT93, TL57, AG314.


VĂN MIẾU HƯNG YÊN:
Văn Miếu Hưng Yên là Văn Miếu hàng tỉnh, còn gọi là Văn Miếu Xích Đằng, xây dựng
năm Minh Mạng thứ 20 (1839), tọa trên một khu đất cao rộng gần 4.000m2, thuộc thôn
Xích Đằng, phường Lam Sơn, thị xã Hưng Yên.
Hiện vật quý nhất của Văn Miếu là 9 tấm bia đá, trong đó 8 bia được lập năm Đồng
Khánh thứ 3 (1888), một bia được lập năm Bảo Đại thứ 18 (1943) ghi danh các nhà khoa
bảng Hưng Yên. Có 138 vị đỗ đại khoa được ghi khắc vào bia từ thời Trần đến năm 1919
- khoa thi cuối cùng khoa cử nho học, trong đó có 21 vị nay thuộc địa phận tỉnh Thái
Bình (Phủ Tiên Hưng của Hưng Yên ngày đó sau thuộc Thái Bình).
Học vị cao nhất là Trạng nguyên Tống Trân, người thôn An Cầu, huyện Phù Cừ, đời
Trần, Trạng nguyên Nguyễn Kỳ người xã Bình Dân huyện Khoái Châu, triều Mạc. Chức
vụ cao nhất là Lê Như Hổ, quận công triều Mạc.
Trước đây, hằng năm vào 2 mùa xuân thu nhị kỳ, các ngày 10 tháng giêng và 14 tháng 8
tại Văn Miếu đều tổ chức tế lễ Khổng Tử, các quan lại đương triều về dự lễ rất đông.
Trước cách mạng tháng Tám năm 1945, Văn Miếu là cơ sở hoạt động bí mật của Trung
ương, Xứ ủy Bắc kỳ, Tỉnh ủy Hưng Yên.
Tại Văn Miếu những năm gần đây đã diễn ra các hoạt động mang đậm sắc thái văn hoá
địa phương, dân tộc. Văn Miếu Hưng Yên đã trở thành một biểu tượng về nền văn hoá,
văn hiến của tỉnh Hưng Yên.
/>HUNG-YEN DIA-DANH-HUNG-YEN DU-LICH-HUNG-YEN
Để du lịch Hưng Yên trở thành thế mạnh
Tin tức sự kiện › Tin tức & sự kiện
Ngày đăng: 31/12/2010
Hưng Yên có nền văn hóa truyền thống đặc sắc, mang đậm tính nhân văn với 1.210 di
tích, trong đó có 159 di tích được xếp hạng cấp quốc gia, hơn 90 di tích được công nhận
cấp tỉnh, hơn 400 lễ hội truyền thống được tổ chức hàng năm cùng với sự phát triển của
các làng nghề đã tạo cho du lịch Hưng Yên những tiềm năng hết sức phong phú và hấp
dẫn. Cùng với sự đổi mới của quê hương, đất nước, lĩnh vực du lịch đạt được kết quả
đáng ghi nhận.
Những năm mới tái lập tỉnh, do gặp nhiều khó khăn, thách thức nên hoạt động du lịch phát triển

chậm, cơ sở vật chất xuống cấp. Để định hướng cho phát triển du lịch, tỉnh xây dựng quy hoạch
tổng thể phát triển du lịch giai đoạn 2001-2010 và định hướng đến năm 2020. Đánh dấu một
bước tiến quan trọng cho du lịch Hưng Yên là việc thành lập Trung tâm thông tin xúc tiến du lịch
nhằm tuyên truyền, quảng bá hình ảnh, mảnh đất con người cũng như kêu gọi các nhà đầu tư du
lịch trong và nước đến với mảnh đất giàu truyền thống văn hiến này.
Về thăm Hưng Yên, có rất nhiều địa điểm tham quan du lịch mà du khách có thể tìm đến. Nhưng
có lẽ điểm đến đầu tiên mà hướng dẫn viên du lịch sẽ giới thiệu với quý khách là quần thể di tích
Phố Hiến thuộc thành phố Hưng Yên nổi danh ở thế kỷ XVII với câu “Thứ nhất Kinh Kỳ, thứ nhì
Phố Hiến”, là nơi phồn hoa đô hội chỉ đứng sau kinh thành Thăng Long. Quần thể di tích này
gồm 128 di tích, tiêu biểu như chùa Chuông, đền Mẫu, Văn miếu Xích Đằng, đình - chùa Hiến,
đền Trần, đền Thiên Hậu… Ngoài quần thể di tích Phố Hiến, còn có nhiều địa danh nổi tiếng
khác như cụm di tích đền Đa Hòa-Dạ Trạch thuộc huyện Khoái Châu, nơi đây có đền thờ Chử
Đồng Tử, một trong Tứ bất tử của cả nước và công chúa Tiên Dung; khu di tích Hải Thượng Lãn
Ông (Yên Mỹ), nơi tôn thờ bậc danh y của đất nước, khu di tích Phù Ủng (Ân Thi) thờ tướng
quân Phạm Ngũ Lão, một danh tướng nổi tiếng của thời Trần có công đánh giặc cứu nước và
nhiều cụm di tích khác. Đặc biệt, ở Hưng Yên còn lưu giữ một không gian cổ kính của làng quê
truyền thống Việt Nam, đó chính là không gian cổ của làng Nôm (xã Đại Đồng, Văn Lâm), tại đây
còn lưu giữ những ngôi nhà cổ có niên đại 200-300 năm tuổi.
Mặc dù còn nhiều hạn chế song thời gian qua, du lịch Hưng Yên cũng đã có bước tiến đáng kể,
đưa vùng đất yên bình này trở thành điểm đến hấp dẫn du khách trong và ngoài nước. Du lịch
Hưng Yên đã tạo dựng được thương hiệu trong nước và quốc tế. Lượng khách du lịch đến với
xứ Nhãn ngày càng tăng. Tổng doanh thu từ dịch vụ du lịch năm 2009 đạt hơn 49 tỷ đồng, tăng
gần 15% so với năm 2008. Năm 2010 ước đạt 58 tỷ đồng. Nếu như năm 2001, số du khách đến
với Hưng Yên chỉ đạt hơn 14 nghìn lượt người thì năm 2010 này ước đạt gần 200 nghìn lượt,
trong đó khách quốc tế gần 10 nghìn lượt. Nhiều tuyến, tua du lịch được mở rộng. Chương trình
hợp tác liên kết giữa Trung tâm thông tin xúc tiến du lịch Hưng Yên và Trung tâm thông tin xúc
tiến du lịch các tỉnh, thành phố bạn như Hà Nội, Hải Dương, Quảng Ninh được hình thành, đem
lại hiệu quả thiết thực. Hoạt động kinh doanh lưu trú phát triển ổn định. Số nhà nghỉ, khách sạn
cũng tăng lên hàng năm. Toàn tỉnh hiện có hơn 110 cơ sở kinh doanh lưu trú, nhiều khách sạn,
nhà hàng được đầu tư xây dựng hiện đại, trong đó có 5 khách sạn đạt tiêu chuẩn 2 sao. Được

sự quan tâm chỉ đạo của tỉnh cùng với sự phát triển về kinh tế đã thu hút nhiều dự án đầu tư cơ
sở hạ tầng du lịch như khách sạn, khu du lịch sinh thái, các khu vui chơi giải trí để phục vụ nhu
cầu du khách. Đến nay, đã có 45 dự án đầu tư khách sạn, kinh doanh, dịch vụ du lịch với số vốn
hơn 3,5 nghìn tỷ đồng, tăng 7 dự án so với năm 2009. Được sự quan tâm của Chính phủ, thời
gian qua, tỉnh được đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 5 khu du lịch bằng nguồn vốn hạ tầng du lịch
với tổng số vốn 62 tỷ đồng. Việc kết nối các tua du lịch được tạo lập, mở rộng. Tuyến du lịch
sông Hồng nối Thăng Long- Hà Nội với Phố Hiến có sức hấp dẫn, thu hút du khách tham quan
vãn cảnh những di tích lịch sử, đình chùa cổ kính ven sông, để có những phút giây thư giãn,
thoải mái hòa mình với cảnh quan sông nước hữu tình, êm đềm. Hoạt động lữ hành cũng có tín
hiệu lạc quan. Hiện trên địa bàn tỉnh có 5 doanh nghiệp lữ hành nội địa hoạt động hiệu quả,
doanh thu từ kinh doanh lữ hành đã có mức tăng trưởng khá. Các điểm du lịch, khu di tích trọng
tâm trên địa bàn ngày càng có sức hút mạnh mẽ du khách thập phương. Tại khu du lịch Phố
Hiến, du khách đến với lễ hội truyền thống tăng cao như lễ hội đền Mẫu, đền Trần. Du lịch, dịch
vụ đã đóng góp một phần đáng kể vào ngân sách, dần trở thành một ngành kinh tế mũi nhọn của
tỉnh.
Mặc dù có nhiều lợi thế để phát triển song kết quả đạt được chưa tương xứng với tiềm năng.
Nhiều di tích lịch sử, văn hóa vẫn chưa thu hút được khách du lịch. Nguyên nhân do hệ thống cơ
sở hạ tầng còn yếu kém, các con đường dẫn vào khu di tích nhỏ hẹp không thuận tiện cho các
phương tiện lưu thông, các khu vui chơi giải trí gần các điểm di tích hầu như chưa có. Việc tuyên
truyền, quảng bá rộng rãi tiềm năng du lịch của tỉnh tới các nhà đầu tư còn yếu, cơ chế quản lý
khai thác các khu di tích, điểm du lịch chưa thống nhất, nặng tính cục bộ vô hình chung đã trở
thành “rào cản” khiến du lịch tỉnh nhà chưa phát huy được thế mạnh của mình. Đây chính là
những lý do khiến đóng góp của du lịch vào nền kinh tế còn hạn chế. Nguồn thu của du lịch chủ
yếu vẫn từ hoạt động dịch vụ, nhà hàng, còn các nguồn thu khác như phí tham quan các di tích
hầu như không có.
Ngày 27.5.2010, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 744/QĐ-TTg phê duyệt quy
hoạch tổng thể bảo tồn, tôn tạo, phát huy giá trị đô thị cổ Phố Hiến gắn với phát triển du lịch.
Chính phủ cũng cho phép UBND tỉnh Hưng Yên chủ trì lập dự án quy hoạch bảo tồn, tôn tạo,
phát huy giá trị quần thể di tích lịch sử quốc gia đình Đại Đồng, chùa Nôm gắn với phát triển du
lịch. Khi các dự án được triển khai thực hiện, du lịch Hưng Yên sẽ có cơ hội sánh vai cùng với

Hội An và các tỉnh, thành phố. Để du lịch Hưng Yên phát triển mạnh mẽ biến những tiềm năng
hiện có thành thế mạnh, để du lịch Hưng Yên không mãi là vẻ đẹp tiềm ẩn, cần đầu tư nâng cao
chất lượng nguồn nhân lực du lịch, nâng cao chuyên môn nghiệp vụ đối với lao động làm việc
trong ngành du lịch, phát triển kết cấu hạ tầng, tôn tạo di tích lịch sử các khu di tích lịch sử văn
hóa phục vụ cho phát triển du lịch. Bên cạnh đó, đẩy mạnh tuyên truyền, quảng bá về vùng đất
và con người Hưng Yên đến với các nhà đầu tư, bạn bè trong nước và quốc tế, phối hợp liên kết
chặt chẽ các tua du lịch trong tỉnh và ngoài tỉnh nhằm thu hút du khách ngày một nhiều hơn.

Nguồn: BAOHUNGYEN.VN
/>manh.aspx
Tiềm năng phát triển du lịch Hưng Yên

Tiềm năng du lịch
Hưng Yên là một tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, có vị trí và hệ thống giao thông đường bộ,
đường thủy, đường sắt thuận tiện cho giao lưu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội. Hưng
Yên là quê hương của đồng lúa vườn cây, hồ sen và những đặc sản nổi tiếng như cam
đường canh, nhãn lồng Hưng Yên nơi phát tích của những danh nhân như đại danh y
Hải Thượng Lãn Ông, tướng quân Phạm Ngũ Lão, là quê hương của cố Tổng bí thư
Nguyễn Văn Linh, và cũng là quê hương của thân mẫu Bác Hồ.
Sương sớm trên hồ Bán Nguyệt
Hưng Yên cũng là kho tàng văn hóa dân gian đặc sắc của đồng
bằng châu thổ sông Hồng với những làn điệu chèo, hát ả đào, hát
trống quân mượt mà đằm thắm gắn liền với nhiều di tích lịch sử
văn hóa nổi tiếng như: Phố Hiến, khu tích Đa Hòa Dạ Trạch gắn
liền với truyền thuyết Chử Đồng Tử - Tiên Dung.
Theo thống kê, toàn tỉnh có hơn 900 di tích lịch sử văn hóa, trong đó có 132 di tích được
xếp hạng quốc gia cùng hàng ngàn tài liệu và hiện vật cổ có giá trị. Đặc biệt là quần thể
di tích Phố Hiến, Hàm Tử, Bãi Sậy, đó là nguồn tài nguyên du lịch văn hóa có giá trị cho
phát triển du lịch.
Bảng liệt kê mật dộ di tích trên địa bàn tỉnh

T
t
Địa bàn Diện tíchSố di tíchMật độ
Số di tích
được xếp
hạng
Mật độ
Tổng số 923 980 1.062 132 0.143
1 Thị xã Hưng Yên 22.15 59 2.664 12 0.542
2 Huyện Văn Lâm 79.1 52 0.657 12 0.152
3 Huyện Mỹ Hào 71.79 74 1.031 09 0.125
4 Huyện Yên Mỹ 74.42 148 1.998 15 0.202
5 Huyện Khoái Châu 90.99 74 0.813 20 0.219
6 Huyện Văn Giang 130.08 52 0.399 12 0.092
7 Huyện Ân Thi 128.21 140 1.092 14 0.109
8 Huyện Kim Động 118.62 158 1.332 15 0.126
9 Huyện Phù Cừ 93.82 94 1.222 06 0.064
1
0
Huyện Tiên Lữ 115.09 148 1.277 17 0.148
Một cảnh trong vở chèo
"Quan Âm Thị Kính"
Qua đó ta thấy mật độ các di tích lớn tập trung hình thành 3 cụm là: Thị xã Hưng Yên -
Kim Động; khu vực Phố Nối - Yên Mỹ và khu vực Đa Hòa, Dạ Trạch huyện Khoái Châu.
Cụm di tích lịch sử văn hóa Phố Hiến - thị xã Hưng Yên
Bao gồm các di tích ở thị xã Hưng Yên
và một phần các huyện Tiên Lữ, Kim
Động. Cụm di tích này nằm bên bờ sông
Hồng, nơi đây là trung tâm chính trị, kinh
tế, văn hóa của Hưng Yên xưa và nay.

Với cảnh quan đẹp, sự đa dạng của các di
tích, lịch sử văn hóa Phố Hiến được hình
thành bởi sự phong phú về phong tục tập
quán của người Hoa, người Nhật và
người Châu Âu. Phố Hiến xưa đã cổ nay
lại càng nổi tiếng hơn khi nhắc đến Văn
Miếu, chùa Phố, chùa Chuông, đền Trần,
đền Mẫu và đền Mây. Tiêu biểu của kiến
trúc đình chùa trong cụm di tích Phố Hiến có thể nhắc đến các chùa:
Chùa Hiến (thời Trần): Tại chùa có cây nhãn tổ, truyền rằng ngày xưa quả của cây nhãn
này được hái để dâng Đức Phật, cúng Thần hoàng và để quan lại mang tiến vua chúa, nó
cũng được xem như là biểu tượng của đất Hưng Yên.
Chùa Chuông: Nằm tại thôn Nhân Dục, phường Hiến Nam, thị xã Hưng Yên. Di vật đặc
biệt của chùa phải kể đến tấm bia đá cao 165cm, rộng 110cm dựng vào năm Tân Mão,
được trang trí hình rồng chầu mặt trời.
Đền Mẫu: Được coi là một danh lam thắng cảnh đẹp nhất của Phố Hiến, trước đền là hồ
Bán Nguyệt cây xanh râm mát, một bên là phố Nguyệt Hồ, một bên là đê Đại Hà không
gian thoáng đãng, nó nổi tiếng bởi có cây sanh, si, đa cổ thụ có tuổi thọ ngót 800 năm ở
phía trước cửa đền, nơi đây hàng năm thu hút hàng vạn khách tới thăm.
Phố Hiến
Toàn cảnh chùa Chuông
Văn Miếu: Là Văn Miếu hàng tỉnh và
còn gọi là Văn Miếu Xích Đằng, toạ trên
một khu đất cao, rộng gần 4000m
2
thuộc
thôn Xích Đằng, phường Lam Sơn. Hiện
vật quý nhất của Văn Miếu là 9 tấm bia
có ghi danh các nhà khoa bảng. Văn Miếu
là di tích minh chứng cho truyền thồng

hiếu học của người Hưng Yên.
Trải qua những thăng trầm, biến đổi, Phố Hiến xưa chỉ còn lại trong lưu truyền và một số
những di tích. Nếu Phố Hiến được đầu tư, tôn tạo thì nơi đây sẽ trở thành khu du lịch văn
hóa lịch sử có sức cuốn hút mạnh mẽ trong và ngoài nước theo các tour du lịch cả bằng
đường bộ, đường thủy để tham quan, dự lễ hội và nghiên cứu
Cụm di tích Đa Hòa - Dạ Trạch, Hàm Tử - Bãi Sậy
Phần lớn các điểm du lịch khu vực này nằm cạnh sông Hồng, có cảnh quan đẹp, khí hậu
trong lành Gắn liền với cụm di tích này là truyền thuyết và lễ hội Chử Đồng Tử - Tiên
Dung đã được nhà nước xếp hạng, là một trong những di tích lịch sử văn hóa quan trọng
quốc gia. Từ đây khách du lịch có thể thăm cảnh quan sinh thái đồng quê - bãi sông
Hồng, làng vườn, làng nghề gốm sứ Xuân Quan.
Cụm di tích Hải Thượng Lãn Ông - Phố Nối
Điển hình của cụm này là khu di tích đại danh y Lê Hữu Trác và nhiều chùa đình có kiến
trúc độc đáo như chùa Lãng (chùa Lạng) thôn Như Lãng, Minh Hải, Văn Lâm; chùa Thái
Lạc ở thôn Thái Lạc, Lạc Hồng, huyện Văn Lâm; đền thờ danh tướng Lý Thường Kiệt
thuộc huyện Yên Mỹ; đền Ủng huyện Ân Thi; đình Đa Ngưu huyện Văn Giang và khu
tưởng niệm cố Tổng bí thư Nguyễn Văn Linh.
Đây là cụm di tích nằm kề cận với Thủ đô Hà Nội, trên đường quốc lộ 5, nối trung tâm
du lịch Hà Nội - Phố Nối - Hải Phòng - Quảng Ninh. Ngoài các sản phẩm du lịch chính
của cụm này, tham quan các đình, chùa khách còn được tham quan làng nghề đúc đồng,
chạm bạc, cây dược liệu, tương Bần
Các lễ hội truyền thống
Văn Miếu Xích Đằng
Là một tỉnh đồng bằng gắn liền với nền văn minh lúa
nước, Hưng Yên có nhiều lễ hội phản ảnh khá rõ nét con
người, truyền thống, phong tục mà thông qua đó bày tỏ
lời cảm ơn của mình đối với trời đất, thần nước và cầu
mong có được cuộc sống ấm no, hạnh phúc, cảm ơn
những người có công đức, tưởng nhớ tới các vị anh hùng.
Nét độc đáo của nhiều lễ hội truyền thống ở Hưng Yên là

các lễ rước thường gắn liền với sông Hồng như lễ hội
Đền Mẫu, Đền Dạ Trạch, Đền Đa Hòa
Các tài nguyên du lịch khác
Làng nghề thủ công truyền thống: Làng nghề Đại Đồng - làng nghề đúc đồng thuộc xã
Đại Đồng, huyện Văn Lâm; nghề chạm bạc Phù Ủng thuộc làng Phù Ủng, huyện Ân Thi;
các làng nghề mây tre đan huyện Tiên Lữ; nghề dệt thảm thêu ren huyện Phù Cừ, Kim
Động; làng hương xạ ở Cao Thôn xã Bảo Khê; Nội Lễ - Nội Thuyền ở xã An Viên,
huyện Tiên Lữ; gốm sứ Xuân Quan; may da công nghiệp ở Ngọc Loan, Cự Dũng, Tứ
Trung, Văn Lâm.
Đặc sản và văn hóa ẩm thực: Thiên nhiên, đất đai sông nước đã ban tặng cho người
Hưng Yên những sản vật quý giá, phong phú mang đậm bản sắc của địa phương, đó là
các loại hoa quả và các món ăn độc đáo như:

• Nhãn lồng Phố Hiến: Nhãn là quà tặng trời cho đất Phố Hiến; Hưng Yên nổi
danh khắp đất nước cũng nhờ có nhãn. Kỳ lạ thay cũng là đất bãi sông Hồng mà
chỉ có nhãn Phố Hiến mới được coi là vua của loài nhãn,
nhà bác học Lê Quý Đôn đã từng mô tả ''mỗi lần bỏ vào
miệng thì tận trong răng lưỡi đã nảy ra vị thơm tựa như
nước thánh trời cho '' những yếu tố vi lượng nào đã làm
cho nhãn Phố Hiến có hương vị đặc biệt khác hẳn cây
nhãn ở nơi khác? Nhãn được trồng nhiều ở ven đê từ
Đằng Châu, Xích Đằng đến cửa sông Luộc. Được mùa
nhãn cả tỉnh ước thu được từ 150 - 200 tỷ đồng, hiện nay
vùng thị xã Hưng Yên và vùng phụ cận có nhiều gia đình
lập trang trại trồng toàn nhãn ghép và nhãn chiết giống quả, dưới vườn nhãn
người ta nuôi ong mật, đây cũng là loại thuốc quý. Thiên nhiên đã ưu đãi nơi dây
một vùng đất bạt ngàn nhãn, ong; khách về Hưng Yên thường đến thăm cây nhãn
tiến (thường quen gọi nhãn Tổ) có mấy trăm năm tuổi ở trước cửa Chùa Hiến.
• Sen: Nếu nhãn được tôn vinh là vương giả
chi quả thì sen cũng là vương hậu chi hoa.

Sen được trồng dọc theo ven đê sông Hồng
từ Văn Giang đến cửa sông Luộc xuống
tận La Tiến, Phù Cừ. Sen không chỉ là loại
hoa đẹp mà các bộ phận của cây sen đều là
thuốc chữa bệnh: Hạt sen chữa thần kinh
Lễ hội đền Hóa Dạ Trạch
Nhãn lồng
suy nhược, mất ngủ; tâm sen có vị đắng chữa tim hồi hộp, an thần; gương sen
phơi khô sắc uống có tác dụng cầm máu trong đại tiểu tiện băng huyết , hạt gạo
trong hoa sen dùng ướp chè; hạt sen dùng làm mứt sen. Trong các dịp Tết Nguyên
đán, Tết Trung thu những cô gái Hưng Yên thường làm ít mứt sen bày bán trong
cửa hàng với ngụ ý kén chồng.
• Bún thang: Những người Hưng Yên xa xứ mỗi lần về thăm quê hương thường
đến gốc cây sanh ăn một bát bún thang của nhà hàng Thế Kỷ. Cửa hàng không có
biển hiệu, khách ăn quen gọi cửa hàng bằng tên của bà. Người dân Hưng Yên gọi
bát bún thang của bà là một tác phẩm nghệ thuật đầy mầu sắc: Cái trắng của bún
Vân Tiêu làm nền, cái vàng của nhân lươn, nhân gà, nó được tôn nên bởi một số
gia vị rau răm, mắm tôm và đặc biệt là nước dùng. Bún thang làm không khó,
nhưng cũng không phải dễ, nguyên liệu đều là sản phẩm của Hưng Yên, chế biến
đủ độ chín, liều lượng không non tay cũng không già lửa. Lươn thui rồi mới mổ
để không mất máu. Bún thang là món ăn nhiều đạm, bổ dưỡng, nó là nỗi nhớ của
Hưng Yên.

• Tương Bần: ''Tương cà gia bản'', tương là món ăn
mang ý nghĩa cộng đồng. Tương Bần nổi tiếng
bởi nó được chế biến từ gạo nếp cái, đỗ tương ta
hạt nhỏ, đặc biệt nước để làm tương Bần phải là
nước giếng đất. Làng Bần có một cái giếng duy
nhất dùng để lấy nước làm tương, không được
dùng vào việc tắm, rửa khác. Làm tương là cả một

nghệ thuật, từ việc rang đỗ thì phải rang với cát,
đỗ chín vàng đều, ủ mốc phải dùng lá khoai, lá
sen, khi mốc lên hoa hòe, cầm lắm mốc lên tay
phải nhẹ xốp, chum đựng tương được cọ rửa sạch
sẽ và ngâm nước vài lần, khi ngả tương phải chọn ngày nắng, sau đó cứ sáng ra
người ta lấy gậy (loại gậy làm chuyên để khuấy tương) khuấy đều từ trên xuống
vài lần rồi đậy lại bằng chậu sành, tránh nắng chứ không tránh nóng, tương để nâu
càng ngấu, càng ngon.
• Ếch om Phượng Tường: ''Đi thì nhớ vợ cùng con, về nhà lại nhớ ếch om Phượng
Tường''. Làng Phượng Tường ở huyện Tiên Lữ. Câu ca dao đó có từ lâu đời,
chứng tỏ là món ăn tuy dân dã nhưng nó mang đậm tính quê hương và đã được
nâng lên tới mức nghệ thuật trong khoa ẩm thực, và nó được chế biến nhiều món
khác nhau:
o Ếch mọc : Trước tiên phải lột sạch da, phải khéo từ miệng xuống chân còn
nguyên vẹn không để da bị thủng rách, thịt ếch đem băm nhỏ lẫn với vỏ
quýt khô, mọc nhĩ, nấm hương, thịt ba chỉ, trứng gà và một số gia vị tiêu,
ớt, bột ngọt rồi cho vào cối giã mịn, sau đó nhồi lại vào da thành hình con
ếch đặt lên đĩa để ngồi như ếch còn sống. Khi nhồi thì phải nhồi non như
ếch đói, cho vào nồi hấp để chín nở ra là vừa. Lúc sắp bắc ra lấy trứng gà
hoặc trứng vịt đánh nhuyễn dội lên mình ếch cho chảy xuống thành hình
hoa mướp. Khi đã ăn một lần thưởng thức tưởng không thể quên hương vị
của thứ đặc sản này.
Tương Bần
o Ếch om : Mổ bụng lấy hết ruột gan, chỉ bóc lấy lại mỡ áo tơi, đặt ếch lên
thớt dùng gọng dao dần thật kỹ cho nhuyễn xương, nhưng khi cầm lên vẫn
phải còn nguyên con ếch, sau đó ướp với gia vị gồm: mẻ, vỏ quýt khô,
mộc nhĩ, hạt tiêu, mắm tép, ngâm nước mỡ khoảng nửa giờ cho ngấm,
đoạn lấy lạt bó lại cho vào nồi nấu với măng, thịt ba chỉ, khi đun nhớ nhỏ
lửa cho sôi kỹ bắc xuống om cạnh bếp sao cho khi ếch chín nước chỉ còn
vừa một bát và có mầu vàng đậm, ếch phải nhừ, món này ăn với rau diếp,

xà lách, ăn rồi nhớ mãi không thể nào quên.
• Bánh dày làng Gầu: Từ bao đời nay bánh dày làng Gầu (xã Cửu Cao, huyện Văn
Giang) đã nổi tiếng như rượu Trương Xá, tương Bần. Bánh dày được làm từ gạo
nếp cái hoa vàng, được vo kỹ và ngâm nước sạch rồi đồ chín đem giã cho thật
mịn, nhân bánh được làm bằng đỗ xanh đãi sạch vỏ, thổi chín đánh nhuyễn nắm
thành nắm nhỏ, nếu làm bánh mặn thì làm nhân thịt nạc, bánh ngọt thì trộn đỗ
xanh với đường. Cái đặc sắc của bánh dày làng Gầu là gạo nếp phải được gieo
trồng trên đất làng Gầu, ngâm nước giếng làng Gầu và được chính bàn tay khéo
léo của các cô gái làng Gầu nặn mới thành tấm bánh xinh xắn, thơm ngon. Bánh
dày làng Gầu được khách xa gần đến đặt mua với số lượng lớn để phục vụ cho hội
nghị, tiệc cưới Tết đến xuân về, bánh dày được bày trang trọng trên bàn thờ để
cúng ông bà tổ tiên, đây cũng là nét đẹp văn hóa của quê hương.
• Chả gà Tiểu Quan: Ở thôn Tiểu Quan, xã Phùng Hưng, huyện Khoái Châu có
món chả gà nổi tiếng một vùng. Làm chả gà rất công phu, lấy thịt nạc, bỏ hết gân,
xương rồi chặt nhỏ cho vào cối giã, khi gần được trộn với lòng đỏ trứng gà, nước
mắm ngon, hạt tiêu, gừng, mỡ lợn thái hạt lựu rồi giã tiếp, giã xong lấy mo cau
xúc và phết thịt lên phên tre để nướng, việc phết thịt cũng không phải dễ dàng,
nếu mỏng quá thịt cháy và chảy sệ xuống lò, nếu dày quá thịt không chín đều,
nướng chả phải bằng than hoa, nếu là than nhãn thì càng tốt, đặc biệt nếu có quả
thông khô cho vào thì càng đượm, càng thơm. Ăn chả gà đúng hơn là thưởng thức
một món ăn độc đáo, không ăn bỗ bã như những thứ khác. Vào dịp Tết trời se
lạnh bạn hữu quây quần nâng chén rượu Trương Xá với chả gà, chiều xuân vào
tối lúc nào không hay.
/>Hưng Yên (Hán tự: 興興) là một tỉnh nằm ở trung tâm đồng bằng sông Hồng Việt Nam.
Trung tâm hành chính của tỉnh là thành phố Hưng Yên nằm cách thủ đô Hà Nội 64 km về
phía đông nam, cách thành phố Hải Dương 50 km về phía tây nam. Phía bắc giáp tỉnh
Bắc Ninh, phía đông giáp tỉnh Hải Dương, phía tây và tây bắc giáp thủ đô Hà Nội, phía
nam giáp tỉnh Thái Bình và phía tây nam giáp tỉnh Hà Nam. Trong quy hoạch xây dựng,
tỉnh này thuộc vùng Hà Nội
Mục lục

[ẩn]
• 1 Hành chính
• 2 Lịch sử
• 3 Điều kiện tự nhiên
o 3.1 Tọa độ
• 4 Dân số
o 4.1 Thành phần dân số
• 5 Kinh tế
o 5.1 Giao thông
• 6 Giáo dục
• 7 Văn hóa - xã hội, các di tích lịch sử
o 7.1 Danh nhân
o 7.2 Di tích lịch sử
o 7.3 Tiềm Năng Du Lịch
o 7.4 Đặc sản
• 8 Chú thích
• 9 Liên kết ngoài
[sửa] Hành chính
Tỉnh Hưng Yên được phân chia thành 10 đơn vị hành chính bao gồm thành phố Hưng
Yên và 9 huyện:
• Thành phố Hưng Yên (7 phường, 5 xã)
• Ân Thi (1 thị trấn, 20 xã)
• Khoái Châu (1 thị trấn, 25 xã)
• Kim Động (1 thị trấn, 19 xã)
• Mỹ Hào (1 thị trấn, 12 xã)
• Phù Cừ (1 thị trấn, 13 xã)
• Tiên Lữ (1 thị trấn, 18 xã)
• Văn Giang (1 thị trấn, 10 xã)
• Văn Lâm (1 thị trấn, 10 xã)
• Yên Mỹ (1 thị trấn, 16 xã)

Hưng Yên có 163 xã, phường và thị trấn
Thống kê đến ngày 30/06/2004 Tỉnh Hưng Yên có tổng số xã, phường, thị trấn: 161; xã:
145, phường: 7, thị trấn: 9.
• 323. Thị xã Hưng Yên 7 phường, 5 xã: Phường An Tảo, Phường Hiến Nam,
Phường Hồng Châu, Phường Lam Sơn, Phường Lê Lợi, Phường Minh Khai,
Phường Quang Trung, Xã Bảo Khê, Xã Hồng Nam, Xã Liên Phương, Xã Quảng
Châu, Xã Trung Nghĩa.

×