SÁCH TỐ VẤN
Thiên ba mươi bảy: KHÍ QUYẾT LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Năm Tàng, sáu Phủ, hàn nhiệt cùng chuyển di như thế nào? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Thận di hàn tới Tỳ, gây nên chứng ung, thũng, thiểu khí [2]. Tỳ di hàn
tới Can, gây nên chứng ung thũng, co gân. Can di hàn tới Tâm, gây nên
chứng cuồng và Cách trung [3]. Tâm di hàn tới Phế, gây nên chứng Phế tiêu,
Phế tiêu là một chứng uống vào một phần, đi tiểu ra hai phần không thể chữa
được [4]. Phế di hàn tới Thận, gây nên chứng Dũng thủy, “Dũng thủy” là
một chứng án vào phúc bộ không kiên, thủy khí ký túc ở Đại trường, đi
nhanh thời trong bụng kêu óc ách, như túi chứa nước. Hoàn toàn là thủy
bệnh [5].
Tỳ di nhiệt tơí Can, thời gây nên chứng kinh, và Nục [6]. Can di nhiệt
tới Tâm thời chết [7]. Tâm di nhiệt tới Phế, gây nên chứng Cách tiêu [8].
Phế di nhiệt tới Thận, gây nên chứng Nhu chí [9]. Thận di nhiệt tới Tỳ, gây
nên hư và trường tiết, khó chữa [10].
Bào di nhiệt tới Bàng quang, gây nên chứng “long” và tiểu ra huyết
[11]. Bàng quang di nhiệt tới Tiểu trường [12].
Cách trường không thấm xuống được, gây nên chứng lở nát trong
miệng [13]. Tiểu trường di nhiệt tới Đại trường, gây nên chứng phục giả,
chứng Trĩ [14]. Đại trường di nhiệt tới Vị ăn nhiều mà gầy mòn, gọi là
chứng Thực diệc [15]. Vị di nhiệt tới đởm cũng gọi là chứng thực diệc [16].
Đởm di nhiệt tới Não, thời đau nhức ở trán và Ty uyên, rồi lại thêm cả
chứng mục và mờ mắt. Đó, đều gây nên bởi khí quyết (1) [17].
Thiên ba mươi tám: KHÁI LUẬN
Hoàng Đế hỏi:
Bệnh ở Phế, mà thành chứng ho, là vì sao? [1]
Kỳ Bá thưa rằng:
Năm Tàng sáu Phủ, đều gây nên chứng “khái” không riêng gì một Phế
[].
Xin cho biết chứng trạng [3]
Bì mao, gốc sinh ra tự Phế. Bào mao mắc phải tà khí trước, tà khí liền
theo với chỗ gốc sinh ra nóù [4].
Các thức uống ăn có tính lạnh lọt vào Vị theo Phế mạch dẫn lên Phế,
thời Phế hàn, Phế hàn thời trong ngoài đều có tà, tà ký túc luôn ở đó, liên
gây nên chứng Phế khái [5].
Năm Tàng đều theo về từng mùa, để mắc bệnh, nếu không phải mùa,
sẽ truyền lẫn cho nhau [6].
Người với trời đất, “tương tham”, cho nên năm Tàng đều theo từng
mùa để chủ trị [7].
Cảm vì hàn thời mắc bệnh, nhẹ thời gây nên chứng khái, nặng thời
gây nên chứng tiết, chứng thống (đau) [8].
Gặp mùa Thu, thời Phế bị tà trước, gặp mùa Xuân, thời Can bị tà
trước, gặp mùa Hạ thời Tâm bị tà trước, gặp chí âm Thời Tỳ bị tà trước, gặp
mùa Đông thời Thận bị tà trước [9].
Hoàng Đế hỏi:
Chứng trạng khác nhau thế nào? [14]
Kỳ Bá thưa rằng:
Chứng Trạng của Phế khái, khái mà thở suyễn thành tiếng, quá lắm
thời nhổ ra huyết [16]. Chứng Trạng của Tâm khái, khái thời Tâm thống,
trong cuống họng vướng mắc như nghẹn, quá lắm thời yết thũng, hầu tý
[17]. Chứng trạng của Can khái, khái thời hai hiếp đau, quá lắm thời không
thể trở mình, trở mình thời dươi Khư (dưới hiếp, tức lá lách) đầy [18].
Chứng trạng của Tỳ khái, khái thời Hữu hiếp đau, đau âm ỷ lên cả vai và
lưng, quá lắm thời không thể cử động, cử động thời khái. Chứng trạng của
Thận khái, khái thời đau nhức cả vai lưng, quá lắm thời khái ra dãi dây.
Hoàng Đế hỏi:
Chứng trạng của khái do sáu Phủ, thế nào? [20]
Kỳ Bá thưa rằng: [22]
Năm Tàng mắc khái lâu, sẽ đi sang sáu Phủ. Tỳ khái không dứt, thời
di sang Vị [22]. Chứng trạng của Vị khái, lúc khái thường nóùân, quá lắm
nóùân ra cả giun [23]. Can khái không dứt, thời di sang Đởm [24]. Chứng
trạng của Đởm khái, lúc khái nóùân ra cả Đởm trấp (chua, đắng) [25]. Tâm
khái không dứt, thời đi xuống Tiểu trường [26]. Chứng trạng của Tiểu
trường khái, lúc khái thời thất khí (trung tiện), khí với khái đều mất [27].
Thận khái không dứt, di sang Bàng quang [28]. Chứng trạng của Bàng
quang khái, lúc khái thời di niệu (són đái) [29]. Khái lâu không dứt thời di
tới Tam tiêu. Chứng trạng của Tam tiêu khái, lúc khái thời phúc mãn, không
muốn uống ăn [30]. Chứng đó đều tụ ở Vị, liên quan lên Phế, khiến bệnh
nhân sinh nhiều nước mũi nước dãi, mặt phù thũng, do khí nghịch gây nên
[31]
Phương pháp liệu trị thế nào?
Trị Tàng thời trị ở Du, trị Phủ thời trị ở “hợp”, nếu phù thũng thời trị
ở kinh (1) [32].