Tải bản đầy đủ (.pdf) (31 trang)

Ảnh hưởng của các phương pháp nuôi dưỡng (cho ăn và cho uống) của vitamin E đến năng suất sinh trưởng ở gà thịt pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (227.03 KB, 31 trang )

Ảnh hưởng của các phương pháp nuôi
dưỡng (cho ăn và cho uống) của vitamin
E đến năng suất sinh trưởng ở gà thịt

Tóm tắt
Nghiên cứu này được khảo sát để so sánh ảnh hưởng của vitamin E
khi bổ xung hoặc trong thức ăn hoặc trong nước uống đến năng suất và chất
lượng thịt ở gà. Trong một thí nghiệm cho ăn 6 tuần, tổng số là 330 con gà
thịt được bắt ngẫu nhiên vào 5 ô chuồng thí nghiệm. Các lô thí nghiệm là:
1. 0ppm vitamin E .
2. 10ppm vitamin E trong thức ăn
3. 20ppm vitamin E trong thức ăn
4. 5ppm vitamin E trong nước uống
5. 10ppm vitamin E trong nước uống

Trong giai đoạn đầu (0-3 tuần) gà ở các nhóm không bổ sung vitamin
E tăng trọng chậm hơn (p<0,05) so với các nhóm có bổ sung vitamin E và có
xu hướng giống hệt nhau theo dõi thấy trong giai đoạn kết thúc thí nghiệm
(4-6 tuần) và toàn bộ giai đoạn (0-6 tuần). Lượng thức ăn ăn được cao hơn
có ý nghĩa ở nhóm bổ sung vitamin E trong thức ăn so với nhóm bổ sung
vitamin E trong nước uống và ở các mức cao hơn so với các nhóm có mức
độ bổ sung thấp hơn. Các nghiên cứu về tỉ lệ tiêu hóa chất dinh dưỡng khảo
sát sau 10 năm và 35 ngày ở thí nghiệm cho ăn cho thấy rằng tỉ lệ tiêu hóa
của tất cả các chất dinh dưỡng cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) ở các nhóm có
bổ sung vitamin E so với nhóm không bổ sung vitamin E. Tỉ lệ phần trăm
thịt xẻ cao hơn ở các nhóm có bổ sung vitamin E, khi bổ sung vao thức ăn và
ở mức cao hơn khi so sánh với tỉ lệ tương ứng của chúng. Xu hướng tương
tự lưu ý với hướng về độ chắc của xương. Hàm lượng canxi và photpho
trong xương đòn (xương ống chân) cũng cao hơn có ý nghĩa ( p<0,05) ở
nhóm có bổ sung vitamin E. các nhóm cho ăn trong thức ăn ở các mức cao
hơn so với các nhóm khác. Các giá trị TBARS đo lường sau 5 và 10 ngày


bảo quản, chúng phản ánh mức độ ôxi hóa, cho thấy mức độ thấp có ý nghĩa
ở các chế độ ăn có bổ sung vitamin E. Mức độ vitamin E trong cơ và trong
huyết tương cũng cho thấy tương quan tuyến tính và dương với các mức độ
bổ sung cả ở trong nước và trong thức ăn. Toàn bộ có thể nhận thấy rằng bổ
sung vitamin E là có lợi ích và không khác nhau nhiều khi bổ sung trong
thức ăn hoặc trong nước uống ở các mức độ đã đo lường được trong nghiên
cứu này
(Asian-Aust. J. Anim. Sci. 2004. Vol 17,No9: 1260-1265)

Mở đầu
Gà thịt trong điều kiện áp lực liên tục do tốc độ sinh trưởng nhanh,
các yếu tố bệnh lý và các điều kiện môi trường thay đổi thường xuyên trong
chuồng (McCorke and Glick 1980). Kết quả nêu nên rằng bổ sung vitamin
E có vai trò bảo vệ nào đó trong chính những điều kiện áp lực ấy. VITAMIN
E có giá trị trong chăn nuôi là dạng alpha-tocopherol trong khẩu phần ăn gà
thịt đã trở thành nhu cầu trong hầu hết các công thức thức ăn trong những
ngày này là tocopherol có vai trò bảo vệ chống ôxi hóa ở các màng sinh học
(Jacobsen và cs., 1995). Nhu cầu vitamin E của gà con, (NRC, 1994) là 10IU
trong mỗi kg khẩu phần nhưng có nhiều báo cáo nghiên cứu có sẵn đã cho
phép khẩu phần vitamin E cao sẽ có lợi hơn ( Mazija và cs., 1992; Mcllory
và cs., 1993 ; Haq và cs., 1996), với những ảnh hưởng như nâng cao tăng
trọng và miễn dịch. Việc bổ sung vitamin E trong khẩu phần ăn của gia súc
sản xuất thịt có hiệu quả nâng cao về mức độ vitamin E trong cơ và giảm
thấp tính nhạy cảm của cơ với oxi hóa lipit.
Vitamin E được bổ sung hầu hết trong thức ăn và cả trong nước uống
trong chăn nuôi gà thịt. Hầu như chưa có báo cáo nào có giá trị khi so sánh
trực tiếp các phương pháp cho ăn ( cho vào thức ăn so với cho vào nước
uống) thực hiện theo hướng vào bất cứ phương pháp bổ sung chất dinh
dưỡng vi lượng. Mục tiêu của nghiên cứu này là để so sánh ảnh hưởng của
vitamin E đến năng suất và chất lượng thịt khi bổ sung hoặc vào thức ăn

hoặc vào nước uống cho gà thịt.

Vật liệu và phương pháp
330 con gà thịt con giống Ross 4 ngày tuổi thương phẩm, khối lượng
cơ thể trung bình là 56,16g, được nuôi trong một giai đoạn 6 tuần trong
phòng có nguyên liệu rải trấu dưới nền làm chất lót, trong điều kiện nhiệt độ
được điều khiển ngay từ tuần thứ 1, và có quạt thông gió. Kích thước
chuồng là 2mx2m. Gà mới nở được nuôi với khẩu phần gà con thương phẩm
trong 3 ngày sau đó là khẩu phần thí nghiệm tương ứng. Nhiệt độ phòng
không được điều khiển ngoại trừ tuần đầu ( 22 đến 30
0
C) vì đó là mùa hè ở
Hàn Quốc ( tháng 6-tháng8). Gà được cho ăn và cho uống tự do. Các khẩu
phần cơ sở (dạng Mash) được lập công thức gồm có 22,4% và 20,26%
protein thô trong giai đoạn đầu (0 đến 3 tuần) và giai đoạn cuối (4 đến 6
tuần), tương ứng , thể hiện ở bảng 1. Các lô (1) 0ppm, (2) 10ppm vitamin E
trong thức ăn, lô (3) 20ppm vitamin E trong thức ăn, lô (4) 5ppm vitamin E
trong nước uống và lô (5) 10ppm vitamin E trong nước uống. Vitamin E
được sử dụng là Medivita ETM, là một phức chất glycol vitamin E-
polyethylene do công ty khoa học đời sống sản xuất (Seoul Hàn Quốc).
Công ty này đã phát triển sản xuất Medivita ETM ở dạng bột, được bổ sung
vào thức ăn, cũng như ở dạng lỏng, mà được bổ sung vào nước uống. Các
mức vitamin E trong thức ăn và trong nước uống này được so sánh sử dụng
theo kinh nghiệm mà lượng nước uống được gấp 2 lần lượng thức ăn ăn
được (Leeson và Summers, 1991).
Trong một thí nghiệm nghiên cứu tỷ lệ tiêu hóa, 30 con gà (6 con mỗi
lô) được chỉ định vào các chuồng nuôi cá thể để thu các mẫu phân. Các khẩu
phần ăn bắt đầu và kết thúc gồm có 0,25% oxit chrome là một chất đánh dấu
không tiêu hóa được cung cấp bổ sung cho gà thịt ở các độ tuổi 15 và 35
ngày tương ứng. Các mẫu phân của mỗi con được thu thập vào ngày thứ 4

sau khi cho ăn các khẩu phần đánh dấu tương ứng. Phân được sấy trong 1 lò
sấy ép không khí ở 60
0
C trong 3 ngày và sau đó tán và bảo quản để phân tích
hóa học. Tăng khối lượng cơ thể và lưọng thức ăn ăn được được ghi chép ở
các khoảng cách hàng tuần phân tích gần đúng về các mẫu phân được thực
hiện theo phương pháp của hiệp hội hóa phân tích văn phòng (AOAC)
(1990).Năng lượng thô được đo lường bằng bom calorimeter (Medel 1241,
Parr Instrument Co. Molin, IL), vitamin E với phương pháp sắc ký lỏng cao
áp HPLC (Waters,Model 486,USA) và Crome bằng máy đo hoạt phổ ( jasco
Co. Model V-550, Japan).
ở vào cuối giai đoạn thí nghiệm 10 con gà trong mỗi lô được giết mổ.
Các mẫu máu được thu thập để phân tích hàm lượng vitamin E trong huyết
tương và trong cơ cũng được làm lạnh đến tận lúc phân tích. Màu thịt của gà
được đo lường bằng máy đo màu khác nhau (Yasuda Seiko Co. CR 310,
Minolta, Japan) và được so sánh với giá trị màu chuẩn. Các tính trạng thân
thịt như là tỷ lệ phần trăm thịt xẻ, thịt ngực và mỡ bụng cũng được đo lường.
Khoáng trong xương được nghiên cứu về mức độ sức phá xương của xương
đòn, hàm lượng khoáng tổng số và hàm lượng canxi photpho. Đối với cả 2
hàm lượng xương đòn được tách khỏi mô mềm. Các mẫu xương sấy (100
0
C,
3 giờ) được tách chất béo bằng dầu ête trong 48 giờ. Xương đòn thích hợp
của mỗi con được sử dụng để xác định sức phá xương ( EZ test, Shimadzu,
Japan). Thịt ngực xay được bảo quản ở 1
0
C trong 10 ngày sau khi giết mổ để
xác định các chất phản ứng axit thiobarbituric (TBARS) là minigams
malonalnaldehyde (MDA/ kg) bằng phương pháp của Sinnhubber và Yu
(1977). Các dữ liệu được phân tích sử dụng mô hình tuyến tính chung và

phương pháp so sánh đối ngược của SAS (1985). Các dữ liệu được so sánh
trong các bảng giữa 2 nhóm bổ sung và không bổ sung, giữa 2 nhóm cho ăn
và cho uống cũng như giữa các mức vitamin E cao và thấp.

Kết quả nghiên cứu và thảo luận

Năng suất sinh trưởng và tỷ lệ tiêu hóa chất dinh dưỡng
ảnh hưởng của bổ sung vitamin E đến năng suất sinh trưởng của gà
thịt được ghi chép ở các giai đoạn 0-3 tuần và 4-6 tuần được trình bày ở
bảng 2. Các dữ liệu biểu lộ rằng có sự tăng lên về tăng khối lượng (p<0,05)
khi vitamin E được bổ sung hoặc trong thức ăn hoặc trong nước uống so với
các nhóm không bổ sung ở tất cả các giai đoạn đo lường. Tăng khối lượng
cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) khi duy nhất ở giai đoạn kết thúc ở khẩu phần
bổ sung trong thức ăn so với nhóm bổ sung trong nước uống và ở các mức
cao hơn so với mức thấp hơn, ở tất cả các mức đo lường. Kết quả này cho
thấy một khuynh hướng là mức vitamin E tăng lên trong khẩu phần hoặc
trong nước uống thì tăng khối lượng tăng lên. Trong giai đoạn bắt đầu, mặc
dầu có sự sai khác không có ý nghĩa về lượng thức ăn ăn được giữa các
nhóm bổ sung và không bổ sung nhưng tăng trọng cao hơn đã quan sát thấy
ở các khẩu phần ăn có bổ sung. Sự thay đổi có ý nghĩa về khối lượng cơ thể
trong giai đoạn bắt đầu có thể là vì tình trạng miễn dịch kém của gà ở độ tuổi
ban đầu và vai trò của vitamin E trong việc nâng cao miễn dịch. Lợi ích về
năng suất do nồng độ vitamin E trong khẩu phần cao sẽ chỉ được quan sát
thấy bằng sự xuất hiện của các gốc tự do tấn công vào hệ thống miễn dịch
(Franchini và cs., 1988 ; Rice và Kennedy, 1988). Stress mùa hè và stress
sinh trưởng có thể làm cho sản xuất các gốc tự do lipít tăng lên và kể từ đây
sinh trưởng tốt hơn được nhận thấy ở các nhóm bổ sung so với các nhóm
không bổ sung. Trái ngược với kết quả nghiên cứu của chúng tôi, Sheehy và
cs. (1991) không nhận thấy nâng cao có ý nghĩa về tăng khối lượng ngay cả
sau khi bổ sung vitamin E đến tận 180 mg /kg khẩu phần ăn. Lượng thức ăn

ăn được cao hơn có ý nghĩa đã theo dõi đựoc ở các nhóm bổ sung 20 ppm
vitamin E trong thức ăn so với các nhóm khác ở giai đoạn kết thúc và toàn
bộ giai đoạn nghiên cứu tiếp theo là ở mức 0ppm, 10ppm trong nước uống,
10ppm trong thức ăn và ít nhất ở mức 5ppm trong nhóm thí nghiệm cho
vitamin E vào nước uống. Lượng thức ăn ăn được cao hơn có ý nghĩa được
theo dõi thấy ở các nhóm cho ăn trong thức ăn so với các nhóm cho ăn trong
nước uống và ở mức vitamin E cao hơn so với nhóm bổ sung vitamin E thấp
hơn. Hiệu quả chuyển hóa thức ăn được nâng cao sau khi bổ sung vitamin E
trong khẩu phần và trong nước uống. Khuynh hướng tương tự được theo dõi
thấy trong giai đoạn cuối và toàn bộ giai đoạn nghiên cứu. Guo và cs. (2001)
đã ghi chép đựơc là bổ sung vitamin E ở mức 0, 5, 10, 50, 100mg/kg cho gà
thịt trong giai đoạn 0-3 tuần thì không làm ảnh hưởng đến lượng thức ăn ăn
được, nhưng có xu hướng nâng cao sinh trưởng và sử dụng thức ăn khi so
sánh giữa bổ sung vào thức ăn và nước uống, Tỷ lệ chuyển hoá thức ăn được
theo dõi thấy nâng cao có ý nghĩa ở nhóm bổ sung vào nước uống so với các
nhóm bổ sung vào thức ăn và ở mức thấp so với mức cao trong giai đoạn kết
thúc và toàn bộ giai đoạn nghiên cứu. Lượng nước uống được các nhóm khi
vitamin E được bổ sung vào nước đã được đo lường và thấy rằng lượng
nước uống được xấp xỉ gấp 2 lần lường thức ăn ăn được ( bảng 3) từ đây xác
nhận thấy nồng độ tương đối của vitamin E bổ sung giữa 2 loại thức ăn và
nước uống. Lượng nước uống được chỉ được đo lường trong giai đoạn đầu.
Bảng 1: Thành phần khẩu phần ăn cơ bản
Giai đoạn đầu (0- Giai đoạn cuối (4-
3 tuần) 6 tuần)
Thành phần (%)

Ngô 56.06 59.90
Bột đỗ tương (44%) 22.44 20.76
Bột ngô dẻo 7.0 8.00
Mỡ động vật 6.16 3.00

Tri-calci phosphate 6.00 5.70
Khoáng (bột đá) 0.92 1.12
Premixvitamin
1
0.59 0.87
Premix khoáng
2
0.10 0.10
Muối 0.20 0.20
L-lysine. HCl 0.25 0.25
DL-methionin (50%) - 0.03
Choline Cloride (25%) 0.20 -
Tổng cộng 0.08 0.07
Thành ph
ần hoá học tính toán
được (%)
100.00 100.00
ME (kcal/kg) 3200 3200
Protein thô 22.04 20.26
Ca 0.90 0.90
Phospho dự trữ 0.40 0.35
Lysine 1.14 1.00
Methionine 0.53 0.40
Methionine + cystein 0.90 0.75

Nghiên cứu tỷ lệ tiêu hóa chất dinh dưỡng được khảo sát sau 15 ngày
ở giai đoạn bắt đầu và 35 ngày ở giai đoạn kết thúc được trình bày ở bảng 4.
Tỷ lệ tiêu hóa năng lượng thô, protein thô và mỡ tổng số được nhận thấy là
thấp hơn có ý nghĩa (p<0,05) ở khẩu phần ăn không bổ sung so với các khẩu
phần ăn có bổ sung ở cả 2 giai đoạn đầu và cuối và kết quả này sẽ làm ảnh

hưởng đến tăng khối lượng. Khi so sánh giữa bổ sung vào thức ăn và vào
nước uống, tỷ lệ tiêu hóa cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) của năng lượng thô
được theo dõi thấy chỉ duy nhất trong giai đoạn đầu nhưng tỷ lệ tiêu hóa
protein thô được theo dõi thấy cao hơn ở cả 2 giai đoạn khi bổ sung vitamin
E vào thức ăn so với vào nước uống. Tỷ lệ tiêu hóa protein thô tăng lên
tương tự đã theo dõi thấy ở mức bổ sung vitamin E cao hơn so với các mức
thấp hơn ở cả 2 giai đoạn. Các mối sai khác về tỷ lệ tiêu hóa chất dinh
dưỡng giữa 2 cách bổ sung thức ăn và nước uống tương đối thấp.

Bảng 2: ảnh hưởng của phương pháp cho ăn Vitamine E (cho ăn và
cho uống) đến năng suất sinh trưởng của gà thịt.


Đ
ối
chứng

Cho ăn

Cho
uống
So sánh
2

g
iai
đoạn
đầu (0-
3 tuần)


0
1
0
2
0
5
1
0
S
E
1

1

2

3

T
ăng
4
5
5
5
5
6
0 N 0
khối
lượng
(g)

64 c 15 ab 27 a 09 b 20 ab .24 .0001 S * .0395
T
h
ức ăn
ăn
được
(g)
9
84
9
78
1
015
9
74
9
81
4
.12
N
S
0
.0002
0
.0001
F
CR
2
.12 a
1

.90 b
1
.93 b
1
.91 b
1
.89 b
0
.02
0
.0001
N
S
N
S
G
iai
đoạn
cuối
(4-6
tuần)














T
ăng
khối
lượng
(g)
9
17 c
9
89 b
1
004 a
9
87 b
9
92 b
8
.34
0
.0001
0
.041
0
.0058
T
h
ức ăn

ăn
được
(g)
2
468 b
2
316 c
2
493 a
2
317 c
2
321 c
2
1.40
0
.0001
0
.0001
0
.0001
F
CR
2
.69 a
2
.34 c
2
.48 b
2

.35 c
2
.34 c
0
.04
0
.0001
0
.0001
0
.0001
T
oàn b

quá
trình













(0-6

tuần)
T
ăng
khối
lượng
(g)
1
381 c
1
504 b
1
531 a
1
496 b
1
512 ab

1
4.43
0
.0001
N
S
0
.0091
T
h
ức ăn
ăn
được

(g)
3
452 b
3
294 c
3
508 a
3
291 c
3
302 c
2
4.67
0
.0001
0
.0001
0
.0001
F
CR
2
.50 a
2
.19 c
2
.29 b
2
.20 c
2

.18 c
0
.03
0
.0001
0
.0006
0
.0017
a, b, c, d Các giá trị trung bình trong cùng hàng có các chữ nhỏ khác
nhau thì khác nhau có ý nghĩa (p<0.05).
1
Sai số chuẩn tính chung.
2
1: không bổ sung so với bổ sung, 2: thức
ăn so với nước uống 3: mức thấp so với cao. * không có ý nghĩa (p>0.05).

ảnh hưởng đến các tính trạng thân thịt
Tỷ lệ phần trăm thịt xẻ cao hơn có ý nghĩa (p<0,05) ở các nhóm có bổ
sung vitamin E cao hơn nhóm không bổ sung (bảng 5). Tăng khối lượng
tăng lên được phản ánh ở tỷ lệ phần trăm thịt xẻ cao hơn trong các nhóm có
bổ sung vitamin E. Tỷ lệ phần trăm thịt xẻ và tỷ lệ phần trăm thịt ngực cao
hơn cũng được theo dõi thấy khi vitamin E được cho ăn trong thức ăn cao
hơn trong nước uống và ở mức vitamin E cao so với vitamin E thấp khi bổ
sung. Quan sát thấy tỷ lệ phần trăm mỡ bụng không thấy sai khác nhau khi
bổ sung vitamin E.

Bảng 3: Tiêu thụ nước hàng tuần ở các nhóm cho ăn Vitamine E trong
nước và trong thức ăn: tỷ lệ nước ở giai đoạn đầu (0-3 tuần).
Vita Tiêu thụ nư

ớc
T Tiêu t
ốn
Nước/
(kg) thức ăn (kg) mine E
t
uần 1
t
uần 2
t
uần 3
ổng số
tr
ung bình
1 con
tr
ung bình
1 nhóm
(n=66)
thức ăn
5
ppm
2
0
4
0
6
0
1
20

0.
974
64
.28
1:1.87

10
ppm
2
0
4
0
6
0
1
20
0.
981
64
.75
1:1.85


Bảng 4: ảnh hưởng của phương pháp cho ăn Vitamine E (cho ăn và
cho uống) đến tỷ lệ tiêu hoá chất dinh dưỡng (%) của gà thịt.
Đối
chứng
Cho ăn Cho uống SE
1


So sánh
giai
đo
ạn đầu
(0-3 tuần)
0 10 20 5 10 1

Năng
lượng thô
70.01
c
71.52
b
73.00
a
71.13
b
72.43
a
0.29

0.0001
Pr
thô
71.18
d
72.46
bc
73.73
a

71.97
c
72.87
b
0.24

0.0001
Mỡ
tổng số
72.85
b
73.82
a
73.86
a
73.86
a
73.84
a
0.11

0.0001
Giai
đo
ạn cuối
(4-6 tuần)

Năng
lượng thô
70.82

c
74.18
a
73.41
b
73.91
ab
74.32
a
0.35

0.0001
Pr
thô
70.71
c
72.28
b
73.16
a
72.11
b
72.31
b
0.22

0.0001
Mỡ
tổng số
70.32

b
71.59
a
71.18
a
71.43
a
71.56
a
0.15

0.0001
a, b, c, d Các giá trị trung bình trong cùng hàng có các chữ nhỏ khác
nhau thì khác nhau có ý nghĩa (p<0.05).
1
Sai số chuẩn tính chung.
2
1: không bổ sung so với bổ sung, 2: thức
ăn so với nước uống 3: mức thấp so với cao. * không có ý nghĩa (p>0.05).

Bảng 5: ảnh hưởng của phương pháp cho ăn Vitamine E (cho ăn và
cho uống) đến chất lượng thịt của gà thịt.


Đ
ối
chứng

Cho ăn Cho
uống

S
E
1

So sánh
2

g
iai
đoạn
đầu
(0-3
tuần)
0
1
0
2
0
5
1
0
1

2

3

T
hân
thịt

(%)

















T
ỷ lệ
thịt xẻ

7
2.83 d

7
3.51 c
7
5.58 a
7

3.48 c
7
4.11 b
0
.25
0
.0001
0
.0001
0
.0001
T
hịt
ngực
1
0.86 d

1
1.34 c
1
3.29 a
1
1.26 c
1
2.23 b
0
.23
0
.0001
0

.0001
0
.0001
M
ỡ bụng

2
.51
2
.37
2
.61
2
.34
2
.49
0
.03
N
S*
N
S
0
.0083
M
àu s
ắc
thịt


















L
5
8.81
5
9.14
5
8.92
5
9.14
6
1.06
0
.35
N
S

N
S
N
S
a
9
.81
9
.15
9
.25
9
.16
9
.21
0
.11
N
S
N
S
N
S
b
7
.27 d
9
.25 bc
8
.74 c

9
.94 ab
1
0.18a
0
.29
0
.0001
0
.0015
N
S
a, b, c, d Các giá trị trung bình trong cùng hàng có các chữ nhỏ khác
nhau thì khác nhau có ý nghĩa (p<0.05).
1
Sai số chuẩn tính chung.
2
1: không bổ sung so với bổ sung, 2: thức
ăn so với nước uống 3: mức thấp so với cao. * không có ý nghĩa (p>0.05).

Bảng 6: Hàm lượng Vitamine E trong cơ và trong huyết tương và mức
TBARS trong thịt ngực sau khi bổ sung Vitamine E vào thức ăn và nước
uống.

Đ
ối
chứng

Cho ăn


Cho
uống
So sánh
2


0
1
0
2
0
5
1
0
S
E
1

1

2

3

H
uyết
tương
(àg/ml)
1
.39 d

5
.58 c
8
.60 a
5
.27 c
6
.65 b
0
.63
0.
0001
0.
0001
0.
0001
C
ơ (ppm)

0
.48 d
2
.46 c
4
.97 a
2
.98 b
2
.78 b
0

.38
0.
0001
0.
0001
0.
0001
T
BARS
(mg/kg)








0
d
0
.33 a
0
.30 a
0
.23 b
0
.29 ab

0

.27 ab

0
.01
0.
0347
N
S*
0.
0467
5
d
1
.52 a
1
.03 b
0
.77 d
1
.06 b
0
.88 c
0
.07
0.
0001
0.
0455
0.
0001

10
d
2
.72 a
1
.79 b
1
.57 c
1
.75 b
1
.65 bc

0
.11
0.
0001
N
S
0.
0150
a, b, c, d Các giá trị trung bình trong cùng hàng có các chữ nhỏ khác
nhau thì khác nhau có ý nghĩa (p<0.05).
1
Sai số chuẩn tính chung.
2
1: không bổ sung so với bổ sung, 2: thức
ăn so với nước uống 3: mức thấp so với cao. * không có ý nghĩa (p>0.05).
Bảng 7: ảnh hưởng của phương pháp cho ăn Vitamine E (cho ăn và
cho uống) đến đặc điểm xương và thành phần xương của gà thịt.


Đ
ối
chứng

Cho ăn

Cho
uống
So sánh
2


0
1
0
2
0
5
1
0
S
E
1

1

2

3


C
ác đ
ặc
điểm
xương

















S
ức chịu
2
0.29 c

2
4.63 b


2
5.33 a

2
3.52 d

2
4.14 c

0
.47
0
.0001
0
.0001
0
.0001

×