Tải bản đầy đủ (.pdf) (15 trang)

Sinh sản ở thực vật-2 ppsx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128.48 KB, 15 trang )


Sinh sản ở thực vật-2



3. một số ứng dụng trong nông nghiệp về
sinh sản vô tính và hữu tính

3.1. ứng dụng sinh sản vô tính

Phương pháp nhân giống bằng sinh sản vô tính
kết hợp dùng chất kích thích sinh trưởng thúc
đẩy nhanh quá trình tạo rễ, rút ngắn thời gian và
nhân nhanh cây mới ở mọi thời gian thích hợp,
đạt năng suất cao tạo cây ăn quả 4 mùa

- Giâm cành, lá, rễ:

Chuẩn bị các loại cành, đoạn thân (mía, sắn,
hoa giấy, dâu tằm, rau muống, chè, rau ngót), lá
(thu hải đờng, thuốc bỏng), rễ (hành búi, rau
cần, huệ, thược dược)
Tiến hành thí nghiêm: Làm đất tơi vụn, trộn 1/3
mùn hay phân mục, đánh thành luống nhỏ cao
10-12cm. Có thể dùng bùn trộn cát, hay cát non
tạo thành luống. Luống dưới bóng mát.
Cắt thân bánh tẻ nằm ở giữa cây (cắt vào sáng
sớm hay chiều tối) thành đoạn nhỏ (5-7cm), đặt
nghiêng 2/3 phần gốc trên rãnh luống, vun đất
và tưới ẩm. Có thể sử lý bằng chất kích thích ở
nồng độ 2000 – 8000ppm cho rễ ra nhanh.


Cắt các mảnh lá đặt nằm ngang lên đất ẩm (thu
hải đường, thuốc bỏng) vòng cung hay đứng (lá
lưỡi hổ) (xem hình sinh sản vô tính). Duy trì độ
ẩm như phần nêu trên. Theo dõi sự ra chồi và
thành cây mới.
Cắt rễ chùm thành từng phần nhỏ đem giâm và
theo dõi sự ra cây mới.
Mật độ cành giâm tuỳ thuộc vào kích thước và
thời vụ.
Từ sau lúc cắm cành đến lúc ra rễ, phải thường
xuyên tưới nước để độ ẩm trên mặt lá đạt 90-
95% và nền đất 70%. Nhiệt độ thích hợp cho
quá trình ra rễ là 20-25oC.

- Chiết cành: Cành đã bóc một đoạn vỏ. Có thể
vít cành vùi vào đất hay đắp bầu trên cành
Các cây ăn quả (vải, nhãn, ổi, mơ, mận, cam,
quít, bưởi…) trồng bằng cách chiết cành chóng
cho thu hoạch quả. Chọn cành chiết cũng tương
tự cành để giâm. Cành nhỏ có khả năng ra rễ tốt
hơn cành to (không được nhỏ quá)
Ghim chặt cành chiết và lấp đất ẩm lên trên. Từ
30 – 60 ngày cành mọc rễ, cắt rời cành chiết và
theo dõi sinh trởng.
Chuẩn bị đất bó bầu: 2/3 đất vườn hay bùn ao
phơi khô, đập nhỏ trộn với 1/3 mùn cưa, trấu,
rơm rác mục, rễ bèo tây. Làm ẩm 70% độ ẩm.
Mỗi bầu chiết có đường kính 6 – 8cm, chiều dài
10 – 12cm. Chọn ngày có thời tiết tốt, dùng dao
sắc cắt khoanh vỏ cách gốc cành 10 – 15cm.

Chiều dài khoanh vỏ gấp 1, 5 – 2 lần đường
kính cành chiết. Vỏ cắt sát đến lớp gỗ. ở cây có
nhựa mủ nên cắt vỏ buổi sáng, bó bầu chiết vào
buổi chiều. Phía ngoài bầu chiết bọc bằng giấy
nilông mỏng, buộc hai đầu bằng giây mềm và
chắc sao cho bầu chiết không xoay tròn quanh
cành chiết.
Nếu dùng chất kích thích (nồng độ 2000 –
4000ppm) dùng bông thấm vào chỗ cắt vỏ trước
khi bó bầu.

- Ghép cành: Ghép là sự kết hợp một cành ghép
lên gốc ghép (có đặc tính tốt về năng suất và
phẩm chất) tạo thành tổ hợp ghép cùng sinh
trưởng phát triển như một cây thống nhất.

Ghép áp cành: Thường chọn cây có quan hệ họ
hàng để làm gốc ghép. Ghép cùng giống cùng
loại dễ thành công nhất.

Chanh Eureka, chanh yên, chanh 4 mùa, cam
ngọt, cam voi Quảng Bình, trấp Thái Bình, quít
hôi, bưởi chua làm gốc ghép cho cam, quít,
chanh, bưởi.
Táo nhỏ quả, táo dai làm gốc ghép cho táo Gia
Lộc, táo Biên Hoà, táo Thiện Phiến.
Mít mật làm gốc ghép cho mít dai, mít tố nữ
Nhãn trơ làm gốc ghép cho nhãn +++g
Lê dại (mắc coọc) làm gốc ghép cho lê v.v…
Cũng có thể ghép cây khác họ: hồng gai làm

gốc ghép cho nhót tây, dâu tằm, hay chanh làm
gốc ghép cho lê.

Ghép áp: có tỷ lệ sống cao (90 – 95%). Cành
ghép có đường kính tương đương với gốc ghép
đặt sát nhau. Dùng dao sắc cắt vát một miếng
nhỏ (dài 1,5 – 2cm, rộng 0,4 – 0,5cm) vừa chạm
vào lớp gỗ ở cả cành và gốc ghép. Buộc chặt ở
vị trí cắt. Thường sau 30 – 40 ngày vết ghép liền
sẹo, cắt ngọn gốc ghép, cắt gốc cành ghép cách
chỗ buộc 2cm.
Phương pháp này có thể dùng nhân giống cây
hoa và cây cảnh.

Ghép nối cành

Cắt vát hình lưỡi gà, ngọn gốc ghép cách mặt
đất 10 – 15cm. Cũng cắt vát như vậy đoạn cành
ghép có cùng đường kính, có 2 – 3 chồi ngủ, đặt
khít lên gốc ghép. Buộc chặt bằng giải nilông
mảnh và dai. Buộc càng chặt càng tốt. Tưới ẩm.
Sau 30 – 35 ngày có thể mở giây buộc.
* Khi gốc ghép có kích thước lớn, có thể dùng
cách ghép nêm, ghép dưới vỏ.

Ghép nêm

Cắt ngang gốc ghép (cách mặt đất 10 – 20cm).
Dùng dao xẻ một rãnh dọc (sâu 3cm) ở chính
giữa thân đã cắt. Cành ghép chỉ để lại chồi nách

và cắt vát dài 2cm 2 bên, phần dưới tạo thành
một cái nêm.
Đặt nêm vào rãnh xẻ ở gốc ghép lệch về phía
vỏ để vỏ cành ghép và gốc ghép tương ứng với
nhau. Toàn bộ mặt cắt của nêm nằm lọt vào
rãnh. Có thể dùng 2 nêm. Buộc chặt gốc ghép
và cành ghép trong 15 – 20 ngày.

Ghép dưới vỏ

Cắt ngang gốc ghép (cách mặt đất 15 – 20cm).
Dùng dao sắc rạch lớp vỏ thành một đường
thẳng đứng, dài 3cm. Tách lớp vỏ ở hai bên
đường rạch một khoảng vừa đủ đặt cành ghép
(chỉ còn chồi nách). Cắt vát 1 bên phần dưới
cành ghép dài 3cm và đặt vào chỗ mở của vỏ
sao cho phần vỏ cành ghép và gốc ghép tiếp
súc với nhau. Buộc chặt chỗ ghép, sau 15 – 20
ngày tháo dây buộc.

- Ghép mắt: Là cách ghép phổ biến, áp dụng
cho nhiều loại cây có thể vận chuyển cành ghép
đi xa, ít bị nhiễm bệnh, kết quả cao.
Mắt ghép lấy ở cành bánh tẻ (đường kính gốc
cành 6 – 10mm, mỗi cành có 6 – 8 chồi ngủ ở
các nách lá to). Dùng dao sắc cắt mắt ghép
(hình 42.2) mỗi mắt có lớp gỗ rất mỏng phía
trong có kèm 2 đuôi 15 – 20mm. Lát cắt phải
thật “ngọt” tránh dập nát tế bào.


Ghép chữ T: Dùng dao ghép rạch 1 đường
ngang 1cm cách mặt đất 10 – 20cm. Sau đó
rạch 1 đường vuông góc dài 2cm ở giữa (hình
chữ T). Dùng dao tách vỏ theo chiều dọc, cầm
đuôi mắt ghép gài và đẩy nhẹ vào khe chữ T.
Buộc chặt và làm kín vết ghép. Sau 15 – 20
ngày có thể mở dây buộc. 7 – 10 ngày sau cắt
ngọn gốc ghép để chất dinh dưỡng ở gốc ghép
nuôi mắt ghép.

Ghép cửa sổ: Dùng dao ghép mở cửa sổ 1 x
2cm ở vỏ gốc ghép. Cắt một miếng vỏ trên cành
ghép có mắt ghép ở giữa với kích thước bằng
miệng cửa sổ. Đặt mắt ghép vào và quấn dây
nilông bịt cửa sổ lại. Sau 15 – 20 ngày có thể
mở dây buộc, 7 – 10 ngày sau đó cắt nghiêng
45o ngọn gốc ghép cách mắt ghép 2cm.

* Chăm sóc cành ghép
Tưới nước, phun thuốc trừ sâu bệnh và bón
phân. Khi cành ghép mọc cao 40 – 50cm, tuỳ
giống cây ăn quả, tuỳ dạng hình gốc ghép mà
tiến hành tỉa cành con, bấm ngọn, tạo tán cho
cành ghép. Trên mỗi cành ghép chỉ để 2 – 3
cành chính khoẻ phân bố về mọi phía. Khi cành
chính mọc dài 20 – 30cm lại tiếp tục bấm ngọn
để mỗi cành chính 2 – 3 cành cấp 2.

3.2. ứng dụng sinh sản hữu tính


- Dùng đất đèn sản sinh khí etylen làm quả chín
nhanh
- auxin và nhiệt độ thấp giúp bảo quản quả
được lâu
- Tạo quả không hạt: dùng auxin và giberelin
phun vào hoa trước khi thụ phấn sẽ tạo quả
không hạt (thường sử dụng cho cà chuat, bầu
bí, cam, chanh, nho, táo, lê, dâu tây, dưa chuột,
dưa hấu …)
- Thụ phấn bổ khuyết ở ngô
Làm một cái phễu bằng bìa cứng đường kính 10
– 15cm, cuống phễu lót lớp vải màn.
Khi ngô đã trổ cờ và phun râu thì tiến hành thụ
phấn. Dùng tay rung nhẹ cho phấn hoa rơi vào
phễu (nếu lỗ vải màn rộng có thể đặt 1 mảnh
giấy tròn để giữ hạt phấn). Sau 1 ngày đêm cho
hạt phấn nảy mầm đem rây phấn hoa lên râu
mới phun của bắt ngô (hoa cái). Theo dõi sinh
trưởng và so sánh kết quả (số hạt, trọng lượng
hạt) ở ngô được thụ phấn bổ khuyết và ngô tự
thụ phấn (nhờ gió).

III. Câu hỏi và bài tập

Câu 1. Hãy nêu một số ví dụ về sinh sản vô tính
tự nhiên và sinh sản vô tính nhân tạo?
Câu 2. Vẽ và chú thích đầy đủ một bông hoa
lưỡng tính?
Câu 3. Tự thụ phấn và thụ phấn chéo xảy ra
trong những trường hợp nào? Nêu sự khác

nhau giữa hoa thụ phấn nhờ gió và hoa thụ
phấn nhờ côn trùng?
Câu 4. Có khi nào một hoa lưỡng tính lại cần sự
thụ phấn chéo do côn trùng không?
Câu 5. Nêu sự chín quả, hạt?

IV. Trả lời câu hỏi và bài tập

Câu 1. Một số ví dụ:
1. Sinh sản vô tính tự nhiên: Trong tự nhiên,
thực vật có khả năng tạo những cơ thể mới từ
một bộ phận của thân bò (dâu tây, rau má), thân
rễ (cỏ gấu), thân củ (khoai tây), lá cây (thuốc
bỏng), rễ củ (khoai lang).
2. Sinh sản vô tính nhân tạo: Là sự sinh sản từ
một bộ phận cắt rời của cây để tạo nên cây mới
do con người thực hiện. Các dạng sinh sản sinh
dưỡng nhân tạo gồm: giâm (cành, lá, rễ), chiết
(cành), ghép (cành, chồi), nuôi cấy mô- tế bào.
Câu 2. Gợi ý trả lời: Một bông hoa lưỡng tính là
một bông hoa có cả nhị và nhuỵ. Như vậy khi vẽ
cấu tạo đầy đủ của một bông hoa lưỡng tính sẽ
có các bộ phận phải chú thích như sau: cuống
hoa, đế hoa, đài hoa, tràng hoa, vòi nhị, bao
phấn, vòi nhuỵ, núm nhuỵ, bầu nhuỵ.
Câu 3. Tự thụ phấn xảy ra ở những hoa lưỡng
tính
Thụ phấn chéo xảy ra ở những hoa đơn tính
Sự khác nhau giữa các hoa thụ phấn chéo nhờ
gió và nhờ côn trùng:

Các hoa thụ phấn nhờ gió thường có cấu tạo rất
đơn giản, một số bộ phận có thể tiêu biến như
đài, tràng, nhị hoặc nhuỵ vươn cao, hoa không
mùi, hạt phấn nhỏ và nhiều,…
Các hoa thụ phấn nhờ côn trùng thường có màu
sắc sặc sỡ, có mùi thơm hoặc mùi hấp dẫn với
từng loại côn trùng. Hoa có cấu tạo và sắp xếp
vị trí của nhị hoặc nhuỵ thích hợp cho sự lấy hạt
phấn và đưa hạt phấn vào nhuỵ của côn trùng.
Câu 4. Hoa lưỡng tính vẫn có thể phải sử dụng
phương thức thụ phấn chéo nhờ côn trùng. Đó
là trong trường hợp sự chín của hạt phấn và
của nhuỵ không trùng nhau. Trong trường hợp
này nhiều khi hoa phải nhốt côn trùng qua đêm.
Câu 5. Nêu quá trình chín quả và hạt:
Sự chín của quả và hạt thường diễn ra theo thứ
tự thời gian như sau:
- Chín sinh lí: Từ lúc thu hoạch đến lúc có thể
nảy mầm. Đó là thời gian thành thục của hạt, củ,
quả. Thời kì này các chất kích thích sinh trưởng
giảm đến mức tối đa, ngược lại các chất ức chế
lại tăng đến mức tối đa, để đưa hạt vào thời kì
ngủ, nghỉ.
- Chín vật lí : Sự thay đổi độ cứng, mềm, sự
thay đổi màu sắc, sự thay đổi mùi vị.
- Chín hoá học: Sự thay đổi về hàm lượng các
chất như đường, axit, các chất dự trữ như:
phenol, alcanoic, antoxianin,…


×