Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Mai Hắc Đế pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (128 KB, 6 trang )

Mai Hắc Đế

M ai Thúc Loan - sử nhà Đường còn gọi là Mai Huyền Thành - quê ở
Mai Phụ ("gò họ Mai", tên nôm là Kẻ Mỏm), một làng chuyên làm muối ở
miền ven biển Thạch Hà, tỉnh Hà Tĩnh ngày nay, lúc bấy giờ giáp giới với
đất Chăm ở bên kia dải núi Nam Giới. Không rõ cha, ông theo họ mẹ. Sau
mẹ ông dời nhà lên ở vùng Ngọc Trừng (huyện Nam Đàn ngày nay). Mai
Thúc Loan nhà nghèo, phải làm nghề kiếm củi rồi đi ở đợ cho nhà giàu, chăn
trâu, cày ruộng. Ông rất khỏe và sáng dạ, người đen trũi, nổi tiếng giỏi vật cả
một vùng.
Theo phường săn học hỏi rồi trở thành thợ săn lành nghề, nhiều lần
Mai Thúc Loan giết được "chúa sơn lâm" khiến nhân dân trong vùng khâm
phục. Vì vậy, mọi người đã suy tôn Mai Thúc Loan làm chức "đầu phu" -
thủ lĩnh quân sự địa phương - của làng.
Châu Hoan (Nghệ Tĩnh) thời ấy luôn bị giặc Chà Và (Java), Côn Lôn
(Malaysia) cướp phá, nhất là ách đô hộ tàn bạo của nhà Đường làm cho nhân
dân vô cùng khổ sở. Đặc biệt nạn cống "quả lệ chi (quả vải)" là một gánh
nặng khôn cùng đối của nhân dân Hoan Châu. Nguyên do, ở Trường An, vua
nhà Đường có một nàng ái phi thường gọi là Dương Quý Phi nhan sắc tuyệt
vời mà tính tình cũng thật thất thường, nanh ác. Dương Quý Phi rất thích ăn
thứ quả xinh xắn chỉ ở "An Nam" mới có.
Cũng như mọi người dân đất Việt, Mai Thúc Loan phải đi phu (trên
giấy tờ quy định, nhân đinh chịu lực dịch cho nhà nước một năm 20 - 50
ngày), quanh năm phục dịch vất vả cho bọn đô hộ nhà Đường.
ở Nam Đàn, còn truyền lại một bài hát chầu văn kể tội bọn đô hộ nhà
Đường, vạch rõ nỗi thống khổ của nhân dân. Quan lại, quân lính nhà Đường
về làng đánh đập dân, vơ vét tơ lụa, tiền, thóc, bắt dân nộp cống vải quả, bắt
phu:
Nhớ khi nội thuộc Đường triều,
Giang sơn cố quốc nhiều điều ghê gai
Sâu quả vải vì ai vạch lá,


Ngựa hồng trần kể đã héo hon
Năm 722, Mai Thúc Loan kêu gọi những người dân phu đã cùng ông
phải đi gánh vải quả nộp cống cho chính quyền nhà Đường nổi dậy khởi
nghĩa. Hàng trăm người của các phường săn quanh vùng và sau đó, nhân tài
khắp các châu Hoan, Diễn, ái (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) cũng đến tụ
tập dưới cờ nghĩa. Thế lực nghĩa quân dần dần thêm mạnh. Sử nhà Đường
chép rằng Mai Thúc Loan đã liên kết dân chúng 32 châu.
Mai Thúc Loan lợi dụng địa thế vùng Sa Nam xây dựng căn cứ chống
giặc.
Đấy là vùng rừng núi rậm rạp nằm cạnh sông Lam ở khúc hiểm sâu.
Ông lấy Vệ Sơn làm trung tâm, đóng đại bản doanh của nghĩa quân. Dọc bờ
sông Lam, nghĩa quân đắp một chiến lũy dài hơn nghìn mét. Đấy là thành
Vạn An nổi tiếng, có núi Đụn (Hùng Sơn) làm chỗ dựa; phía trong núi là dải
thung lũng rộng vài chục mẫu, dùng làm nơi trữ lương thực, vũ khí; phía
ngoài núi, có nhiều đồn trại đóng ở cạnh sườn; chung quanh núi, sông Lam
vây bọc như con hào thiên nhiên. Bao quanh khu trung tâm (Vệ Sơn), nghĩa
quân xây dựng một hệ thống đồn trại nương tựa lẫn nhau: Biểu Sơn (hình
quả bầu), bảo vệ cánh tả, Liêu Sơn bảo vệ mặt trước, Ngọc Đái Sơn (hình
ngọc) cạnh thành Vạn An, là đồn tổng chỉ huy, thống lĩnh cả hai đạo quân
thủy bộ.
Mai Thúc Loan xưng đế và đóng đô ở thành Vạn An. Sử gọi ông là
Mai Hắc Đế (Vua đen họ Mai). Đấy là sự bác bỏ ngang tàng quyền thống trị
của đế chế Đường trên miền đất nước Việt vào giữa lúc đế chế Đường đạt
đến độ cực thịnh dưới thời Huyền Tông (Đường Minh Hoàng).
Người Việt miền xuôi cũng như tù trưởng và dân chúng miền núi
thuộc các "châu ki-mi" (châu chịu chế độ trói buộc của nhà Đường) của
Hoan Châu đô đốc phủ đều nhiệt liệt hưởng ứng cuộc khởi nghĩa. Mai Hắc
Đế còn cử người đi giao thiệp, liên kết với các nước Chăm Pa, Chân Lạp ở
phía tây và cả nước Kim Lân (Malaysia hiện nay) đặng có thêm lực lượng
chống nhà Đường.

Từ Vạn An, có một số quân từ các nước thuộc bán đảo Đông Dương
giúp sức, nghĩa quân tiến ra bắc, tiến công phủ thành Tống Bình (Hà Nội).
Bè lũ đô hộ Quang Sở Khách, trước khí thế ngút ngàn của cuộc chiến tranh
giải phóng dân tộc của người Việt, đã bỏ thành, chạy tháo thân về nước. Đất
nước được giải phóng, nhân dân khắp nơi nô nức theo Mai Hắc Đế, lực
lượng nghĩa quân phát triển tới hàng chục vạn người (Sử nhà Đường chép là
40 vạn!).
Nhưng lúc này nhà Đường còn mạnh, Vua Đường cử tên tướng nanh
vuốt Dương Tư Húc, đem 10 vạn quân cùng Quang Sở Khách tiến sang đàn
áp cuộc khởi nghĩa.
Sau nhiều trận đánh khốc liệt, từ lưu vực sông Hồng đến lưu vực sông
Lam, cuối cùng Mai Hắc Đế thất trận, nghĩa quân tan vỡ, một bộ phận rút
vào rừng. Hiện nay ở thung lũng Hùng Sơn (Rú Đụn) còn lăng mộ cha con
Mai Hắc Đế. Theo truyền thuyết dân gian sau khi Mai Hắc Đế bị bệnh mất ở
trong rừng, con ông đã nối ngôi được một thời gian, tức là Mai Thiệu Đế.
Quân xâm lược nhà Đường tiến hành tàn sát nhân dân rất dã man, chất
xác quân đắp thành gò cao để ghi công chinh phục, đề cao uy thế "thiên
triều", răn đe nhân dân Việt. Tội ác của giặc cũng ngày càng chồng chất cao
lên mãi.
Nhân dân Việt Nam đời đời nhớ ơn Mai Hắc Đế, lập đền thờ ông ở
trên núi Vệ Sơn và trong thung lũng Hùng Sơn. Một bài thơ chữ Hán còn ghi
trong Tiên chân báo huấn tân kinh để ở đền, ca tụng công đức ông như sau
(tạm dịch):
Hùng cứ châu Hoan đất một vùng,
Vạn An thành lũy khói hương xông,
Bốn phương Mai Đế lừng uy đức,
Trăm trận Lý Đường phục võ công.
Lam Thủy trăng in, tăm ngạc lặn,
Hùng Sơn gió lặng, khói lang không.
Đường đi cống vải từ đây dứt,

Dân nước đời đời hưởng phúc chung.
Tương truyền từ sau cuộc khởi nghĩa lớn lao này, nhà Đường không
dám bắt nhân dân nộp cống vải quả hằng năm nữa.

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×