Tải bản đầy đủ (.doc) (93 trang)

Một số giải pháp huy động vốn cho kế hoạch đầu tư phát triển sản xuất

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (395.64 KB, 93 trang )

LỜIMỞĐẦU
Trong giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước, sản
xuất cơ khí và xây dựng được coi là những lĩnh vực nền tảng, tạo ra các sản
phẩm thiết yếu cho nên kinh tế. Do đó hai lĩnh vực này luôn được Nhà nước
quan tâm đầu tư và tạo điều kiện thuận lợi cho phát triển.
Tổng Công ty Cơ khí xây dựng là doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn,
được thành lập với nhiệm vụ sản xuất, kinh doanh về cơ khí xây dựng theo quy
hoạch, kế hoạch phát triển ngành xây dựng của Nhà nước và theo yêu cầu của
thị trường, bao gồm các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh máy móc, thiết bị, công
cụ, phụ tùng, phụ kiện và các sản phẩm khác phục vụ xây dựng, sản xuất vật
liệu xây dựng, phục vụ phát triển đô thị và các ngành kinh tế - kỹ thuật khác;
sản xuẩt kinh doanh dịch vụ về các phương tiện vận tải, xếp dỡ; thi công, lắp
đặt thiết bị, xây dựng các công trình dân dụng, công nghiệp, công trình kỹ
thuật hạ tầng đô thị và khu công nghiệp, tư vấn kính kế kỹ thuật về công nghệ,
thiết bị cho các dựán sản xuất vật liệu xây dựng, cơ khí .... Để hoàn thành
nhiệm vụđược giao cũng nhưđáp ứng nhu cầu thị trường, Tổng Công ty Cơ khí
xây dựng đã xây dựng chiến lược phát triển giai đoạn 2001 - 2010 với chủ
trương hoạt động kinh doanh đa ngành trên các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh
dịch vụ kỹ thuật cho các ngành sản xuất vật liệu xây dựng, điện, giao thông,
công nghiệp, xây dựng dân dụng, cấp thoát nước với mục tiêu chính là phát
triển sản xuất các sản phẩm cơ khí. Kết quả là Tổng Công ty đã có những bước
phát triển cơ bản về trình độ chế tạo cơ khí, có khả năng tham gia thiết kế, xây
dựng, chế tạo, lắp đặt thiết bịđồng bộ cho nhiều công trình trọng điểm của Nhà
nước với năng suất, chất lượng đáp ứng yêu cầu thực tế về chất lượng và tiến
độ. Các lĩnh vực này hàng năm đã mang lại lợi nhuận hàng tỉđồng, gia tăng
đáng kể các khoản nộp ngân sách. Tổng Công ty đã từng bước hòa nhập, đứng
vững và phát triển trong cơ chế thị trường, khẳng định vai trò chủđạo trong
lĩnh vực chế tạo cơ khí, củng cố và tăng cường năng lực cạnh tranh trong điều
kiện hội nhập khu vực.
Đạt được kết quả trên có phần đóng góp không nhỏ của hoạt động đầu tư.
Bước vào hoạt động trong cơ chế thị trường, Tổng Công ty cũng như nhiều


doanh nghiệp Nhà nước khác gặp rất nhiều khó khăn ảnh hưởng tới năng lực
sản xuất và cạnh tranh của sản phẩm cũng như doanh nghiệp, đó là quy mô sản
xuất nhỏ bé, thiết bị, máy móc, công nghệ lạc hậu ...Để khắc phục những khó
khăn trên Tổng Công ty đã chỉđạo đầu tư chiều sâu tăng năng lực sản xuất trên
cơ sở thiết bị công nghệ hiện có của Tổng Công ty vàđầu tư mở rộng sản xuất
kinh doanh, đa dạng hóa, hiện đại hóa sản phẩm. Những kết quả do hoạt động
đầu tư là rất to lớn nhưng cũng phải thừa nhận rằng chưa đạt được mục tiêu, kế
hoạch đề ra. Một trong những nguyên nhân của tình trạng trên khó khăn trong
việc huy động vốn để thực hiện các dựán đầu tư phát triển sản xuất. Đây sẽ vẫn
là vấn đề mà Ban lãnh đạo Tổng Công ty phải nỗ lực giải quyết, nhất làđịnh
hướng đầu tư trong giai đoạn tới của Tổng Công ty đều là những dựán có mức
đầu tư lớn như dựán nhà máy chế tạo thiết bị nâng chuyển, nhà máy chế tạo
thiết bị cho công nghiệp xi măng, nhà máy chế tạo thiết bị xử lý rác thải, nhà
máy điện, xây dựng nhàở ... với tổng nguồn vốn đầu tư cho giai đoạn 2006 -
2010 lên tới trên 5000 tỉđồng.
Cóđầu tư thì mới có phát triển, muốn phát triển thì phải đầu tư. Xét trong
điều kiện hiện nay, nếu không huy động được vốn thì các dựán đầu tư cũng
không còn mang tính khả thi nữa, điều đó cũng có nghĩa là doanh nghiệp khó
có thể phát triển nếu không có vốn đầu tư. Vì vậy để trở thành một tập đoàn
kinh tế mạnh trong tương lai, Tổng Công ty cần nhìn nhận và coi trọng đúng
mức các hoạt động đầu tư cũng như các biện pháp để huy động vốn, một
nguồn lực không thể thiếu để tiến hành các hoạt động đầu tư.
Qua thực tế tìm hiểu tại Tổng Công ty Cơ khí xây dựng, kết hợp với
những kiến thức đãđược trang bị trong nhà trường, tôi đã chọn nghiên cứu đề
tài : "Một số giải pháp huy động vốn cho kế hoạch đầu tư phát triển sản xuất
giai đoạn 2006 - 2010 của Tổng Công ty Cơ khí xây dựng" cho chuyên đề thực
tập với mục đích đưa ra một cái nhìn khái quát về thực trạng huy động vốn đầu
tư tại Tổng Công ty, đánh giá những kết quảđạt được, cũng như xem xét một
số khó khăn còn tồn tại, trên cơ sởđóđề xuất một số giải pháp và kiến nghị
nhằm tăng cường khả năng huy động vốn đầu tư cho Tổng Công ty, đảm bảo

khả năng thực hiện các dựán đầu tư cũng như các mục tiêu phát triển.
Nội dung của chuyên đề thực tập gồm ba chương ;
Chương 1 : Lý luận chung về vốn đầu tư sản xuất và các hình thức huy động.
Chương 2 : Thực trạng thu hút vốn đầu tư phát triển sản xuất ở Tổng Công ty
Cơ khí xây dựng.
Chương 3 : Một số giải pháp huy động vốn cho kế hoạch đầu tư phát triển sản
xuất giai đoạn 2006 - 2010 của Tổng Công ty Cơ khí xây dựng.
CHƯƠNG 1
LÝLUẬN CHUNG VỀVỐNĐẦU TƯ SẢN XUẤT
VÀ CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG
I.LÝLUẬNCHUNGVỀVỐNĐẦUTƯSẢNXUẤT .
1.Khái niệm vàđặc trưng của vốn đầu tư sản xuất.
1.1.Khái niệm vốn đầu tư sản xuất.
Để hiểu được khái niệm vốn đầu tư sản xuất phải xuất phát từ khái niệm
vốn.
Xét về bản chất, vốn chính là phần tiết kiệm hay tích lũy mà nền kinh tế có
thể huy động được đểđưa vào quá trình tái sản xuất xã hội. Điều này đãđược cả
kinh tế học cổđiển, kinh tế chính trị Mac-Lênin và kinh tế học hiện đại chứng
minh. Trong bộ Tư bản, Mac đã khái quát hóa phạm trù vốn thông qua phạm
trù tư bản. Theo Mac, tư bản là giá trị mang lại giá trị thặng dư qua quá trình
vận động của nó.Đặc biệt Mac chỉ ra nguồn lực của vốn tích lũy là lao động
thặng dư do những người lao động tạo ra và nguồn vốn đóđược đem dùng vào
việc mở rộng và phát triển sản xuất, cái mà các nhà tư bản gọi là vốn đầu tư.
Quan điểm về vốn lại tiếp tục được các nhà kinh tế học hiện đại đề cập đến
trong các công trình nghiên cứu của mình. Trong cuốn "Kinh tế học" của mình,
Pual A.Samuelson đã viết:"Hàng tư bản do bản thân hệ thống kinh tế sản xuất
ra đểđược sử dụng làm đầu vào của sản xuất để làm ra hàng hóa và dịch vụ ".
Theo Samuelson thì vốn chính là của cải do nền kinh tế sản xuất ra mà không
tiêu dùng ở hiện tại màđể tăng tiêu dùng ở tương lai. Như vậy xã hội đầu tư
hay nhịn tiêu dùng ở hiện tại để thu được kết quả hay lợi ích của đầu tư trong

tương lai.
Vốn là một phạm trù kinh tếđãđược đề cập tới dưới nhiều góc độ khác
nhau trong các lý thuyết kinh tế. Tuy nhiên trong điều kiện kinh tế thị trường
ngày nay vốn được hiều là giá trị tài sản xã hội được hình thành từ các nguồn
lực vật chất và phi vật chất của xã hội gồm tài sản tích lũy, tài nguyên thiên
nhiên, nhân lực, trí lực, giá trị văn hóa tinh thần và các lợi thế khác được sử
dụng trong sản xuất kinh doanh nhằm thu được hiệu quả kinh tế xã hội.
Vốn đầu tưđược phân biệt với vốn thông thường ở một sốđiểm sau: vốn
đầu tưđược phục vụ cho mục tiêu đầu tư phát triển, được sử dụng cho các mục
tiêu đã hoạch định, chủ yếu được sử dụng để hình thành các cơ sở hạ tầng kinh
tế - xã hội, kỹ thuật và các tài sản cốđịnh cho nền kinh tế.
Tùy theo lĩnh vực hoạt động trong xã hội của các kết quảđầu tư, có thể
phân chia vốn đầu tư thành vốn đầu tư phát triển khoa học - kỹ thuật, vốn đầu
tư phát triển sản xuất kinh doanh, đầu tư phát triển hạ tầng...
Qua phần phân tích trên có thể khái quát lại khái niệm về vốn đầu tư sản
xuất như sau: Vốn đầu tư sản xuất là một lượng giá trị tài sản (tài sản hữu hình
và vô hình) được dùng đầu tư vào hoạt động sản xuất nhằm mang lại lợi nhuận
cho chủđầu tư.
1.2.Đặc điểm của vốn đầu tư sản xuất.
Vốn đầu tư sản xuất có các đặc trưng sau đây :
- Vốn được biểu hiện bằng giá trị của những tài sản, điều này có nghĩa là
vốn phải đại diện cho một lượng giá trịđích thực của các tài sản hữu hình hoặc
vô hình như: tư liệu sản xuất, nhà xưởng, đất đai, nguyên vật liệu, bằng sáng
chế, quyền sở hữu trí tuệ,...
- Vốn là tài sản vận động được.Vốn được biểu hiện bằng tiền nhưng không
có nghĩa có tiền là có vốn. Tiền chỉ là dạng tiềm năng của vốn, để trở thành
tiền phải vận động và sinh lời. Vì vậy, hàng hóa, vật tư tồn kho ứđọng, tài sản
cốđịnh không dùng, tài nguyên, sức lao động không sử dụng, tiền vàng cất trữ,
các khoản nợ khóđòi chỉ là vốn chết.
- Vốn phải được tích tụ, tập trung đến một lượng nhất định mới có thể phát

huy được tác dụng. Đểđầu tư sản xuất, vốn phải được gom lại thành những
món tiền đủ lớn, do đó các nhàđầu tư không chỉ khai thác mọi tiềm năng vốn
của doanh nghiệp mà còn phải tìm cách góp vốn, hùn vốn liên doanh, phát
hành cổ phiếu...
- Trong nền kinh tế thị trường, vốn luôn gắn liền với quyền sở hữu, đồng
thời vốn có khả năng tách rời quyền sở hữu và quyền sử dụng. Tùy theo hình
thức đầu tư mà vốn đầu tư có thể thuộc sở hữu của chủđầu tư hoặc không
- Vốn đầu tư sản xuất thường phục vụ cho những mục tiêu đãđược hoạch
định cụ thể, có sự chuẩn bị kỹ lưỡng từ khâu chuẩn bị dựán đến triển khai thực
hiện dựán và khai thác kết quảđầu tư.
2.Phân loại vốn đầu tư sản xuất.
2.1.Phân loại theo nội dung của vốn.
Theo nội dung, vốn đầu tư bao gồm các yếu tố chi phí sau đây :
- Chi phí xây lắp, bao gồm:
+ Chi phí phá và tháo dỡ các vật kiến trúc cũ.
+ Chi phí san lấp mặt bằng xây dựng.
+ Chi phí xây dựng công trình tạm, công trình phụ trợ, phục vụ thi công,
nhà tạm tại hiện trường thi công.
+ Chi phí xây dựng các hạng mục công trình.
+ Chi phí lắp đặt thiết bị.
+ Chi phí di chuyển lớn thiết bị thi công và lực lượng xây dựng.
- Chi phí thiết bị, bao gồm :
+ Chi phí mua sắm thiết bị công nghệ .
+ Chi phí vận chuyển từ cảng và nơi mua đến công trình, chi phí lưu kho,
lưu bãi, lưu Container tại cảng Việt Nam, chi phí bảo quản, bảo dưỡng tại kho
bãi tại hiện trường.
+ Thuế và chi phí bảo hiểm thiết bị công trình.
- Chi phí khác :
Do đặc điểm riêng biệt của khoản chi phí này nên nội dung của từng loại
chí phíđược phân chia theo các giai đoạn của quá trình đầu tư và xây dựng.Cụ

thể là :
+ Chi phí khác ở giai đoạn chuẩn bịđầu tư
+ Chi phí khác ở giai đoạn thực hiện đầu tư
+ Chi phí khác ở giai đoạn kết thúc xây dựng đưa vào công trình vào sử
dụng
2.2.Phân loại theo bản chất của các đối tượng đầu tư.
Vốn đầu tư bao gồm :
- Vốn đầu tư cho các đối tượng vật chất (đầu tư tài sản vật chất như nhà
xưởng, máy móc, thiết bị...).
- Vốn đầu tư cho các đối tượng phi vật chất (đầu tư tài sản trí tuệ và nguồn
nhân lực nhưđào tạo, nghiên cứu khoa học, đầu tư phát triển thương hiệu,...).
Trong các loại đầu tư trên đây, đầu tưđối tượng vật chất làđiều kiên tiên
quyết, cơ bản làm tăng tiềm lực của nền kinh tế, còn đầu tư tài sản trí tuệ và
các nguồn lực khác làđiều kiện tất yếu đểđảm bảo cho đầu tư các đối tượng
vật chất tiến hành thuận lợi vàđạt hiệu quả kinh tế cao.
2.3.Phân loại theo cơ cấu tái sản xuất.
Vốn đầu tư gồm vốn đầu tư theo chiều rộng và vốn đầu tư theo chiều sâu.
- Vốn đầu tư chiều rộng cóđặc điểm là vốn lớn để khêđọng lâu, thời gian
thực hiện đầu tư và thời gian cần hoạt động để thu hồi vốn lâu, tính chất kỹ
thuật phức tạp, độ mạo hiểm cao.
- Vốn đầu tư chiều sâu đòi hỏi khối lượng vốn ít hơn, thời gian thực hiện
đầu tư không lâu, độ mạo hiểm thấp hơn so với đầu tư theo chiều rộng.
2.4.Phân loại theo thời gian thực hiện và phát huy tác dụng của các kết quảđầu
tư.
Vốn đầu tưđược chia thành :
- Vốn đầu tư ngắn hạn.
- Vốn đầu tư dài hạn.
2.5.Phân loại theo quan hệ quản lý của chủđầu tư.
Vốn đầu tưđược chia thành :
- Vốn đầu tư gián tiếp : người bỏ vốn không trực tiếp tham gia điều hành

quản lý quá trình thực hiện và vận hành các kết quảđầu tư.
- Vốn đầu tư trực tiếp : người bỏ vốn trực tiếp tham gia quản lý, điều hành
quá trình thực hiện và vận hành kết quảđầu tư.
2.6.Phân loại theo nguồn vốn.
Vốn đầu tưđược chia thành :
- Vốn huy động từ nội bộ doanh nghiệp.
- Vốn huy động từ ngoài doanh nghiệp.
2.7.Phân loại theo tính chất luân chuyển của vốn.
Vốn đầu tưđược chia thành :
- Vốn cốđịnh : Đây là nguồn vốn có giá trị lớn, thời gian sử dụng lâu dài,
chủ yếu nguồn vốn này được sử dụng để mua sắm, xây dựng nhằm hình thành
nên cơ sở vật chất kỹ thuật của một doanh nghiệp. Đặc điểm cơ bản của loại
vốn này là có thể tham gia vào nhiều chu kỳ kinh doanh nhưng vẫn giữ nguyên
hình thái vật chất ban đầu của nó.
- Vốn lưu động : Giá trị nhỏ, thời gian sử dụng thường dưới 1 năm, giá trị
của nó dịch chuyển một lần vào giá thành sản phẩm.
II. CÁCHÌNHTHỨCHUYĐỘNG
VỐNĐẦUTƯSẢNXUẤTCHODOANHNGHIỆP.
1. Các hình thức huy động vốn đầu tư sản xuất.
1.1.Nguồn cung ứng từ nội bộ doanh nghiệp.
1.1.1.Khấu hao tài sản cốđịnh.
Tài sản cốđịnh là những tư liệu lao động tham gia vào nhiều quá trình sản
xuất. Trong quá trình sử dụng, tài sản cốđịnh bị hao mòn dần và chuyển dần
giá trị của nó vào giá thành sản phẩm. Hao mòn tài sản cốđịnh là một quátrình
mang tính khách quan, phụ thuộc vào nhiều nhân tố như chất lượng của bản
thân tài sản cốđịnh, các yếu tố tự nhiên, cường độ sử dụng tài sản cốđịnh
....Trong quá trình sử dụng tài sản cốđịnh doanh nghiệp phải xác định mức độ
hao mòn của chúng để chuyển dần giá trị hao mòn vào giá trị sản phẩm được
gọi là trích khấu hao tài sản cốđịnh. Việc xác định mức khấu hao cụ thể phụ
thuộc vào thực tiễn sử dụng tài sản cốđịnh cũng nhưý muốn chủ quan của nhà

quản trị. Đối với các doanh nghiệp Nhà nước trong chừng mực nhất định quá
trình xác định khấu hao chịu ảnh hưởng của ýđồ của Nhà nước thông qua các
quy định, chính sách cụ thể của cơ quan tài chính trong từng thời kỳ. Các
doanh nghiệp khác có thể lựa chọn thời hạn sử dụng và phương pháp tính khấu
hao cụ thể. Trong chính sách tài chính cụ thểở từng thời kỳ, doanh nghiệp có
thể lựa chọn khấu hao vàđiều chỉnh khấu hao tài sản cốđịnh và coi đây như
một công cụđiều chỉnh nguồn cung ứng vốn bên trong của mình. Tuy nhiên,
cần chúý rằng việc điều chỉnh khấu hao không thể diễn ra một cách tùy tiện,
không có kế hoạch mà phải trên cơ sở các kế hoạch tài chính dài hạn và ngắn
hạn đãđược xác định. Mặt khác, cần chúý rằng điều chỉnh tăng khấu hao tài
sản cốđịnh sẽ dẫn đến tăng chi phí kinh doanh khấu hao tài sản cốđịnh trong
giá thành sản phẩm nên luôn luôn bị khống chế bởi giá thành sản phẩm.
2.1.2.Tích lũy tái đầu tư.
Tích lũy tái đầu tư luôn được các doanh nghiệp coi là nguồn cung ứng tài
chính quan trọng vì có các ưu điểm cơ bản sau:
- Doanh nghiệp hoàn toàn chủđộng sử dụng nguồn vốn này.
- Giảm sự phụ thuộc vào các nhà cung ứng vốn.
- Giúp doanh nghiệp tăng tiềm lực tài chính nhờ giảm tỉ lệ nợ/vốn.
- Càng cóý nghĩa đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong điều kiện chưa
tạo được tín nhiệm với các nhà cung ứng tài chính.
Quy mô tự cung ứng vốn từ tích lũy tái đầu tư tùy thuộc vào hai nhân tố
chủ yếu là lợi nhuận thu được trong từng kỳ kinh doanh cụ thể và chính sách
phân phối lợi nhuận sau thuế của các doanh nghiệp. Tổng số lợi nhuận cụ
thểthu được trong từng thời kỳ phụ thuộc vào quy mô kinh doanh, chất lượng
hoạt động kinh doanh của toàn doanh nghiệp trong thời kỳđó. Chính sách phân
phối lợi nhuận cũng tùy thuộc vào từng loại hình doanh nghiệp.
Đối với doanh nghiệp Nhà nước, lợi nhuận thu được sẽ phải được sử dụng
vào các khoản sau: nộp tiền sử dụng vốn ngân sách Nhà nước theo quy định,
trả các khoản phạt quy định không được tính vào chi phí kinh doanh, lập các
quỹđặc biệt, chia lãi cho các đối tác liên doanh. Phần còn lại dùng để lập các

quỹ doanh nghiệp gồm: quỹđầu tư phát triển, quỹ dự phòng tài chính(10%),
quỹ dự phòng trợ cấp mất việc làm(5%), quỹ khen thưởng và phúc lợi(nhỏ hơn
từ 2 - 3 tháng lương). Như vậy tích lũy tái đầu tư chủ yếu được lấy từ quỹđầu
tư phát triển,quỹ dự phòng tài chính, thường nguồn vốn từ quỹ này chẳng còn
lại là bao nhiêu sau khi trích nộp các khoản và các quỹ theo quy định .
Đối với công ty cổ phần, toàn bộ lợi nhuận sau thuế sẽđược dùng để trích
lập quỹ dự trữ bắt buộc (5% lợi nhuận) cho đến khi số dư quỹ bằng 10% vốn
điều lệ. Số còn lại phân phối vào các quỹ tái đầu tư phát triển, quỹ nghiên cứu
phát triển vàđào tạo, quỹ dự phòng rủi ro, quỹ khen thưởng và phúc lợi, chia cổ
tức. Thường tỉ lệ trích lập quỹ tái đầu tư phát triển của các công ty cổ phần cao
hơn so với doanh nghiệp Nhà nước.
2.1.3.Điều chỉnh cơ cấu tài sản.
Do môi trường kinh doanh nhiều biến động, nhiệm vụ kinh doanh thay đổi
nên trong kinh doanh luôn diễn ra hiện tượng thừa loại tài sản này nhưng lại
thiếu loại tài sản khác. Điều chỉnh cơ cấu tài sản chính là việc kịp thời có giải
pháp bán các tài sản cốđịnh dư thừa, không sử dụng đến; mặt khác, trên cơ sở
thường xuyên kiểm tra, tính toán và xác định lại mức dự trữ tài sản lưu động,
ứng dụng mô hình dự trữ tối ưu nhằm giảm lượng lưu kho tài sản lưu động
không cần thiết, đảm bảo lượng lưu kho mỗi loại tài sản lưu động hợp lý.
Phương thức này tuy không làm tăng tổng số vốn sản xuất kinh doanh nhưng
lại có tác dụng rất lớn trong việc tăng vốn cho các hoạt động cần thiết trên cơ
sở giảm vốn ở những nơi không cần thiết.
Phương thức này cóưu điểm rất lớn là hoàn toàn do doanh nghiệp
chủđộng, không bị phụ thuộc vào bên ngoài; doanh nghiệp có toàn quyền sử
dụng trong dài hạn với chi phí sử dụng vốn thấp. Mặt khác, sự nỗ lực tự cung
ứng luôn được coi là một yếu tốđể người cấp vốn bên ngoài xem xét khả năng
cho vay vốn.
Tuy nhiên phương thức này cũng có hạn chế cơ bản là quy mô cung ứng
vốn nhỏ và nguồn bổ sung luôn có giới hạn.
2.2.Nguồn cung ứng từ bên ngoài doanh nghiệp.

2.2.1. Nguồn vốn Ngân sách Nhà nước.
- Nguồn vốn ngân sách Nhà nước.
Với hình thức cung ứng từ ngân sách Nhà nước doanh nghiệp sẽ nhận được
lượng vốn xác định từ ngân sách Nhà nước cấp. Thông thường hình thức này
không đòi hỏi nhiều điều kiện ngặt nghèo đối với doanh nghiệp được cấp vốn
như các hình thức huy động vôn khác.
Tuy nhiên, càng ngày hình thức cung ứng vốn từ ngân sách Nhà nước càng
bị thu hẹp cả về quy mô và phạm vi được cấp vốn. Hiện nay, đối tượng được
cung ứng theo hình thức này thường phải là doanh nghiệp Nhà nước được Nhà
nước xác định duy trìđểđóng vai trò chủđạo; các dựán đầu tưở những lĩnh vực
sản xuất hàng hóa công cộng, hoạt động công ích mà tư nhân không muốn
hoặc không có khả năng đầu tư; các dựán lớn có tầm quan trọng đặc biệt do
Nhà nước trực tiếp đầu tư.
2.2.2. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước.
Cùng với quá trình đổi mới và mở cửa, tín dụng đầu tư phát triển của Nhà
nước ngày càng đóng vai tròđáng kể trong giải quyết vấn đề vốn cho các dựán
phát triển sản xuất quy mô lớn. Mục đích của đầu tư tín dụng phát triển Nhà
nước là hỗ trợ các dựán đầu tư phát triển của các thành phần kinh tế thuộc một
số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tế lớn có tác động trực tiếp
đến chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy tăng trưởng kinh tế bền vững.Nguồn
vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước có tác dụng tích cực trong việc
giảm đáng kể sự bao cấp vốn trực tiếp của Nhà nước. Với cơ chế tín dụng, các
đơn vị sử dụng nguồn vốn này phải đảm bảo nguyên tắc hoàn trả vốn vay.
Chủđầu tư là người vay vốn phải tính kỹ hiệu quảđầu tư, sử dụng tiết kiệm
hơn. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước là một hình thức quáđộ
chuyển từ phương thức cấp phát ngân sách sang phương thức tín dụng đối với
các dựán có khả năng thu hồi vốn.
Tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước được thực hiện dưới ba hình
thức :
+ Cho vay đầu tư phát triển với lãi suất ưu đãi.

+ Hỗ trợ lãi suất sau đầu tư.
+ Bảo lãnh tín dụng đầu tư.
Nguyên tắc tín dụng đầu tư phát triển Nhà nước :
+ Hỗ trợ cho những dựán đầu tư có khả năng thu hồi vốn trực tiếp thuộc
một số ngành, lĩnh vực quan trọng, chương trình kinh tê lớn có hiệu quả kinh
tế - xã hội, bảo đảm hoàn trảđược vốn vay.
+ Một dựán có thểđồng thời được hỗ trợ theo hình thức cho vay đầu tư một
phần và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư; hoặc đồng thời được cho vay đầu tư một
phần và bảo lãnh tín dụng đầu tư.
+ Tổng mức hỗ trợ theo các hình thức không quá 85% vốn đầu tư của dựán.
+ Dựán vay vốn đầu tư hoặc bảo lãnh tín dụng đầu tư phải được Quỹ hỗ trợ
phát triển thẩm định phương án tài chính, phương án trả nợ vốn vay trước khi
quyết định đầu tư.
+ Chủđầu tư phải sử dụng vốn vay đúng mục đích; trả nợ gốc và lãi vay
theo hợp đồng tín dụng đã ký.
Đây là một nguồn vốn cực kỳ quan trọng đối với các dựán phát triển sản
xuất quy mô lớn của các doanh nghiệp trong điều kiện khả năng huy động vốn
nội bộ thấp, tín dụng thương mại ngày càng khó khăn do lãi suất cao, mức tín
dụng thấp vàđiều kiện vay chặt chẽ. Vốn tín dụng đầu tư phát triển của
Nhànước cóưu điểm là khối lượng tín dụng cấp lớn và luôn đi kèm các điều
khoản ưu đãi. Nhưng cũng có hạn chế làđối tượng vay phải nằm trong danh
mục ưu tiên cấp tín dụng đầu tư phát triển do Chính phủ quyết định cho từng
thời kỳ và khối lượng tín dụng được cấp bị khống chế.
2.2.3.Gọi vốn góp qua phát hành cổ phiếu.
Gọi vốn góp qua phát hành cổ phiếu là hình thức doanh nghiệp được cung
ứng vốn trực tiếp từ thị trường chứng khoán. Khi có nhu cầu về vốn và lựa
chọn hình thức này,doanh nghiệp tính toán và phát hành cổ phiếu, bán trên thị
trường chứng khoán. Hình thức cung ứng vốn này cóđặc trưng cơ bản là tăng
vốn mà không làm tăng nợ của doanh nghiệp bởi những người sở hữu cổ phiếu
trở thành cổđông của doanh nghiệp. Vì lẽđó nhiều người coi hình thức này là

nguồn cung ứng nội bộ.
Tuy nhiên, không phải mọi doanh nghiệp được phép khai thác nguồn vốn
này mà chỉ những doanh nghiệp được phép phát hành cổ phiếu theo quy định
của pháp luật (công ty cổ phần, doanh nghiệp Nhà nước quy mô lớn) và doanh
nghiệp kinh doanh có hiệu quả.
Hình thức huy động vốn bằng việc phát hành cổ phiếu cóưu điểm là tập
hợp được lượng vốn lớn ban đầu và dễ tăng vốn trong quá trình kinh doanh,
quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng vốn một cách tương đối nên bộ máy quản
trị doanh nghiệp được toàn quyền chủđộng sử dụng có hiệu quả nguồn vốn
này. Việc tài trợ bằng vốn cổ phần không phải trả lãi cho vốn cổ phần đã huy
động được mà sẽ chia cổ tức cổ phần cho các chủ sở hữu nếu doanh nghiệp có
lợi nhuận, lợi tức cổ phần chia cho các cổđông tùy thuộc vào quyết định của
Hội đồng quản trị và nó thay đổi theo mức lợi nhuận mà công ty đạt
được.Doanh nghiệp không thế chấp tài sản hay nhờ bảo lãnh, bởi vốn huy
động là của các chủ sở hữu.
Bên cạnh đó, hình thức gọi hùn vốn qua phát hành cổ phiếu cũng có hạn
chế là doanh nghiệp phải có nghĩa vụ công khai hóa thông tin tài chính theo
Luật doanh nghiệp; khi thừa vốn không hoặc chưa sử dụng đến doanh nghiệp
không thể hoàn trả lại được, vì vậy khi có nhu cầu gọi vốn qua phát hành cổ
phiếu đòi hỏi doanh nghiệp phải cẩn trọng tính toán, cân nhắc và doanh nghiệp
có thể mất quyền kiểm soát nếu không quản lýđược số lượng cổ phiếu mình
phát hành. Mặt khác, hình thức huy động này cũng bị khống chế về số lượng
dựa trên năng lực tài chính và kết quả kinh doanh của công ty, đồng thời do có
thể làm giảm cổ tức nên doanh nghiệp phải có quy mô lớn, hứa hẹn lợi nhuận
cao mới dễ bán được cổ phiếu phát hành trên thị trường.
2.2.4.Huy động vốn từ nội bộ cán bộ công nhân viên.
Đây là hình thức huy động vốn mới được sử dụng rông rãi trong các doanh
nghiệp. Trước đây các doanh nghiệp thường ít quan tâm tới nguồn vốn này vì
nghĩ lượng vốn huy động không đáng kể, nhưng do những khó khăn trong vấn
đề huy động vốn nên nguồn vốn này đang được khuyến khích sử dụng. Căn cứ

vào nhu cầu vốn của doanh nghiệp, căn cứ vào vị trí chức vụ của cán bộ công
nhân viên, doanh nghiệp đề ra chính sách huy động vốn từ cán bộ công nhân
viên với mức quy định tối thiểu cho từng đối tượng. Nguồn vốn này cóưu điểm
là huy động vốn nhàn rỗi trong CBCNV nên chi phí vốn thấp, thường vốn huy
động theo hình thức này được trả lãi suất theo tỉ lệ lãi suất tiền gửi tiết kiệm,
tránh được những thủ tục phức tạp cũng như chi phí khi huy động vốn từ các
nguồn khác. Nhưng nguồn vốn này cũng luôn mang đặc điểm là khối lượng
vốn huy động được hạn chế.
2.2.5.Vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn.
Hình thức vay vốn bằng phát hành trái phiếu trên thị trường vốn là hình
thức cung ứng vốn trực tiếp từ công chúng: doanh nghiệp phát hành lượng vốn
cần thiết dưới hình thức trái phiếu thường là có kỳ hạn xác định và bán cho
công chúng. Khác với hình thức phát hành cổ phiếu, hình thức huy động vốn
từ trái phiếu mang đặc trưng rất cơ bản là tăng vốn gắn với tăng nợ của doanh
nghiệp.
Vay vốn bằng cách này có những ưu điểm chủ yếu là : có thể thu hút được
một số lượng vốn lớn cần thiết, chi phí kinh doanh vốn thấp hơn so với vay
ngân hàng, không bị người cung ứng kiểm soát chặt chẽ như vay ngân hàng và
doanh nghiệp có thể lựa chọn loại trái phiếu thích hợp với yêu cầu của mình.
Tuy nhiên, hình thức huy động vốn từ phát hành trái phiếu cũng có những
hạn chế nhất định. Hình thức này đòi hỏi doanh nghiệp phải nắm chắc các kỹ
thuật tài chính để tránh áp lực nợđến hạn và vẫn có lợi nhuận, đặc biệt khi kinh
tế suy thoái, làm phát cao. Chi phí kinh doanh phát hành trái phiếu khá cao vì
doanh nghiệp cần có sự trợ giúp của một số ngân hàng thương mại. Doanh
nghiệp phải tính toán thỏa mãn điều kiện: tài sản cốđịnh phải lớn hơn tổng số
vốn và nợ dài hạn của doanh nghiệp. Mặt khác, không phải mọi doanh nghiệp
mà chỉ những doanh nghiệp nào thỏa mãn các điều kiện theo luật định mới
được phép phát hành trái phiếu.
2.2.6.Vay vốn của các ngân hàng thương mại.
Vay vốn từ ngân hàng thương mại là hình thức doanh nghiệp vay vốn dưới

các hình thức cụ thể ngắn hạn, trung hạn hoặc dài hạn từ các ngân hàng thương
mại. Đây là mối quan hệ tín dụng giữa một bên đi vay và một bên đi vay.
Có thể nói vốn vay ngân hàng là một trong những nguồn vốn quan trọng
nhất, không chỉđối với sự phát triển của bản thân các doanh nghiệp mà còn đối
với toàn bộ nền kinh tế. Sự hoạt động và phát triển của các doanh nghiệp đều
gắn liền với các dịch vụ tài chính do các ngân hàng thương mại cung cấp, trong
đó có cung ứng các nguồn vốn. Không một doanh nghiệp nào là không sử
dụng kênh huy động vốn này nếu muốn tồn tại vững chắc trên thương trường.
Trong quá trình hoạt động, các doanh nghiệp thường vay ngân hàng đểđảm bảo
nguồn tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh, đặc biệt làđảm bảo vốn
cho các dựán mở rộng hoặc đầu tư chiều sâu của doanh nghiệp. Với hình thức
vay vốn từ ngân hàng thương mại doanh nghiệp có thể huy động được lượng
vốn lớn, đúng hạn và có thể mời các ngân hàng cùng tham gia thẩm định dựán
nếu có nhu cầu vay đầu tư lớn. Nguồn vốn còn cóưu điểm là do phần lãi vay
được khấu trừ làm giảm thu nhập chịu thuế, nên doanh nghiệp được hưởng
phần tiết kiệm nhờ thuế, cũng có nghĩa là chi phí sử dụng nợ thường thấp hơn
chi phí vốn chủ sở hữu; hơn nữa doanh nghiệp lại không chịu nguy cơ mất
quyền kiểm soát doanh nghiệp như phát hành cổ phiếu. Bên cạnh đóđể thực
hiện được hình thức vay vốn từ các ngân hàng thương mại đòi hỏi doanh
nghiệp phải có uy tín lớn, kiên trìđàm phán, chấp nhận các thủ tục thẩm định
ngặt nghèo. Trong quá trình sử dụng vốn, doanh nghiệp phải tính toán trả nợ
ngân hàng theo đúng tiến độ kế hoạch. Việc sử dụng nhiều nợ có thể làm ảnh
hưởng đến khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khi tình hình tài chính
không lành mạnh, doanh nghiệp vẫn phải chi trả chi phí lãi vay, điều này có
thể làm cho tình trạng khó khăn về tài chính trầm trọng hơn, thậm chí có thể
khiến doanh nghiệp phá sản nên việc xác định và duy trì kết cấu vốn tối ưu là
hết sức quan trọng. Mặt khác, khi doanh nghiệp vay vốn ở các ngân hàng
thương mại có thể bị ngân hàng thương mại đòi hỏi quyền kiểm soát các hoạt
động của doanh nghiệp trong thời gian vay như : doanh nghiệp phải thế chấp
bằng tài sản hình thành sau đầu tư, doanh nghiệp sẽ không được vay thêm dài

hạn nếu không có sựđồng ý của ngân hàng cho vay, doanh nghiệp không
thểđem thế chấp tài sản nếu không có sựđồng ý của ngân hàng cho vay, ngân
hàng cho vay áp đặt cơ chế kiểm soát chi phối hoạt động đầu tưđể phòng ngừa
doanh nghiệp sử dụng vốn không đúng mục đích, ngân hàng cho vay có thểđòi
hỏi doanh nghiệp thay đổi ban lãnh đạo của doanh nghiệp...
Vốn vay từ ngân hàng thương mại là một nguồn vốn không thể thiếu trong
các kênh huy động vốn của doanh nghiệp nhưng đểđảm bảo an toàn cho các
doanh nghiệp, trong quá trình hoạt động các doanh nghiệp cần cân nhắc thận
trọng khi quyết định vay vốn và sử dụng vốn hiệu quả sau khi huy động được.
2.2.7.Tín dụng thương mại từ các nhà cung cấp.
Trong quá trình kinh doanh do đặc điểm quá trình cung ứng hàng hóa và
thanh toán không thể khi nào cũng phải diễn ra đồng thời nên tín dụng thương
mại xuất hiện và tồn tại như một tất yếu khách quan. Thực chất, luôn diễn ra
đồng thời quá trình doanh nghiệp nợ khách hàng tiền và chiếm dụng tiền của
khách hàng. Nếu số tiền doanh nghiệp chiếm dụng của khách hàng lớn hơn số
tiền doanh nghiệp bị chiếm dụng thì số tiền dư ra sẽ mang bản chất tín dụng
thương mại. Có các hình thức tín dụng thương mại chủ yếu sau :
- Doanh nghiệp mua máy móc, thiết bị theo phương thức trả chậm.
Sẽ chỉ cóđược hình thức tín dụng này nếu được ghi rõ trong hợp đồng mua
bán về giá cả, số lần trả và số tiền trả mỗi lần, khoảng cách giữa các lần trả
tiền. Như thế, doanh nghiệp có thể sử dụng máy móc, thiết bị ngay nhưng tiền
lại chưa phải trả ngay, số tiền chưa phải trả là số tiền doanh nghiệp chiếm dụng
của người cung ứng.
Trong môi trường hiện nay, với nhiều mặt hàng thì mua bán chưa phải trả
ngay được coi là một chiến lược marketing của người bán cho nên doanh
nghiệp dễ dàng tìm được nguồn vốn tín dụng loại này. Đặc biệt, khi thị trường
có nhiều nhà cung ứng cạnh tranh với nhau doanh nghiệp càng có lợi thế về giá
cả, kỳ hạn trả,...Khi quá trình này diễn ra một cách thường xuyên thì nguồn tín
dụng này đóng vai trò như một nguồn tín dụng trung và dài hạn. Với phương
thức tín dụng này doanh nghiệp có thểđầu tư chiều sâu với vốn ít mà không

ảnh hưởng đến tình hình tài chính của mình. Hình thức tín dụng mua máy móc
thiết bị theo phương thức trả chậm càng cóý nghĩa đối với các doanh nghiệp
vừa và nhỏ thiếu các điều kiện cần thiết để vay vốn từ các nguồn khác.
Bên cạnh đó, hình thức mua máy móc thiết bị theo phương thức trả chậm
cũng có những hạn chế nhất định chẳng hạn như doanh nghiệp phải chịu chi
phí kinh doanh sử dụng vốn khá cao. Mặt khác, sẽ chỉ mua theo phương thức
trả chậm được nếu doanh nghiệp có uy tín, có truyền thống tín dụng sòng
phẳng cũng như tình hình tài chính lành mạnh.
- Vốn khách hàng ứng trước.
Trong quá trình kinh doanh, khi ký kết hợp đồng đặt hàng khách hàng
thường phải đặt cọc trước một số tiền nhất định, số tiền đặt cọc này doanh
nghiệp được sử dụng mặc dù chưa sản xuất và cung ứng sản phẩm cho khách
hàng. Tùy theo lượng mua hàng của khách, thông thường doanh nghiệp chiếm
dụng được từ hai nguồn :
+ Vốn ứng trước của khách hàng lớn .
+ Vốn ứng trước của người tiêu dùng.
Thông thường số vốn chiếm dụng này là không lớn. Mặt khác, để sản xuất
sản phẩm doanh nghiệp phải đặt hàng (nguyên vật liệu...) nên bị người cấp
hàng chiếm dụng vốn của doanh nghiệp cũng theo hình thức này nên các quá
trình kinh doanh diễn ra bình thường thì số dư vốn chiếm dụng hình thức này
là không lớn. Bên cạnh đó cũng tồn tại lượng tiền khách hàng chiếm dụng lại
khi mua hàng của doanh nghiệp nhiều khi là rất lớn.
2.2.8.Tín dụng thuê mua.
Tín dụng thuê mua là một hình thức tài trợ tín dụng thông qua các loại tài
sản, máy móc thiết bị. Đây là hình thức giao dịch có lịch sử lâu đời ở các quốc
gia phát triển vàđã bắt đầu phát triển ở Việt Nam. Khi hình thức tín dụng thuê
mua được sử dụng, một thỏa thuận thuê mua có thểđược xác lập giữa hai hay
nhiều bên liên quan đến một hay nhiều tài sản. Người cho thuê (chủ tài sản)
chuyển giao tài sản cho người đi thuê ( người sử dụng tài sản). Người đi
thuêđược độc quyền sử dụng tài sản đó trong một thời gian nhất định, đổi lại

người đi thuê phải trả một số tiền cho chủ tài sản tương ứng với quyền sử dụng
và quyền hưởng dụng mà họ phải hy sinh. Trong quá trình thuê, người cho
thuê là người sở hữu tài sản, còn người đi thuê là người sử dụng tài sản đó. Kết
thúc hợp đồng, người cho thuê thu hồi lại tài sản hoặc bán lại.
Tín dụng thuê mua có hai phương thức cơ bản sau :
- Thuê vận hành là phương thức thuê tài sản trong đó chủ tài sản bỏ tiền ra
mua tài sản rồi cho người khác thuêđể sử dụng với các đặc điểm sau :
+ Thời hạn thuê thường rất ngắn so với toàn bộđời sống hữu ích của tài sản,
điều kiện chấm dứt hợp đồng chỉ cần báo trước trong một khoảng thời gian rất
ngắn.
+ Người cho thuê phải chịu mọi chi phí vận hành của tài sản như chi phí
bảo trì, bảo hiểm, thuế sử dụng tài sản, ...cùng với mọi loại rủi ro và sự giảm
sút giá trị của tài sản.
+ Người cho thuêđược hưởng tiền thuê do người đi thuê trả theo thỏa
thuận và mọi lợi ích gia tăng khác do bản thân của việc sở hữu tài sản đem lại.
+ Số tiền mà người đi thuê trả cho người cho thuê thường là rất thấp so với
giá trị thật sự của tài sản đi thuê.
- Thuê tài chính : Đây là phương thức tài trợ tín dụng trung và dài hạn
không thể hủy ngang. Theo phương thức này, người cho thuê thường mua tài
sản, thiết bị mà người đi thuê cần vàđã có thương lượng từ trước các điều kiện
mua tài sản đó với người cần thuê. Tùy theo quy định của từng quốc gia, các
giao dịch được coi là thuê tài chính khi thời hạn thuê mua chiếm phần lớn đời
sống hữu ích của tài sản và hiện giá thuần của toàn bộ các khoản tiền thuê phải
đủđể bùđắp những chi phí mua tài sản tại thời điểm bắt đầu hợp đồng ( theo
quy định hiện nay của Việt Nam, thời hạn đi thuê phải lớn hơn 60% thời hạn
sử dụng hữu ích của tài sản mới được xem là thuê tài chính).
Thường thì hợp đồng tài chính được chia làm 3 phần :
+ Thời hạn thuê cơ bản
+ Thời hạn gia hạn tùy chọn
+ Phần giá trị còn lại

Các loại chi phí bảo trì, vận hành, phí bảo hiểm, thuế tài sản và mọi rủi ro
thường do người thuê chịu và tổng số tiền mà người thuê phải trả cho người
cho thuê trong suốt thời gian thuê thường làđủđề bùđắp lại toàn bộ giá gốc của
tài sản.
Trong suốt thời gian diễn ra hoạt động thuê tài sản, quyền sở hữu pháp
lýđối với tài sản thuộc về người cho thuê và quyền sử dụng tài sản thuộc về
người thuê.
Xét ở góc độ người thuê, hợp đồng thuê tài chính là một hình thức tài trợ
tín dụng cho họ. Sự khác biệt cơ bản của thuê tài chính với một khoản nợ vay
đó là người cho thuê vẫn nắm giữ quyền sở hữu tài sản nên có quyền thu hồi
ngay nếu thấy có sự mất an toàn đối với tài sản của mình.
Nhờ hình thức tín dụng thuê mua, doanh nghiệp có thể gia tăng năng lực
sản xuất trong điều kiện hạn chế vốn đầu tư, có thể hiện đại hóa trang thiết bị
theo kịp tốc độ phát triển của công nghệ mới, rút ngắn thời gian đầu tưđểđáp
ứng kịp thời các cơ hội kinh doanh. Hình thức tín dụng thuê mua cóưu điểm rất
cơ bản là giúp cho doanh nghiệp sử dụng đúng mục đích, khi nào doanh nghiệp
có cầu về sử dụng máy móc, thiết bị cụ thể mới đặt vấn đề thuê mua và chỉ ký
hợp đồng thuê mua trong khoảng thời gian sử dụng thích hợp. Doanh nghiệp
không chỉ nhận được máy móc thiết bị mà còn nhận được tư vấn đào tạo và
hướng dẫn kỹ thuật cần thiết từ doanh nghiệp thực hiện chức năng thuê mua.
Doanh nghiệp sử dụng máy móc, thiết bị có thể tránh được những tổn thất do
mua máy móc,thiết bị không đúng yêu cầu hoặc do mua nhầm. Doanh nghiệp
sử dụng cóđược máy móc.thiết bị cần thiết mà không phải đầu tư một lần với
vốn lớn. Mặt khác, doanh nghiệp có thể giảm được tỉ lệ nợ/vốn vì tránh phải
vay ngân hàng thương mại. Trong quá trình sử dụng máy móc, thiết bị doanh
nghiệp có thể thỏa thuận tái thuê với doanh nghiệp có chức năng thuê mua; tức
là doanh nghiệp sử dụng bán một phần tài sản thiết bị cho doanh nghiệp thuê
mua rồi lại thuê lại để tiếp tục sử dụng tài sản thiết bịđó. Với phương thức thuê
mua doanh nghiệp sử dụng có thể nhanh chóng đổi mới tài sản cốđịnh, nâng
cao khả năng cạnh tranh của mình.

Hạn chế cơ bản của phương thức thuê mua đối với doanh nghiệp có cầu sử
dụng máy móc, thiết bị là chi phí kinh doanh sử dụng vốn cao và hợp đồng
tương đối phức tạp. Chi phí tài trợ thông qua tín dụng thuê mua thường cao
hơn lãi suất cho vay của các hình thức tài trợ vốn khác trên cùng thị trường
vốn; vào giai đoạn cuối của thỏa thuận thuê mua, dùđã trả hết tiền thuê, doanh
nghiệp đi thuê vẫn chưa được quyền sử dụng tài sản vào mục đích khác.
2.2.9.Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI).
Trong cơ chế kinh tế mở, từ khi có Luật đầu tư nước ngoài ban hành các
doanh nghiệp đã có thêm một nguồn cung ứng vốn từ các doanh nghiệp nước
ngoài trực tiếp đầu tư vào doanh nghiệp mình dưới hình thức liên doanh, liên
kết.
Nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài cóđặc điểm cơ bản là không gây nợ
cho các doanh nghiệp tiếp nhận. Thay vì nhận lãi trên suất trên vốn đầu tư,
nhàđầu tư sẽ nhận được phần lợi nhuận thích đáng khi dựán đầu tư hoạt động
có hiệu quả. Đầu tư trực tiếp nước ngoài mang theo toàn bộ tài nguyên kinh
doanh của doanh nghiệp nước ngoài vào doanh nghiệp trong nước nên hình
thức đầu tư này có tác dụng thúc đẩy phát triển những lĩnh vực sản xuất mới,
đặc biệt là những lĩnh vực đòi hỏi cao về kỹ thuât, công nghệ hay nhiều vốn.
Vì thế nguồn vốn này có rất ý nghĩa đối với doanh nghiệp trong nước muốn
mở rộng sản xuất ở những lĩnh vực mà công nghệ sản xuất trong nước chưa
đáp ứng được, cho phép các doanh nghiệp trong nước có thể tiếp cận nhanh
chóng kỹ thuật - công nghệ cũng như phương thức quản trị tiên tiến.
Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phần lớn được phía đối tác nước ngoài
đóng góp dưới dạng máy móc, thiết bị trong dây chuyền sản xuất, bí quyết
công nghệ. Do đóđòi hỏi phía doanh nghiệp Việt Nam phải hiểu biết về những
yếu tố trên đểđánh giáđúng giá trị của vốn đầu tư tránh thiệt thòi khi tham gia
liên doanh, liên kết.
2.2.10.Nguồn vốn ODA.
Đối tác mà doanh nghiệp có thể tìm kiếm và nhận được nguồn vốn này là
các chương trình hợp tác của Chính phủ, các tổ chức phi Chính phủ hoặc các tổ

chức quốc tế khác.
Hình thức cấp vốn ODA có thể là hình thức viện trợ không hoàn lại hoặc
cho vay với điều kiện ưu đãi về lãi suất và thời hạn thanh toán. Nếu các doanh
nghiệp được vay từ nguồn vốn ODA có thể chịu các mức lãi suất thường trong
khoảng 1->1.5%/năm, phí ngân hàng thường là 0.2->0.3%/năm trong thời hạn
có thể từ 10->20 năm và có thểđược gia hạn thêm. Ngoài các điều kiện ưu đãi
về lãi suất, thời hạn cho vay dài khối lượng vốn vay tương đối lớn, bao giờ
trong ODA cũng có yếu tố không hoàn lại (còn gọi là thành tố hỗ trợ) đạt ít
nhất 25%.
Hình thức huy động vốn từ nguồn vốn ODA có chi phí kinh doanh sử dụng
vốn thấp. Tuy nhiên, để nhận được nguồn vốn này doanh nghiệp phải chấp
nhận các điều kiện và ràng buộc tương đối khắt khe về thủ tục chuyển giao
vốn, tiến độ thực hiện và tính hiệu quả của dựán đầu tư...Đồng thời doanh
nghiệp phải có trình độ quản trị dựán đầu tư cũng như trình độ phối hợp làm
việc với các cơ quan Chính phủ và chuyên gia nước ngoài.
2.Những nhân tốảnh hưởng tới khả năng huy động vốn của doanh nghiệp.
2.1.Những nhân tố khách quan.
-Tình hính chính trịđất nước và tăng trưởng của nền kinh tế.
Tình hình chính trị của đất nước và sức khỏe của nền kinh tế luôn cóảnh
hưởng tới hoạt động đầu tư cũng như khả năng huy động vốn của doanh
nghiệp. Nếu chính trịổn định, ít xung đột, nền kinh tế tăng trưởng cao, đều đặn,
Nhà nước thực hiện chính sách mở cửa, kêu gọi đầu tư nước ngoài sẽ có tác
động tích cực, tạo sự hấp dẫn, yên tâm cho các nhàđầu tư trong và ngoài nước
khi đầu tư vào các lĩnh vực, đặc biệt là các dựán trung và dài hạn từđó tạo cơ
hội để các doanh nghiệp trong nước thu hút đầu tư, tạo được nhiều kênh huy
động, đáp ứng kịp thời cho nhu cầu đầu tư, sản xuất kinh doanh.
Bên cạnh đó kinh tế tăng trưởng sẽ làm thu nhập quốc dân mở rộng, lợi
nhuận của doanh nghiệp và thu nhập người dân tăng, tạo ra nguồn tích lũy, tiết
kiệm từ các doanh nghiệp và dân cư sẽ làm tổng cung về vốn cho toàn nền
kinh tế tăng, tạo thuận lợi cho doanh nghiệp trong vấn đề huy động vốn.

-.Tỉ lệ lạm phát.
Tỉ lệ lạm phát ở mức vừa phải có tác động tích cực tới sựổn định và kích
thích tăng trưởng kinh tế. Nếu lạm phát tăng cao hơn nhiều so với tốc độ tăng
trưởng của nền kinh tế sẽ làm cho đồng tiền mất giá, điều này làm mất lòng tin
của các nhàđầu tư nhất là các nhàđầu tư nước ngoài. Đồng thời, khi các doanh
nghiệp không có một thước đo ổn định giá trịđồng tiền thì các dựán đầu tư khi
thực hiện sẽ không phản ánh chính xác từđó hiệu quả kinh doanh thấp, các
nguồn vốn đầu tư sẽ hạn chế nhằm ngăn ngừa rủi ro.
- Chính sách thuế.
Hiện nay Nhà nước thực hiện chính sách thuế khuyến khích đầu tư với
nhiều ưu đãi về thuế cho cảđầu tư nước ngoài vàđầu tư trong nước do đó thu
hút được nhiều nhàđầu tư mạnh dạn đầu tư vào các lĩnh vực mới có nhiều tiềm
năng.
- Chính sách lãi suất.
Lãi suất luôn là mối quan tâm đặc biệt của các tổ chức tín dụng cũng như
của doanh nghiệp. Đối với các ngân hàng cũng như các tổ chức tài chính khác,
lãi suất là mục tiêu kinh doanh, là cơ sở cho việc giảm các chi phí khác cho các
tổ chức này. Hiện nay Nhà nước thực hiện chính sách quản lý lãi suất gián tiếp,
chỉ quy định lãi suất trần, cho các tổ chức tín dụng tự quyết định lãi suất tiết
kiệm cũng như lãi suất cho vay của mình dựa trên lãi suất trần. Quy định này
cho phép các tổ chức tín dụng đưa ra lãi suất hợp lýđể huy động vốn nhàn rỗi
trong xã hội, đồng thời đưa ra lãi suất cho vay phù hợp nhằm khuyến khích các
doanh nghiệp vay vốn. Như vậy chính sách lãi suất của Nhà nước cóảnh hưởng
lớn tới chi phí vốn của doanh nghiệp do đó sẽ hạn chế hoặc tăng khả năng vay
vốn của doanh nghiệp. Vấn đềđặt ra là Nhà nước xây dựng chính sách lãi suất
trong từng giai đoạn như thế nào để tạo sự cạnh tranh lành mạnh trong các tổ
chức tín dụng, thu hút được nhiều vốn nhàn rỗi trong xã hội và các doanh
nghiệp có thể vay vốn với lãi suất đảm bảo hiệu quả kinh doanh cho doanh
nghiệp, tránh tình trạng các tổ chức tín dụng thì thừa vốn mà các doanh nghiệp
thiếu vốn để sản xuất kinh doanh.

- Chính sách về tỷ giá.
Tỷ giá thay đổi ảnh hưởng trực tiếp đến giáđồng ngoại tệ, ảnh hưởng đến
việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Nếu tỷ giáđồng nội tệ so với đồng ngoại tệ
cao sẽ có lợi cho nhàđầu tư nước ngoài do giá trị tỉ lệ vốn góp tăng do đó sẽ
thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài.
-Môi trường pháp lý.
Môi trường pháp lý làđiều kiện hết sức cần thiết đề tạo môi trường kinh
doanh lành mạnh, đảm bảo các điều kiện về lâu dài cho các nhàđầu tư hoạt
động. Các nhàđầu tư sẽ không thể bỏ vốn đầu tư mà chủ yếu là vốn đầu tư
trung hạn và dài hạn nếu thiếu sự bảo đảm lâu dài của pháp luật.
2.2.Những nhân tố chủ quan.
2.2.1.Dựán đầu tư huy động vốn.
Trước hết phải nói tới lĩnh vực đầu tư của doanh nghiệp, đó phải là lĩnh
vực mang lại lợi nhuận cao, có tiềm năng phát triển, có nhu cầu thị trường lớn
hoặc nằm trong danh mục ưu tiên phát triển của Nhà nước.... Những yếu tố này
sẽ có khả năng hấp dẫn các nhà tài trợ. Tiếp đó, dựán đầu tư của doanh nghiệp
phải khả thi về mặt thị trường, công nghệ, hiệu quả tài chính.... Đó là các dựán
đầu tư có thể triẻn khai thực hiện và theo tính toán khi cho vay nếu dựán hoàn
thành đưa vào sản xuất, kinh doanh sẽđem lại lợi nhuận cao cho chủđầu tư,
cóđủ nguồn trả nợ và thời gian trả nợ phù hợp với thời gian cho vay hoặc
doanh nghiệp có nguồn vốn khác có khả năng thanh toán nợ theo đúng thời
hạn cho vay.
2.2.2.Năng lực tài chính của doanh nghiệp.
Trong hoạt động kinh doanh theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà
nước, các doanh nghiệp thuộc các loại hình sở hữu khác nhau đều bình đẳng
trước pháp luật trong việc lựa chọn ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh. Do vậy
sẽ có nhiều đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính doanh nghiệp như : chủ
doanh nghiệp, nhà tài trợ, nhà cung cấp, khách hàng, các cơ quan Nhà nước...,
mỗi đối tượng quan tâm đến tình hình tài chính của doanh nghiệp trên góc độ
khác nhau. Đối với chủ doanh nghiệp và các nhà quản trị doanh nghiệp, mối

quan tâm hàng đầu là khả năng phát triển, tối đa hoá lợi nhuận, tối đa hoá giá
trị doanh nghiệp, do đó họ quan tâm trước hết tới lĩnh vực đầu tư và tài trợ.
Đối với chủ ngân hàng và các chủ nợ khác, mối quan tâm chủ yếu của họ
làđánh giá khả năng thanh toán, khả năng trả nợ hiện tại và tương lai của
doanh nghiệp. Đối với các nhàđầu tư khác, họ quan tâm tới các yếu tố rủi ro,
lãi suất, khả năng thanh toán... Như vậy để có thể huy động vốn từ bất kỳ kênh
nào bên ngoài, doanh nghiệp cũng phải có tình hình tài chính lành mạnh, kinh
doanh hiệu quả.
Trước khi quyết định có tài trợ vốn cho các hoạt động đầu tư của doanh
nghiệp hay không, các nhàđầu tư, ngân hàng và các chủ nợ khác thường phân
tích tình hình tài chính thông qua các chỉ tiêu và tỉ lệ tài chính chủ yếu. Dưới
góc độ nhà tài trợ vốn thìđây là những chỉ tiêu quan trọng nhất đểđánh giá
năng lực tài chính của doanh nghiệp và cũng là căn cứđểđưa ra các quyết định
tài trợ.
Các chỉ tiêu và tỉ lệ tài chính chủ yếu bao gồm :
- Nhóm chỉ tiêu về tình hình và khả năng thanh toán.
Tình hình tài chính của doanh nghiệp được thể hiện khá rõ nét qua các chỉ
tiêu về khả năng thanh toán của doanh nghiệp. Khả năng thanh toán của doanh
nghiệp phản ảnh mối quan hệ tài chính giữa các khoản có khả năng thanh toán
trong kỳ với các khoản phải thanh toán trong kỳ. Nhóm chỉ tiêu này gồm các
chỉ tiêu chủ yếu sau :
TSLĐ
+ Hệ số thanh toán ngắn hạn = ------------------
Nợ ngắn hạn
Hệ số thanh toán ngắn hạn là thước đo khả năng thanh toán ngắn hạn của
doanh nghiệp, nó cho biết mức độ các khoản nợ của các chủ nợ ngắn hạn được
trang trải bằng các tài sản có thể chuyển thành tiền trong một giai đoạn tương
đương với thời hạn của các khoản nợ. Hệ số này xấp xỉ bằng một thì doanh
nghiệp có khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn và tình hình tài chính
doanh nghiệp là bình thường. Ngược lại nếu hệ số này nhỏ hơn một thì khả

năng thanh toán ngắn hạn của doanh nghiệp gặp khó khăn.

×