Tải bản đầy đủ (.doc) (1 trang)

THUYẾT TƯƠNG ĐỐI RỘNG(tiếp)3

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (74.29 KB, 1 trang )

Từ gia tốc đến hình học
Trong quá trình khám phá ra nguyên lý tương đương giữa hấp dẫn và gia tốc cũng như vai trò của
các lực thủy triều, Einstein đã khám phá ra một vài sự tương tự của chúng với hình học các mặt
cong. Một ví dụ là sự biến đổi từ một hệ quy chiếu quán tính (trong đó các hạt tự do trôi theo một
đường thẳng với vận tốc không đổi) sang một hệ quy chiếu quay (khi đó xuất hiện thêm lực quán
tính để có thể giải thích chuyển động của các hạt): điều này tương tự với sự biến đổi từ một hệ tọa
độ DeCarte (trong đấy các trục tọa độ là các đường thẳng) sang một hệ tọa độ cong (trong đó các
trục tọa độ là các đường cong).
Một sự tương tự sâu hơn liên hệ giữa các lực thủy triều với tính chất của các mặt gọi là độ cong.
Đối với trường hấp dẫn, sự có mặt hay vắng mặt của các lực thủy triều xác định có hay không ảnh
hưởng của hấp dẫn có thể bị loại trừ bằng cách chọn một hệ quy chiếu rơi tự do. Tương tự, sự xuất
hiện hay không xuất hiện của độ cong xác định một mặt có giống hay tương đương với một mặt
phẳng hay không. Vào mùa hè năm 1912, được thúc đẩy bởi những sự tương tự này, Einstein đã tìm
kiếm dạng thức hình học cho hấp dẫn.
[12]
Các đối tượng cơ bản của hình học;- các điểm, đường thẳng, tam giác; được định nghĩa một cách
truyền thống trong không gian ba chiều hoặc các mặt hai chiều. Năm 1907, nhà toán học Hermann
Minkowski giới thiệu dạng thức hình học của thuyết tương đối đặc biệt của Einstein trong đó hình
học không chỉ bao gồm không gian mà có cả thời gian. Đối tượng cơ bản của hình học mới này đó
là không thời gian bốn chiều. Quỹ đạo của các vật thể là các đường trong không thời gian.
[13]
Đối với các mặt, sự tổng quát hóa hình học trên các mặt phẳng sang các mặt cong đã được miêu tả
vào đầu thế kỷ thứ 19 bởi nhà bác học Carl Friedrich Gauss. Sự miêu tả này đã được Bernhard
Riemann tổng quát hóa sang các không gian nhiều chiều thành một lý thuyết vào thập niên 1850.
Với công cụ hình học Riemann, Einstein đã thiết lập một sự miêu tả hình học của hấp dẫn trong đấy
không gian Minkowski được thay thế bởi không thời gian cong giống như các mặt cong được tổng
quát hóa từ các mặt phẳng thông thường.
[14]
Sau khi ông nhận ra sự tương tự đúng đắn của hình học này, Einstein phải cần thêm 3 năm nữa mới
tìm ra được hòn đá tảng cơ bản trong lý thuyết của ông: các phương trình miêu tả vật chất ảnh
hưởng như thế nào đến độ cong của không thời gian. Chúng bây giờ được gọi là phương trình


trường Einstein (hay một cách chính xác hơn, phường trình trường Einstein của hấp dẫn), ông trình
bày lý thuyết mới của ông về hấp dẫn tại một vài buổi họp tại viện Hàn lâm khoa học Phổ vào cuối
năm 1915.
[15]
[Hình học và hấp dẫn
Phát biểu bởi John Wheeler, lý thuyết hình học về hấp dẫn của Einstein có thể tóm tắt thành: không
thời gian nói cho vật chất cách di chuyển, vật chất nói cho không thời gian cách để cong.
[16]
Điều
này được giải thích trong ba phần sau, với khám phá chuyển động của các hạt thử, kiểm tra tính
chất của vật chất với ý nghĩa là nguồn của hấp dẫn, và cuối cùng, giới thiệu các phương trình
Einstein, liên hệ các tính chất của vật chất với độ cong của không thời gian.

×