Tải bản đầy đủ (.pdf) (12 trang)

Kiến thức lớp 12 Hồn Trương Ba, da hàng thịt –Lưu Quang Vũ-phần7 ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (166.63 KB, 12 trang )

Kiến thức lớp 12
Hồn Trương Ba, da hàng thịt –Lưu
Quang Vũ-phần7
Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác (Về trích
đoạn vở "Hồn Trương Ba da hàng thịt"
PGS.TS. Lữu Khánh Thơ
Tạp chí Nghiên cứu văn học

Lưu Quang Vũ được đánh giá là nhà viết kịch xuất sắc trong thời
kỳ hiện đại. Đương thời khi còn sống, kịch của anh luôn có mặt
trên sàn diễn của nhiều đoàn nghệ thuật trong cả nước. Trong
lịch sử sân khấu nước ta, thời kỳ kịch của Lưu Quang Vũ có lẽ là
thời kỳ sôi động, giàu sức sống nhất. Những năm 80, kịch của
Lưu Quang Vũ xuất hiện đã làm thay đổi t ư duy của người biểu
diễn cũng như của công chúng yêu sân khấu. Nhiều bài viết của
các nhà nghiên cứu phê bình đã đánh giá cao tài năng, tâm huyết
và những đóng góp của Lưu Quang Vũ đối với nền sân khấu nói
riêng và với nền văn học nói chung. Anh cũng là một trong những
"người đi trước” trong phong trào đổi mới văn hoá văn nghệ,
dùng ngòi bút của mình góp phần đem lại những điều tốt đẹp cho
con người và xã hội.

Kịch bản của Lưu Quang Vũ dù được sáng tác nhanh với một số
lượng lớn: hơn 50 vở kịch trong khoảng thời gian chưa đầy 10
năm, nhưng hầu hết đều đạt đến một chất lượng nghệ thuật nhất
định. Ngay cả những vở được coi là không thành công khi đã lên
sàn diễn cũng có một giá trị văn học không thể phủ nhận. Chúng
ta đều biết rằng vở diễn nếu tách rời khỏi hoạt động sân khấu sẽ
mất đi phần “động" chỉ còn lại phần “tĩnh”. Sân khấu đem đến cho
kịch một đời sống thứ hai, sống động, hấp dẫn và sân khấu cũng
quy định cho kịch những đặc tính nhất định, nên kịch có những


đặc tr ưng riêng khác hẳn với thơ và tiểu thuyết. Trước khi đến
với sân khấu Lưu Quang Vũ đã là người làm thơ, viết văn có
phong cách riêng. Anh đã kết hợp và phát huy được những thế
mạnh của mình khi đến với loại hình nghệ thuật có ý nghĩa tổng
hợp như sân khấu. Từ thơ và chất thơ trong văn xuôi, rồi từ chất
văn xuôi của đời sống, Lưu Quang Vũ đã chuyển sang viết kịch
và đã gặt hái được những thành công rực rỡ. Ở đó vẫn tiếp tục
những nguồn mạch được khai mở từ khá sớm nhưng Lưu Quang
Vũ đã chín chắn, tỉnh táo hơn. Kịch là nơi Lưu Quang Vũ có thể
bộc lộ trực tiếp hơn những khám phá và nhận thức của anh, là
nơi anh có thể đóng góp tích cực hơn cho đời sống. Lưu Quang
Vũ đã nói lên những suy nghĩ của mình trong lời tự bạch, trước
khi mất: “Trong quan niệm của tôi, thơ và kịch rất gần nhau. Đó là
hai thể loại lớn của văn học, là cuộc sống và thế giới tinh thần
của con người được biểu hiện ở dạng tinh chất nhất, mạnh mẽ
nhất, tuy ngôn ngữ nghệ thuật của chúng có những điểm khác
biệt. Tôi say mê sân khấu từ nhỏ và làm thơ cũng từ nhỏ, nhưng
chỉ mãi đến khi hơn ba mươi tuổi, tôi mới dám cầm bút viết vở
kịch đầu tiên. Tôi cho rằng nghề viết kịch đòi hỏi người ta phải có
sự từng trải khá dày dạn về đời sống và một sự am tường nhất
định về sân khấu. Đã có khá nhiều thi sĩ thành đạt từ thuở thiếu
niên nhưng hình như khó có ai thành công về viết kịch khi chưa
đến 30 tuổi… Động lực xui giục tôi viết kịch cũng là những động
lực khiến tôi làm thơ, đó là khát vọng muốn được bày tỏ, muốn
được thể hiện tâm hồn mình và thế giới xung quanh, muốn được
tham dự vào dòng chảy mãnh liệt của đời sống, được trao gửi và
dâng hiến”(1).

Kịch của Lưu Quang Vũ khai thác nhiều đề tài, đi vào khám phá
mọi mặt của đời sống xã hội và con người. Có thể phân chia, sắp

xếp kịch Lưu Quang Vũ ra làm nhiều loại căn cứ vào cốt truyện
của kịch bản. Cha ông ta có câu “có tích mới dịch nên trò”. Có thể
hiểu nôm na “tích” chính là cốt truyện, phải có cốt truyện mới tạo
dựng thành tác phẩm, sân khấu mới có kịch để diễn. Kịch của
Lưu Quang Vũ thường được xây dựng trên một cốt truyện chắc
chắn, chủ yếu tập trung vào các vấn đề, các sự kiện quan trọng
trong đời sống. Việc khai thác các mô típ dân gian, dựa vào đó để
viết kịch bản mang đậm dấu ấn cá nhân và phong cách của mình
đã tạo cho kịch Lưu Quang Vũ một chiều sâu đáng kể. Nó tạo
cho kịch của anh sự phong phú về đề tài, hấp dẫn ở cốt truyện,
lôi cuốn ở nghệ thuật xây dựng nhân vật.

Trong số kịch bản của Lưu Quang Vũ, khối lượng những vở khai
thác trực tiếp từ cốt truyện dân gian không nhiều, nhưng hầu hết
những vở kịch đó đều đạt tới hiệu quả nghệ thuật tương đối cao.
Tiêu biểu nhất là vở Hồn Trương Ba, da hàng thịt. Vở kịch này
được viết từ năm 1984, nhưng cho đến năm 1987, trong không
khí đổi mới dân chủ, mới được ra mắt công chúng. Giới nghiên
cứu phê bình cho rằng đây là một trong những vở kịch hay nhất
của Lưu Quang Vũ. Ngay khi mới công diễn, vở kịch đã gây chấn
động d ư luận, tạo ra một không khí tranh luận sôi nổi trên báo
chí và trong giới sân khấu. Với sự dàn dựng của đạo diễn
Nguyễn Đình Nghi và lớp diễn xuất có nghề của Nhà hát Kịch
Việt Nam, vở diễn đã thể hiện sâu sắc tính đa nghĩa của một kịch
bản có cấu trúc chặt chẽ, giàu trí tuệ. Một cốt truyện dân gian
quen thuộc, chẳng mấy ai tranh luận về ý nghĩa của truyện, vậy
mà khi Lưu Quang Vũ đ ưa lên sân khấu, vở kịch không chỉ dừng
lại ở những giá trị ban đầu mà nó còn đặt ra nhiều vấn đề mới
mẻ. Vở kịch không chỉ nói đến sự hoà hợp và ý thức đạo lý về
phần hồn và phần xác con người mà còn đề cao cuộc đấu tranh

cho sự hoàn thiện nhân cách con người. Qua những lời đối thoại
ngắn gọn, súc tích, các nhân vật trong thế giới dân gian xưa cũ
trở nên gần gũi, quen thuộc, như đang cùng tham dự với cuộc
sống đương đại của chúng ta. Vở kịch không chỉ đề cập đến
chuyện của một thời mà còn đề cập đến chuyện của muôn đời.
Đó là triết lý nhân sinh về lẽ sống, lẽ làm người. Những rắc rối đổ
vỡ bắt nguồn từ sự sống vay mượn của Trương Ba trong xác anh
hàng thịt đã khiến cho chúng ta thấy: Cuộc sống thật là đáng quý
nhưng không phải sống thế nào cũng được. Sống vay mượn,
chắp vá, không có sự hài hoà giữa hồn và xác chỉ đem lại bi kịch
cho con người. Cuộc sống chỉ có giá trị khi con người được sống
đúng là mình, được sống trong một thể thống nhất. Vở kịch Hồn
Trương Ba da hàng thịt không chỉ đề cập đến đời sống một cá
nhân mà còn đặt ra những vấn đề của xã hội. Thói quan liêu, vô
trách nhiệm của Nam Tào Bắc Đẩu đã t ước đi mạng sống của
người dân vô tội và gây nên bao nhiêu chuyện rắc rối. Sự sửa sai
chắp vá của Đế Thích lại là tiền đề bất hạnh cho cuộc đời hồn nọ
xác kia không hoàn chỉnh của ông Trương Ba. Mọi sự sửa sai
không đúng chỗ đều chứa trong nó nhiều bi kịch hơn là niềm vui.
Quyết định vĩnh viễn từ bỏ cuộc sống vay mượn giả tạo của
Trương Ba ở phần kết là một sự phản kháng mãnh liệt và đau
đớn.

Trích đoạn Hồn Trương Ba da hàng thịt đưa vào dạy trong SGK
Ngữ văn lớp 12 là một phần thuộc Cảnh VII – cũng là cảnh cuối
cùng của vở kịch, được đặt tên là Thoát ra nghịch cảnh(2). Trọng
tâm của lớp kịch là cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác Trương Ba.
Do đó lời thoại ở đây vừa có thể coi là độc thoại vừa có thể coi là
đối thoại. Nó là một lời thoại đặc biệt, vừa chứa đựng mâu thuẫn
vừa mang tính hành động, thúc đẩy tình huống kịch phát triển đến

mức cao nhất. Cuộc đối thoại giữa Hồn và Xác là đỉnh cao tư
tưởng triết lý của vở kịch. Cuộc đối thoại đó cùng với thái độ và
những lời đối thoại của những người ruột thịt thân yêu nhất đã
dẫn đến hành động quyết liệt - kiên quyết chối từ một cuộc sống
chắp vá hồn nọ xác kia của Trương Ba. Lưu Quang Vũ đã để cho
nhân vật của mình chọn một con đường tưởng như tiêu cực
nhưng hết sức cần thiết và đúng đắn: Rời bỏ cõi đời này để được
đúng là mình, để giữ trong ký ức những người thân kỷ niệm tốt
đẹp về mình. Có nhà nghiên cứu cho rằng “cuộc vật lộn giữa
“Hồn Trương Ba” và “Da Hàng thịt” thực chất là cuộc giao tranh
giữa hai linh hồn trong một thân xác”(3).

Lưu Quang Vũ đã kế thừa tư tưởng của truyện cổ dân gian. Anh
cũng nhấn mạnh vai trò quan trọng hơn của linh hồn so với thể
xác. Hàng loạt nhân vật phụ được hư cấu đã phát ngôn cho tư
tưởng đó của tác giả. Trong khi tất cả những người thân, kể cả
người vợ, phủ nhận, xa lánh Trương Ba trong xác anh hàng thịt,
thì cô con dâu lại càng thông cảm với ông hơn. Mặc dù cô cũng
nhận ra bao nhiêu điều ngang trái xuất hiện nơi con người
Trương Ba. Bằng những lời mộc mạc, giản dị, cô đã nói khá
đúng, khá cơ bản về linh hồn: “Thày vẫn dạy chúng con: cái bề
ngoài có quan trọng gì, chỉ có tấm lòng yêu thương và trí tuệ cao
sáng của con người ta là đáng kể”; “Đã gọi là hồn làm sao có
hình thù, bởi nó không là vuông hay tròn, mà là vui, buồn, mừng,
giận, yêu, ghét…”(4). Qua hàng loạt lời thoại của các nhân vật,
nhà viết kịch đã thể hiện một cái nhìn biện chứng đối với mối
quan hệ Hồn - Xác. Người sống mượn hồn hay xác của kẻ khác
thì cũng đều bất ổn như nhau, đều không còn là mình nữa. Một
linh hồn dù tốt đẹp khi trú ngụ trong thân xác khác cũng sẽ bị biến
dạng, bởi nó bị chi phối theo thói quen và bản năng của thân xác

đó, hơn nữa nó luôn bị dằn vặt trong mặc cảm giả dối và ích kỉ.
Chưa kể còn hàng loạt những hệ luỵ, rắc rối khác như đã xảy ra
ở các màn kịch trước. Cuộc đấu tranh này cũng cảnh báo khả
năng lấn át của thể xác, của những nhu cầu tầm thường đối với
khát vọng sống cao đẹp.

Cuộc sống chắp vá hồn nọ xác kia là một bi kịch cho Trương Ba
và càng đau đớn hơn nữa khi ông ý thức được rằng sự vay
mượn này còn đem lại bao đau khổ cho những người thân của
mình. Nó còn đáng sợ hơn cả cái chết. Hồn Trương Ba đã nói với
cô con dâu: “Thày đã làm u khổ. Có lẽ cái ngày u chôn xác thày
xuống đất, tưởng thày đã chết hẳn, u cũng không khổ bằng bây
giờ”(5). Có lẽ đây cũng là một nguyên nhân khiến Trương Ba đi
đến chấp nhận cái chết, trả lại xác anh hàng thịt. Từ tư tưởng triết
lý đúng về quan hệ giữa hồn và xác, Lưu Quang Vũ đã đi đến
một quan niệm đẹp về cách sống: sống chân thật đúng là mình,
sống vì mọi người, vì hạnh phúc và sự tốt đẹp của con người.
Trương Ba chết nhưng ông vẫn sống, sống trong tình cảm, trong
“cõi nhớ” của mọi người, sống trong Sự sống, không cần phải
mượn đến thân xác của người khác. Đó là suy nghĩ vừa biện
chứng vừa lạc quan và cao thượng. Ý tưởng sâu sắc đó, sau này
lại được Lưu Quang Vũ thể hiện đậm nét trong vở Người trong
cõi nhớ - một vở diễn đạt Huy chương vàng Hội diễn Sân khấu
chuyên nghiệp toàn quốc năm 1985. Kịch bản này có một lối kết
cấu khá độc đáo. Các nhân vật xuất hiện đồng thời theo các bình
diện không gian khác nhau. Những người đang sống và những
người đã chết. Đã chết như chỉ là mất đi cái phần thân xác,
những tư tưởng, tinh thần, những khát vọng, ước mơ cao đẹp
của họ vẫn sống. Sống trong sự nghiệp, trong nỗi nhớ thường
ngày của những người đang sống hôm nay. Qua lời của một

nhân vật kịch, Lưu Quang Vũ đã bộc lộ quan niệm của anh về sự
sống chết: Con người tồn tại ở ba cõi. Đó là thế giới của những
người đang sống và cõi lặng im. Cõi thứ ba: Cõi của những
người đang sống TRONG TRÍ NHỚ CỦA NGƯỜI KHÁC, những
người không bị lãng quên Và có thể nói quan niệm này đã chi
phối hàng loạt các vở kịch khác của anh.

Hồn Trương Ba da hàng thịt là một tác phẩm đỉnh cao trong sự
nghiệp sáng tác của Lưu Quang Vũ. Năm 1990, tại Liên hoan
Sân khấu Quốc tế lần I tổ chức tại Mátxcơva, lần đầu tiên xuất
ngoại, vở diễn đã được đánh giá xuất sắc nhất Liên hoan. Năm
1998 vở Hồn Trương Ba da hàng thịt đã đi lưu diễn tại Mỹ trong
chương trình giao lưu sân khấu Việt - Mỹ (V.A.T.E.I) được đánh
giá là sự kiện văn hoá lớn. Nhà văn Hồ Anh Thái - người được
chứng kiến không khí sôi động của đêm diễn trên đất Mỹ sau này
đã tái hiện lại qua bài viết Đêm không ngủ ở Seattle (mượn tên
một bộ phim nổi tiếng của điện ảnh Mỹ)(6). Tác giả Phan Ngọc
cũng đã có những lời đánh giá cao đối với tác giả vở diễn này:
“Theo tôi nghĩ, Lưu Quang Vũ là nhà viết kịch lớn nhất thế kỷ này
của Việt Nam, là một nhà văn hóa Có một Kịch pháp Lưu
Quang Vũ mà cả Đông Nam Á có thể tiếp thu. Vũ là một Prôtê, vị
thần trong thần thoại có thể thay hình đổi dạng tuỳ theo sở
thích… Không ai bằng Vũ trong biệt tài nêu lên cái muôn đời
trong cái bình thường, biến cổ tích, huyền thoại thành chuyện
thời sự, dùng cái hư để nói cái thực, dùng cái thô lỗ để khẳng
định cái cao quý”

×