Kiến thức lớp 12
"Số phận con người" -Sô
lô khốp –phần2
Phân tích nhân vật Xôcôlốp
Hêminguây (1899-1960) văn hào Mỹ, được giải thưởng Nôbel về
văn chương năm 1954 đã từng viết: “Tôi rất thích văn học Nga…
Trong các nhà văn hiện đại tôi thích Sôlôkhốp”. Là nhà văn Xô
Viết được giải thưởng Nobel về văn học năm 1965, Sôlôkhốp
được ca ngợi là “một trong những nhà văn xuôi lớn nhất thế kỷ
20”.
“Đất vỡ hoang”, “Sông Đông êm đềm”,… và “Số phận con người”
đã đem đến vinh quang cho Sôlôkhốp. Truyện “Số phận con
người” xuất hiện trên báo “Sự thật” vào cuối năm 1956. Hình ảnh
nhà văn Xôcôlốp để lại trong lòng ta bao ám ảnh về số phận con
người đầy bất hạnh thương đau. Qua số phận nhân vật này, ta
cảm nhận sâu sắc nhiệt tình tố cáo thảm họa chiến tranh, mô tả
chiến tranh trong bộ mặt thật của nó; biểu dương khí phách anh
hùng của người lính Xô viết, khám phá chiều sâu tính cách Nga
bình dị, nhân ái - được thể hiện bằng một bút phát nghệ thuật
điêu luyện, độc đáo của nhà văn Sôlôkhốp.
Đọc “Số phận con người” ta vô cùng xúc động trước trang đời
đầy nước mắt và máu của nhân vật Xôcôlốp. Năm 1941, phát xít
Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Cùng với hàng triệu người Xô viết
cầm vũ khí đứng lên, Xôcôlốp ra trận. Anh nếm trải những gian
truận, thất bại buổi đầu của Liên Xô. Hai lần bị thương vào chân
và tay. Rồi anh bị giặc bắt, bị đày đọa suốt hai năm trong nhiều
trại tập trung. Sống bằng xúp lõng bõng, bánh mì lẫn mạt cưa. Áo
quần xơ xác, lao động khổ sai, người tù ra bọc xương. Hàng trăm
tù binh bỏ mạng. Tù binh Nga bị bọn phát xít đánh bằng thanh
sắt, thanh gỗ, thanh củi, đánh bằng báng súng, đấm bằng tay,
đạp bằng chân vô cùng dã man. Bọn chỉ huy trại đấm vào mặt,
vào mũi tù binh cho hộc máu ra; chúng gọi đó là trò “phòng bệnh
cúm”. Chúng “sáng tạo” ra mọi cách cực kỳ man rợ để đánh đập
bắn giết tù binh. Đêm và ngày, lúc lao động khổ sai và lúc bị nhốt
sau hàng rào dây thép gai, Xôcôlốp cũng như các tù binh khác bị
cái chết bủa vây, bị tử thần rình rập.
Sau 5 năm chiến tranh, hơn 20 triệu người Xô viết bị chết, hàng
ngàn thành phố, hàng vạn làng mạc bị bom đạn phát xít biến
thành tro tàn. Gia đình Xôcôlốp gánh chịu bao mất mát đau
thương. Vợ và 2 con gái bị giặc ném bom giết hại. Con trai - đại
uý pháo binh Anatôli, niềm tự hào cuối cũng đã ngã xuống trong
ngày chiến thắng bởi viên đạn bắn lén của một tên thiện xạ phát
xít! Thế là hết! Nỗi đau khủng khiếp làm cho Xôcôlốp “như người
mất hồn”. Chiến tranh kết thúc, được giải ngũ nhưng anh không
muốn về lại Vôrônegiơ quê hương vì đâu còn gia đình nữa. Bé
Vania cũng là hiện thân cho thảm họa chiến tranh. Cha “chết ở
mặt trận”. “Mẹ bị bom chết trên tàu hỏa khi mẹ con cháu đang đi
tàu”. Bé cũng không biết, không nhớ từ đâu đến. Bà con thân
thuộc “không có ai cả”. Và chỉ biết “bạ đau ngủ đó”, “ai cho gì thì
ăn nấy!” Áo quần em “rách bươm xơ mướp”, “đầu tóc rối bù”;
“mặt mũi thì bê bết nước dưa hấu, lem luốc bụi bặm, bẩn như ma
lem”…
Hình ảnh bé Vania cũng như cuộc đời Xôcôlốp được tác giả miêu
tả một cách chân thật cảm động thể hiện nhiệt tình tố cáo thảm
họa chiến tranh, mô tả chiến tranh trong bộ mặt thật của nó. Cái
giá của chiến thắng mà mọi dân tộc cũng như nhân dân Liên Xô
trong thế chiến 2 phải trả là cực kỳ khủng khiếp. Chỉ còn lại một
phần ba số binh sĩ ra trận trở về, trong số đó, nhiều người trên
mình mang đầy thương tật. Sức khỏe sa sút, cạn kiệt. Chiến
tranh đã đi qua, nhưng một năm sau Xôcôlốp cảm thấy quả tim
mình, “đã rệu rã lắm rồi”, nhiều khi “tự nhiên nó nhói lên, thắt lại,
và giữa ban ngày mà tối tăm mặt mũi”. Nhưng cái đau khổ nhất
do bão tố chiến tranh đem đến cho con người không chỉ là mất
mát, tang thương, điêu tàn… mà còn là những vết thương lòng rỉ
máu, những ám ảnh kinh hoàng còn mãi trong ký ức, cứ xiết chặt
lấy tâm hồn người lính thời hậu chiến. Bé Vania vốn hoạt bát có
lúc lại “lặng thinh, tư lự” có lúc lại “thở dài”. Cái áo bành tô da của
bố ngày nào cứ riết lấy tâm hồn của em như một ám ảnh không
nguôi! Còn Xôcôlốp thì nỗi đau như vô tận “không ở lâu mãi một
chỗ được”, nỗi buồn không bao giờ nguôi, “hai bố con cứ cuốc bộ
khắp nước Nga”… Hầu như đêm nào anh cũng chiêm bao thấy
những người thân bị giặc giết “gặp lại vợ con sau hàng rào dây
thép gai”…, “ban ngày trấn tĩnh được, không hở ta một tiếng thở
dài, một lời than vãn nhưng ban đêm thì gối ướt đầm nước
mắt…”. Xôcôlốp và bé Vania trở thành “côi cút, hai hạt cát đã bị
sức mạnh phũ phàng của bão tố chiến tranh thổi bạt tới những
miền xa lạ…”
Nhân vật Xôcôlốp là một con người Nga chân chính, tiêu biểu cho
khí phách anh hùng của người lính Xô viết trong cuộc chiến tranh
vệ quốc vĩ đại. Vốn là một nông dân rồi làm thợ, một lái xe. Một
gia đình ổn định, êm ấm: một vợ và ba con. Anh đã ra trận như
hàng triệu công dân với ý thức “Tổ quốc hay là chết!” Hai lần bị
thương vào chân và tay; vết thương lành, anh lại cầm súng đánh
giặc rồi bị bắt làm tù binh. Lao động khổ sai trong mưa, nắng,
tuyết; bị đánh bằng báng súng, bằng thanh sắt, bằng gộc. Áo
quần tả tơi, bánh mì lẫn mạt cưa, lưng bát xúp lõng bõng. Anh đã
đứng vững trước mọi thử thách ác liệt. Kiên quyết trừ khử tên
phản bội đốn mạt! Hiên ngang trước mũi súng tên hung thần
Muynle , chỉ huy trại tập trung. Với đôi mắt bình thản, anh nhìn
thẳng vào họng súng lục tên phát xít. Tự kìm chế sự đói khát khi
đứng trước bàn tiệc của lũ giặc. Đàng hoàng uống rượu, không
chỉ uống một cốc mà còn uống nữa để mừng cái chết của mình
kinh ngạc khâm phục nói:
“Mày là một thằng lính Nga chân chính. Tao cũng là lính và tao
trọng những địch thủ có khí tiết. Tao sẽ không bắn mày nữa”.
Tầm vóc của Xôcôlốp, của người lính Nga trong máu lửa được
miêu tả một cách chân thực, hào hùng làm cho truyện “Số phận
con người” mang vẻ đẹp một “tiểu anh hùng ca”.
Qua nhân vật Xôlôlốp, tác giả đã khám phá chiều sâu tính cách
Nga bình dị và nhân ái. Sau chiến tranh anh vẫn nhớ hoài cái
giây phút từ biệt vợ con để ra trận, anh đẩy Irina ra khi chị cứ níu
lấy anh, không thả… Bình dị trước biến cố trọng đại khi lịch sử
đưa số phận anh lên “điểm tựa” thử thách! Lửa chiến tranh đã tắt
hơn một năm rồi, mà lòng Xôcôlốp mãi không nguôi đau. Anh đã
tìm đến rượu, “uống một ly rượu lử người”, anh đã “quá say mê
cái món nguy hại ấy!”
Đang sống âm thầm trong bị kịch, anh tưởng không có lối thoát.
Nhưng rồi tình cảm người cha, - tình thương đồng loại đã thức
dậy, làm cho vết thương lòng rỉ máu bấy nay, như được mọc lên
một lớp da non. Gặp bé Vania “đầu tóc rối bù”, “rách bươm xơ
mướp”, sống bơ vơ nơi hiệu giải khát, bạ đâu ngủ đó… ai cho gì
thì ăn mấy”, nhất là khi nhìn thấy cặp mắt của em “như những
ngôi sao sáng ngời sau trận mưa đêm”, Xôcôlốp thấy “thích nó”
và “nhớ nó”, cố cho xe chạy nhanh để được về “gặp nó”. Anh đã
quyết định: “Không thể để cho mình với nó chìm nghỉm riêng rẽ
được! Mình sẽ nhận nó làm con!” Một quyết định đầy nhân ái.
Anh đã cứu bé Vania, và anh đã tự cứu mình! Như có một phép
thần biến cải: “Ngay lúc đó tâm hồn tôi bỗng nhẹ nhõm và bừng
sáng lên!” Câu nói khẽ của Xôcôlốp: “Là bố của con” khi nghe bé
Vania nghẹn ngào hỏi: “Thế chú là ai?” tưởng là bình dị nhưng
đầy nước mắt, chứa đựng cả một biển tình thương mênh mông!
Trước những cái hôn vào má, vào môi, vào trán, trước những cử
chỉ “yêu thương bố…” của bé Vania Xôcôlốp vô cùng xúc động:
“Mắt tôi thì mờ đi, cả người cũng run lên, hai bàn tay lẩy bẩy…”
Xôcôlốp đã nhận bé Vania làm con. Anh đã tắm rửa, đưa bé đi
cắt tóc, may áo quần mới, săn sóc em. Hai linh hồn đau khổ tựa
vào nhau làm cho nỗi mất mát, đau thương sau chiến tranh được
dịu lại. Giấc ngủ được yên lành hơn: “Lần đầu tiên, sau nhiều
năm tôi được ngủ một giấc yên lành. Còn bé Vania thì rúc vào
nách bố nuôi “như con chim sẻ dưới mái rạ, ngáy khe khẽ…”
Hạnh phúc là san sẻ. Xôcôlốp lòng vui không lời nào tả xiết, đêm
đêm thức dậy đánh diêm ngắm nhìn bé Vania ngủ ngon lành. Đời
anh đã có một sự đổi thay kì diệu: “Trái tim đã suy kiệt, đã bị chai
sạn vì đau khổ, nay trở nên êm dịu hơn. Vết thương lòng đâu dễ
nguôi? Vì thế mà Xôcôlốp phải cõng đứa con nuôi bé bỏng đi
khắp nước Nga. Chỉ đến một lúc nào đó, bé Vania lớn lên vào
học một trường ổn định thì Xôcôlốp “mới có thể ở yên một chỗ”.
Anh đang chịu đựng và vượt qua số phận bằng tình thương của
người bố đối với đứa con.
Cuộc gặp bất chợt với “hai con người côi cút” và câu chuyện đau
lòng của họ đã để lại trong lòng tác giả bao nỗi buồn thấm thía,
nhưng ông vẫn tin vào dũng khí và lòng nhân ái của người Nga,
vẫn tin vào tương lai, cho dù bão tố chiến tranh có thổi bạt họ tới
những miền xa lạ. “Cái gì đang chờ đón họ ở phía trước? Thiết
nghĩ rằng con người Nga đó, con người có ý chí kiên cường, sẽ
đứng vững được và sống bên cạnh bố, chú bé kia một khi lớn lên
sẽ có thể đương đầu với mọi thử thách, sẽ vượt qua mọi chướng
ngại trên đường, nếu như Tổ quốc kêu gọi”.
Truyện “Số phận con người” có kết cấu “truyện lồng trong truyện”
đã tô đậm những đau khổ, những phẩm chất cao đẹp của nhân
vật Xôcôlốp, khắc họa đậm nét tính cách và tâm hồn Nga, đem
đến cho người đọc nhiều xúc động thấm thía về số phận con
người trong chiến tranh và thời hậu chiến.
Với những chi tiết, tình tiết rất sống, rất điển hình và chân thực,
tác giả đã mô tả mặt thật của chiến tranh , ca ngợi người lao
động bình thường trong cuộc đời, anh binh nhì trong máu lửa,
người cha trong cuộc sống phức tạp, nhiều khó khăn thời kỳ sau
chiến tranh. Qua nhân vật Xôcôlốp, người đọc cảm nhận được
những ý tưởng sâu sắc mà Sôlôkhốp gửi gắm qua kiệt tác này:
Với lòng dũng cảm mà con người vượt qua những thử thách
chiến tranh; với lòng nhân ái có thể làm dịu bớt nỗi đau mà chiến
tranh gieo rắc, để lại. Đoạn trữ tình ngoại đề làm cho cảm hứng
nhân đạo thêm lung linh chói sáng.
Nhân dân Việt Nam vừa trải qua 30 năm chiến tranh. Hình ảnh
Xôcôlốp rất gần gũi với mỗi chúng ta. Nhân vật này rất sống, rất
đáng thương nhưng vô cùng cao đẹp xứng đáng được mọi người
yêu mến, cảm phục.