Tải bản đầy đủ (.pdf) (9 trang)

Kiến thức lớp 10 Nguyễn Trãi –những kiến thức cần nắm pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.26 KB, 9 trang )

Kiến thức lớp 10
Nguyễn Trãi –phần3

KIẾN THỨC CƠ BẢN

Nguyễn Trãi đã sống một cuộc đời mà cả hạnh phúc lẫn thương
đau đều được đẩy đến tột cùng. Trong khoảng thời gian đời
người hơn 60 năm, thi nhân đã để lại một gia sản vô cùng quý
giá.

Chỉ tính riêng trong lĩnh vực văn chương, lời nhận định kia đã
không có gì là thái quá. Trước tác của Ức Trai có thơ, có văn, lại
có cả lịch sử, địa lí nữa. Ở mảng thơ, bên cạnh tập thơ chữ Hán
nổi tiếng Ức Trai thi tập, thiết nghĩ còn cần phải đặc biệt chú ý vị
trí vai trò của tập Quốc âm thi tập. Tác phẩm xưa nhất bằng Việt
ngữ mà chúng ta còn giữ được này, không những chiếm địa vị
quan trọng trong lịch sử văn học nước nhà mà còn là tài liệu chủ
yếu để nghiên cứu lịch sử phát triển của ngôn ngữ nước ta. Gồm
những bài thơ viết rải rác trong suốt cuộc đời, Quốc âm thi tập đã
giúp người đọc khai mở nhiều phần sâu kín trong tâm hồn người
thi sĩ bất hạnh vào loại bậc nhất trong lịch sử phong kiến Việt
Nam.

Quốc âm thi tập có một cấu trúc chỉnh thể với 4 phần. Trong đó
phần vô đề gồm toàn bộ những bài thơ không có tựa đề, được
chia thành các nhóm : ngôn chí, mạn thuật, trần tình, thuật hứng,
tự thán, bảo kính cảnh giới… Chùm thơ Bảo kính cảnh giới
(Gương báu răn mình - bài 43 luyến láy mình) có 61 bài. Những
câu thơ trong Bảo kính cảnh giớidu dương, có chút vui điểm vào
cuộc đời đầy u uất của thi nhân Nguyễn Trãi.


Được tổ chức theo kiểu một bài thất ngôn bát cú nhưng bài thơ
lại mở đầu bằng một câu thơ thất luật, ngắt nhịp tự do, tự nhiên
như lời nói thường ngày :
Rồi/ hóng mát/ thuở ngày trường

Khởi hứng bằng một tâm thế - tâm thế của một con người an
nhàn hưởng thụ (thiên nhiên). Bài thơ có lẽ được làm trong một
lần Nguyễn Trãi về ở Côn Sơn (theo Đào Duy Anh, trong đời
mình Nguyễn Trãi có nhiều lần về ở Côn Sơn). Rũ sạch bụi lầm
của chốn phồn hoa đô hội, con người đến với thiên nhiên tự do,
tự tại, giản dị không gò ép. Phải chăng, vì thế mà câu thơ cũng
vuột ra khỏi cái khuôn khổ của thơ luật để giản dị, nhẹ nhàng như
chính con người và cuộc sống chốn sơn lâm.

Câu thơ nhẹ nhàng gợi nghĩ đến hình ảnh một vị tiên đồng, đạo
cốt. Từ rồi (có bản chép là rỗi) kết hợp với ngày trường cộng
hưởng với nhịp thơ kéo giãn thời gian của một ngày. Cảm giác
thư thái cũng theo đó mà ngân nga.

Nguyễn Trãi không phải người không biết giới hạn. Có nhiều lần
ông đã bày tỏ ý nguyện "công thành thân thoái". Nếu phải viện
đến lí do thì có lẽ nhiều người sẽ nghĩ đến sự gắn bó rất chân
thành của tác giả với thiên nhiên. Những bức tranh thiên nhiên
mà tác giả đã say sưa nét vẽ như ở trong bài thơ này đã chứng
tỏ một điều cuộc sống đâu phải cứ giàu có thì sang trọng :

Hoè lục đùn đùn tán rợp giương
Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tiễn mùi hương


Cuộc sống của thi nhân là vậy. Cả cuộc đời nghèo khó, nhưng đó
chỉ là ở phương diện vật chất mà thôi.

Nhìn vào thi liệu thì bức tranh tất được vẽ vào lúc cuối hè : hoa
lựu đang rộn ràng chuyển sang màu đỏ rực, sen thì đã tiễn mùi
hương. Việc lựa chọn thời gian nghệ thuật cũng như cách thức
miêu tả thiên nhiên hẳn không phải là chuyện ngẫu nhiên. Lá hoè
ngả sang màu lục, um tùm dồn lại thành từng khối lá xanh, toả
rộng, che rợp cả mặt sân. Hoa lựu không còn nhạt mà rực rỡ như
những chùm lửa đỏ. Sau này Nguyễn Du cũng dùng hoa lựu để
nói cái oi bức, rực nóng của mùa hè :

Dưới trăng quyên đã gọi hè,
Đầu tường lửa lựu lập loè đơm bông.

Dưới những ao đầm, hoa sen hồng đã nở rộ xen giữa những
chiếc lá mát xanh, cả đầm sen đưa hương thơm ngát. Điểm vào
cái không gian ấy là tiếng ve kêu ồn ã như đang trút hết mình cho
phút chiều tà. Nếu mùa xuân là mùa cây cối đâm chồi nảy lộc thì
mùa hạ là lúc trưởng thành. Đặc biệt cuối hè là lúc nó phô diễn
một sức sống căng đầy, sung mãn nhất của sự trưởng thành. Nó
bắt đầu kết trái cho mùa thu để rồi chuẩn bị cho sự hoá thân vào
mùa đông. Thiên nhiên trong bài thơ này là thế : dường như nó
đang ở trạng thái căng đầy nhất. Một bức tranh thiên nhiên đủ gợi
cho chúng ta liên tưởng về một cuộc sống ấm no, đủ đầy.

Hài hoà cùng thiên nhiên là cuộc sống sinh hoạt thường nhật của
người lao động :

Lao xao chợ cá làng ngư phủ


Hàm ý của câu thơ dồn cả vào cái âm thanh của chợ cá. Sự náo
nhiệt của chợ cá gợi lên sự liên tưởng về cuộc sống no ấm thanh
bình của người dân. Bởi chợ cá ở đây rất có thể chỉ là một góc
chợ quê, mà âm thanh vẫn rộn ràng náo nhiệt vô cùng.

Làm theo thể thất ngôn bát cú nhưng kết cấu đề - thực - luận - kết
xem ra không phải là lựa chọn hợp lí để tiếp cận bài thơ này. Bài
thơ có thể được chia theo bố cục 6/2. Trên là vẻ đẹp của thiên
nhiên và âm thanh cuộc sống, dưới là ước vọng của nhà thơ :

Dẽ có Ngu cầm đàn một tiếng,
Dân giàu đủ khắp đòi phương.

là một mô típ thường thấy trong thơ Nguyễn Trãi. Một tấc lòng ái
ưu luôn chỉ chực dâng lên cùng sóng nước. Câu thơ gắn với một
điển tích. Ở Trung Quốc thời cổ đại có một triều đại lí tưởng (thực
chất là một cộng đồng người nguyên thuỷ sống theo bộ tộc) được
đời đời truyền tụng như là một hình mẫu đẹp - thời vua Nghiêu
Thuấn. Vua Thuấn có cây đàn (gọi là Ngu cầm). Vua thường hay
dạo khúc Nam phong trong đó có câu "Nam phong chi thì hề khả
dĩ phụ ngô dân chi tài hề" nghĩa là "gió nam thuận thì có thể làm
cho dân ta thêm nhiều của". Mượn một điển tích, Nguyễn Trãi đã
không giấu được sự vui mừng khi thấy dân chúng khắp nơi đang
được đủ đầy no ấm.

Câu thơ cuối cùng tương ứng với câu đầu, vượt ra khỏi luật
Đường. Nhịp thơ 3/3 ngắn gọn, dứt khoát, thể hiện ước vọng
chân thành của Nguyễn Trãi, mong sao ở mọi nơi, cuộc sống
thanh bình no ấm sẽ đến với mọi người.


Câu nói của người xưa "Tiên thiên hạ chi ưu nhi ưu, hậu thiên hạ
chi lạc nhi lạc" (lo trước cái lo của thiên hạ, vui sau cái vui của
thiên hạ) thật hợp với cuộc đời Nguyễn Trãi. Một cuộc đời trọn
tình, vẹn nghĩa với nước với dân.


Trần Thánh Tông (1240 - 1290) cũng có bài thơ Hạ cảnh (Cảnh
mùa hạ) :

Yểu điệu hoa đường, trú cảnh tràng
Hà hoa suy khởi bắc song lương
Viên lâm vũ quá, lục thành ác
Tam lưỡng thuyền thanh náo tịch dương.

Dịch nghĩa :

Cảnh trí ở hoa đường êm dịu, ngày mùa hè lại dài
(Khi ấy) có luồng gió lùa qua cửa sổ phía Bắc, thoảng mùi hoa
sen thơm mát
Khi cơn mưa đã tạnh, cây cỏ trong rừng, trong vườn xanh tươi
um tùm coi như bức màn màu xanh che phủ vậy
(Ngồi ngắm cảnh hoa đường) biết bao vui vẻ, thỉnh thoảng lại có
hai ba tiếng ve sầu du dương như nhịp sáo ở dưới bóng nắng
chiều hôm.

Dịch thơ :

Hoa đường êm dịu ngày dài
Gió lùa cửa bắc thoảng mùi hương sen

Tạnh mưa xanh ngát cây vườn
Giọng ve ánh ỏi ngâm rền chiều hôm.
(Vũ Huy Chiểu dịch, Hoàng Việt thi tuyển trích dịch,
Đại học Sư phạm Sài Gòn, 1965)

×