Kiến thức lớp 10
"Độc Tiểu Thanh Ký" –Nguyễn Du-phần 11
Tâm sự của Nguyễn Du qua bài thơ Độc Tiểu Thanh ký :
Bài thơ Độc Tiểu Thanh ký được Nguyễn Du sáng tác nhân đọc
bài ký về nàng Tiểu Thanh. Sơ lược về cuộc đời nàng Tiểu
Thanh như sau:
“Nàng Tiểu Thanh tức Phùng Văn Cơ (1594 - 1612) mồ côi từ
nhỏ, được một bà sư nuôi và cho đi học, là người có nhan sắc và
thông tuệ. Năm 16 tuổi, nàng lấy lẽ một công tử cũng họ Phùng,
con nhà quyền quý nhưng ngốc nghếch. Người vợ cả độc ác, hay
ghen ghét, bắt nàng ở riêng. Nàng cô đơn chỉ biết gửi lòng vào
thơ từ, rồi sinh bệnh. Trước khi chết, nàng thuê họa sĩ đến vẽ
hình. Nàng bắt họa sĩ vẽ đi vẽ lại cho đến khi được một bức họa
lộng lẫy, có thần thái, rất sinh động. Khi nàng chết (18 tuổi) người
chồng tìm được quyển thơ của nàng sáng tác và mấy bức chân
dung đó. Người vợ cả biết chuyện đòi đưa ra. Người chồng giấu
giữ lại bức vẽ có thần thái rồi trao mấy bức vẽ nháp cùng quyển
thơ cho vợ. Bà vợ cả đốt hết. Về sau, do tình cờ, một người họ
hàng nhà chồng tìm thấy mấy tờ giấy nàng gói quà cho con gái
người giúp việc, đó lại chính là bản nháp thơ của nàng, bèn đưa
khắc in và đặt tên tập thơ là Phần dư.”
Câu chuyện về cuộc đời nàng Tiểu Thanh đã gợi cảm hứng cho
Nguyễn Du sáng tác bài thơ Độc Tiểu Thanh ký để nói lên nỗi
lòng mình. Đây là một bài thơ tâm trạng, một tâm trạng u uất
trong một hoàn cảnh rất tế nhị nên tác giả thể hiện tâm tư cũng
rất kín đáo.
Ngẫm kỹ trong lời văn và trong ý tứ của bài thơ Độc Tiểu Thanh
ký, ta thấy Nguyễn Du không viếng nàng Tiểu Thanh mà chỉ viếng
một tờ giấy. Ông cũng không đồng cảm chung chung với tất cả
những gì liên quan đến cuộc đời nàng Tiểu Thanh mà chỉ đồng
cảm với một phần đời của nàng thôi.
Tác giả quan niệm nàng Tiểu Thanh có hai phần đời: Phần nhan
sắc được thể hiện qua bức tranh và phần văn chương được thể
hiện qua tập thơ. Khi nàng chết đi, phần nhan sắc vẫn được
người chồng yêu dấu, giữ gìn, còn phần văn chương của nàng
hẩm hiu, đã bị đốt bỏ. Cái phần văn chương đó của nàng sở dĩ
còn được người đời biết đến là nhờ tờ giấy nháp đã bỏ đi. Do đó,
nhà thơ chỉ cảm thương cho phần đời văn chương của nàng mà
cũng là cảm thương cho cái mệnh của văn chương nói chung
trong đó có thơ ông. Bài thơ này ông sáng tác trên cái nền của
cảm xúc đó.
Bài thơ mở đầu bằng việc tác giả chỉ viếng một tờ giấy, đó là tờ
giấy nháp thơ được dùng để gói quà còn sót lại. Tờ giấy đó là
hiện thân cho phần đời thơ của nàng đã bị người chồng rẻ rúng
nên tác giả mới viếng nó:
Độc điếu song tiền nhất chỉ thư.
( Trước cửa sổ, ta chỉ viếng một tờ giấy.)
Trong phần thực: tác giả nêu lên một hiện thực đau lòng là vẻ
đẹp son phấn bên ngoài lại được người chồng nâng niu, quý mến
cho đến cả sau khi chết. Còn văn chương, biểu hiện của tài năng,
trí tuệ và tình cảm là những phẩm chất cao quý thì lại chịu phận
hẩm hiu, bị rẻ rúng, phải nhờ vào tờ giấy nháp dùng để gói quà
còn sót lại (phần dư) mà đến được với đời. Chúng ta hãy chú ý
đến tình tiết tế nhị này trong câu chuyện về cuộc đời nàng Tiểu
Thanh:
Nhan sắc : Bản chính - giữ lại, bản nháp - đốt bỏ.
Văn chương: Bản chính - đốt bỏ, bản nháp - giữ lại.
Và liên hệ với hai câu thơ trong phần thực:
Chi phấn hữu thần liên tử hậu
Văn chương vô mệnh lụy phần dư.
( Nhan sắc có thần thái nên được thương tiếc cả sau khi chết.
Văn chương mệnh hẩm nên phải nhờ vào phần còn sót lại. )
Đó là nghịch cảnh trớ trêu cho đời thơ của nàng Tiểu Thanh. Và
đọc tiếp mấy câu sau, ta thấy đó cũng lại là nghịch cảnh trớ trêu
với cả đời thơ của Nguyễn Du nữa.
Phần luận: tác giả luận về nguồn gốc khó hiểu của những oán
hận, oan trái xưa nay ở đời, và chính ông cũng đang mắc phải
nỗi oan kỳ lạ như thế. Biết rằng những nỗi oan như thế rất khó
làm sáng tỏ nên ông buộc phải chấp nhận sống cùng oan trái:
Cổ kim hận sự thiên nan vấn,
Phong vận kỳ oan ngã tự cư.
( Cái hận xưa nay khó hỏi trời cho rõ được,
Ta đành phải sống trong nỗi oan phong vận lạ kỳ. )
Phong vận là vận gió, vận nhất thời hay cũng có thể gọi là thời
vận. Đó là cái vận do thời thế mang lại. Phong vận nằm trong câu
văn này cho phép ta tin chắc rằng: Nỗi oan kỳ lạ mà ông buộc
phải sống trong đó là nỗi oan trong đời văn chương của ông, nỗi
oan này do thời thế mang lại.
Trong phần kết, ông viết:
Bất tri tam bách dư niên hậu,
Thiên hạ hà nhân khấp Tố Như?
Nguyễn Du cho rằng: Khi thời vận đổi thay, thì có thể người đời
sẽ hiểu được ông. Và ông dự đoán khoảng thời gian đó là: Tam
bách dư niên hậu tức hơn ba trăm năm sau. Hơn ba trăm năm là
một khoảng thời vận theo quan niệm lúc đó của ông.
Vậy tại sao ông lại quan niệm một khoảng thời vận là hơn ba
trăm năm? Ta thấy ý nghĩ này nung nấu tâm can tác giả kể từ câu
mở đầu bài thơ:
Tây Hồ hoa uyển tận thành khư.
(Vườn hoa bên Hồ Tây đã trở nên hoang phế. )
Bài thơ khiến ta liên tưởng đến những biến cố của thời cuộc đang
diễn ra trước mắt nhà thơ. Một triều đại từng một thời lừng lẫy đã
vĩnh viễn đi khuất; những gì huy hoàng của triều đại đó, triều đại
đã tồn tại hơn ba trăm năm với kinh đô đóng bên Hồ Tây (triều
Lê), đã trở nên hoang phế. Triều đại tiếp theo (Quang Trung)
cũng đã nhanh chóng ra đi. Và Nguyễn Du đoán rằng: Triều đại
hiện thời (Nguyễn Gia Long) tồn tại lâu lắm cũng không thể quá
cái thời hạn hơn ba trăm năm kia được.
Xét trong mạch tâm tư của Nguyễn Du thì quan niệm về khoảng
thời vận của ông không phải lúc nào cũng như vậy. Trước đó
mấy chục năm, trong bài Vị Hoàng doanh, ông viết:
Cổ kim vị kiến thiên niên quốc.
(Xưa nay chưa thấy nước ngàn năm. )
Nước theo quan niệm của người phong kiến là triều đại của một
dòng họ nào đó chứ không phải là một vùng trên bản đồ địa lý
như quan niệm hiện nay. Nguyễn Du viết bài Vị Hoàng doanh khi
ông thấy doanh trại của quân đội Tây Sơn đóng bên sông Vị
Hoàng. Khi đó, quân Tây Sơn đang mạnh, nên chắc là ông lấy
thực tế ở Trung Quốc mà suy. Ở Trung Quốc, triều đại tồn tại lâu
nhất là nhà Chu cũng mới 901 năm (1122 - 221 trước công
nguyên).
Còn khi viết bài Độc Tiểu Thanh ký, triều đại Tây Sơn hùng mạnh
năm nào đã không còn. Có lẽ Nguyễn Du đã lấy theo thực tế ở
Việt Nam mà suy. Ở Việt Nam ta, từ khi giành được độc lập cho
đến khi đó, vương triều tồn tại lâu nhất là triều Lê cũng chỉ 360
năm (1428 - 1788).
Lúc này, mệnh văn chương của ông đang gặp hồi hẩm. Nhưng
ông tin rằng: Văn đạo của ông, tư tưởng của ông là đúng. Bây
giờ người ta chưa hiểu ông, nhưng khi thời vận đổi thay, có thể
sẽ có người hiểu ông, ông hy vọng vào điều đó. Ông tự nhận lấy
sự cô độc của một người đi trước thời đại nên chưa được người
đời hiểu đúng mình và tin chắc rằng: Sự đổi thay tất yếu sẽ xảy
ra, vận hạn mới sẽ tới, khi đó sẽ có người hiểu đúng ông. Có lẽ vì
thế mà nhà thơ tạo ra hai câu cuối thất niêm so với toàn bài chứ
như tài chữ nghĩa của ông mà với ý đó, viết lại hai câu cuối cho
đúng niêm luật chắc không đến nỗi quá khó. Hai câu này nói lên
ước mong của nhà thơ ở một vận hội mới nên chúng không còn
đơn giản xuôi theo niêm luật cũ nữa. Hình như nhà thơ dùng cả
sự bố trí niêm luật để góp phần thể hiện ý tưởng.
Đến đây, ta thấy cả hai bài thơ Điệp tử thư trung và Độc Tiểu
Thanh ký đã được viết trong cùng một trạng thái tâm lý là nỗi
niềm u uất, đau khổ cho mệnh văn chương. Cả hai bài thơ đã thể
hiện cùng một mạch tư duy với sự kiên định về quan điểm sáng
tác nhưng mức độ có khác nhau: Nếu như ở bài Điệp tử thư
trung, tác giả bế tắc chưa tìm ra lối thoát cho văn chương, thà
cam chịu chết nhiều lần cho sách để giữ lấy văn đạo thì đến bài
Độc Tiểu Thanh ký, có vẻ như tác giả đã tìm thấy lối ra khi ông
nói đến cái thời hạn tam bách dư niên hậu đó.
Tâm sự của Nguyễn Du trong hai bài thơ Điệp tử thư trung và
Độc Tiểu Thanh ký là những tư liệu quý giúp chúng ta tìm hiểu về
giai đoạn đầu hành thế của tác phẩm Đoạn trường tân thanh.