Ôn thi đại học môn văn –phần 22
Một số vấn đề lí luận văn học
Chuyên đề này được thiết kế nhằm giúp học sinh củng cố
những vấn đề lí luận văn học cơ bản liên quan tới các tác
phẩm trong chương trình THPT.
Cấu trúc mỗi vấn đề bao gồm:
- Định nghĩa, mô tả.
- Ví dụ.
- Ứng dụng.
Các kiến thức trình bày dưới dạng tinh giản với các dẫn chứng cụ
thể, thiết thực, sinh động, lấy tính ứng dụng làm tiêu chí cao nhất,
hi vọng có thể được các em lĩnh hội nhuần nhuyễn, sáng tạo
trong quá trình làm bài nghị luận văn học.
KIẾN THỨC CƠ BẢN
1. Quan điểm/ quan niệm sáng tác
+ Là gì:
- Chỗ đứng, điểm nhìn để nhà văn sáng tác.
- Phải được hiện thực hoá trong quá trình sáng tác.
- Được phát biểu trực tiếp hay thể hiện gián tiếp qua các tác
phẩm.
- Nhà văn nào cũng có quan điểm/quan niệm sáng tác nhưng để
tạo thành một hệ thống có giá trị thì không phải ai cũng làm được.
+ Vai trò:
- Chi phối toàn bộ quá trình sáng tác (lựa chọn đề tài, hình tượng,
lựa chọn lối viết, các hình thức nghệ thụât )
- Phần nào thể hiện tầm tư tưởng của nhà văn.
+ Ví dụ: Quan điểm sáng tác của Nguyễn Ái Quốc Hồ Chí Minh:
Văn học là vũ khí lợi hại phục vụ sự nghiệp cách mạng, nhà văn
là người chiến sĩ tiên phong trên mặt trận văn hoá tư tưởng.
+ Ứng dụng:
Phân tích quan điểm sáng tác của một nhà văn (Nguyễn Ái Quốc
- Hồ Chí Minh, Nam Cao…).
2. Phong cách nghệ thuật
+ Là gì:
Là nét riêng có tính hệ thống trong sáng tác của một nhà văn
+ Đặc điểm:
- Thiên về hình thức nghệ thuật.
- Có sự thống nhất và vận động trong quá trình sáng tác của nhà
văn.
+ Vai trò:
- Là một trong những điều kiện quan trọng để đánh giá vị trí, tài
năng của nghệ sĩ. Một nhà văn lớn phải là nhà văn có phong
cách.
- Thể hiện bản chất của văn chương: hoạt động sáng tạo.
+ Ví dụ:
- Phong cách nghệ thuật Xuân Diệu: Thơ dù viết về đề nào cũng
nồng nàn thao thiết niềm giao cảm với đời. Tư tưởng nghệ thuật
độc đáo này được chuyển hoá vào hệ thống các phương tiện
biểu hiện mới mẻ (bút pháp tương giao; ngôn ngữ rất Tây, tinh tế;
cách cấu tứ theo sự vận động của thời gian cùng giọng điệu thơ
đa dạng, phong phú đủ để tái hiện những cung bậc, những biến
thái tinh vi nhất, chân xác nhất của thế giới cũng như tình cảm
con người).
- Phong cách nghệ thuật Tố Hữu: mang tính chất thơ trữ tình
chính trị sâu sắc; đậm tính sử thi và cảm hứng lãng mạn; giọng
điệu tâm tình ngọt ngào tha thiết; đậm đà tính dân tộc
- Phong cách nghệ thuật Nguyễn Tuân: tài hoa, uyên bác; cảm
quan sắc nhọn phong phú; chữ nghĩa giàu có; tuỳ bút tài hoa =>
“Ngông”.
+ Ứng dụng
Phân tích phong cách nghệ thuật của một tác giả (Nguyễn Ái
Quốc - Hồ Chí Minh, Nguyễn Tuân, Tố Hữu, Nam Cao, Xuân
Diệu…)
3. Tình huống trong truyện ngắn
+ Là gì:
- Là lát cắt của đời sống mà qua đó tính cách nhân vật được bộc
lộ sắc nét nhất và tư tưởng nhà thể hiện rõ nhất.
“Là một lát cắt, một khúc của đời sống. Nhưng qua lát cắt, qua
khúc ấy người thấy được trăm năm của đời thảo mộc” (Nguyễn
Minh Châu)
- Biểu hiện qui luật có tính nghịch lí trong sáng tạo nghệ thuật: qui
mô nhỏ nhưng khả năng phản ánh lớn.
+ Vai trò:
- Khắc hoạ tính cách nhân vật, thể hiện tư tưởng nghệ sĩ.
- Xuất phát từ đặc trưng truyện ngắn: dung lượng nhỏ, thể hiện
nhân vật qua một khoảnh khắc ngắn ngủi của đời sống (tiểu
thuyết: dài, theo sát toàn bộ cuộc đời, số phận nhân vật…) =>
Tình huống phải giống như thứ nước rửa ảnh làm nổi lên hình
sắc nhân vật và tư tưởng nhà văn => Xây dựng được tình huống
truyện độc đáo là dấu hiệu của:
• Một tác phẩm có giá trị
• Một tác giả tài năng.
+ Ví dụ: tình huống đợi tàu ám ảnh (Hai đứa trẻ), tình huống cuộc
gặp gỡ đầy éo le, oái oăm giữa quản ngục và Huấn Cao (Chữ
người tử tù), tình huống nhận thức (Chiếc thuyền ngoài xa)…
+ Ứng dụng:
Phân tích tình huống truyện trong: Chiếc thuyền ngoài xa, Vợ
nhặt, Chữ người tử tù,…
4. Các giá trị văn học
+ Mô tả: có 3 giá trị cơ bản của văn học
- Giá trị nhận thức:
• Mang tới cho bạn đọc những tri thức sâu rộng về thế giới
• Giúp con người khám phá, nhận thức, thấu hiểu sâu sắc chính
bản thân mình.
- Giá trị giáo dục
• Đem đến những bài học quí giá về lẽ sống
• Về tư tưởng: Hình thành cho con người những tư tưởng tiến bộ,
có thái độ và quan điểm sống đúng đắn.
• Về tình cảm: Giúp con người biết yêu ghét đúng đắn, tâm hồn
trở nên lành mạnh, trong sáng.
- Giá trị thẩm mĩ:
• Nội dung:
Vẻ đẹp muôn hình vẻ của cuộc đời
Vẻ đẹp bản thân con người.
• Hình thức: những biện pháp, thủ pháp xây dựng hình tượng
nghệ thuật sinh động, giàu sức gợi.
- Mối quan hệ của 3 giá trị:
• Giá trị nhận thức: tiền đề của giá trị giáo dục.
• Giá trị giáo dục: làm sâu sắc hơn giá trị nhận thức
• Các giá trị nhận thức và giá trị giáo dục đều được phát huy tích
cực nhất qua giá trị thẩm mĩ.
+ Ví dụ:
Truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của Nguyễn Minh Châu mở
rộng phạm vi nhận thức về một hiện thực bề bộn, phức tạp thời
hậu chiến với những nghịch lí đầy ngang trái, đồng thời khám phá
vẻ đẹp bên trong người đàn bà tưởng như chỉ biết cam chịu, khơi
gợi ở bạn đọc một thái độ sống, một cách nhìn cuộc đời sâu sắc,
tỉnh táo hơn thông qua những hình ảnh có tính chất biểu tượng,
qua lối kể chuyện đa dạng.
+ Ứng dụng:
Đánh giá giá trị của một tác phẩm văn học.
5. Nhà văn – văn bản – bạn đọc
+ Nhà văn: người sáng tạo ra văn bản => thực hiện quá trình kí
mã => Ý đồ nghệ thuật, cách lí giải của nhà văn về văn bản chỉ là
một khả năng hiểu văn bản.
+ Bạn đọc: ngưòi tiếp nhận văn học => thực hiện quá trình giải
mã.
+ Văn bản: là một bộ mã, có thể chấp nhận nhiều cách giải khác
nhau nhưng phải phù hợp với các mã đã được nhà văn kí gửi.
6. Hình tượng nhân vật trữ tình trong thơ
+ Mô tả (so sánh với hình tượng nhân vật trong tác phẩm tự sự)
Hiện ra qua giọng điệu, trạng thái tâm hồn, cảm xúc (nhân vật
trong tác phẩm tự sự: có diện mạo, tính cách, hành động cụ thể)
+ Phân loại:
- Xét sự xuất hiện của tác giả trong tác phẩm:
• Cái tôi trữ tình: tác giả
• Nhân vật trữ tình nhập vai: khi tác giả hoá thân vào nhân vật
khác trong tác phẩm.
- Xét về vai trò:
• Chủ thể trữ tình (người trực tiếp bộc lộ cảm xúc)
• Đối tượng trữ tình: đối tượng hướng tới của tâm trạng chủ thể
trữ tình
+ Ví dụ:
- “Tảo giải” (Giải đi sớm) khắc hoạ hình tượng nhân vật trữ tình
Hồ Chí Minh - chủ thể trữ tình, cái tôi trữ tình với vẻ đẹp tâm hồn
nghệ sĩ và vẻ đẹp tinh thần chiến sĩ.
- “Sóng”: xây dựng hình tượng nhân vật trữ tình “sóng” – nhân vật
trữ tình nhập vai, đối tượng trữ tình mang vẻ đẹp của khao khát
tình yêu thuỷ chung, nồng nàn, mãnh liệt.
+ Ứng dụng:
Phân tích hình tượng nhân vật trữ tình trong một bài thơ.
7. Giá trị hiện thực
+ Là gì:
- Phạm vi hiện thực đời sống mà tác phẩm phản ánh.
- Tác phẩm nào cũng có giá trị hiện thực. (Vì văn học bắt nguồn
từ cuộc sống: hiện thực đời sống sinh hoạt hàng ngày, hiện thực
tình cảm, tâm lí…)
+ Biểu hiện:
Hiện thực phản ánh trong tác phẩm thì vô cùng đa dạng và phong
phú. Tuy nhiên, nói đến giá trị hiện thực trong một tác phẩm văn
học người ta thường đề cập 3 nét chính:
- Phơi bày chân thực, sâu sắc cuộc sống cơ cực, nỗi khổ về vật
chất hay tinh thần của những con người bé nhỏ, bất hạnh.
- Chỉ ra nguyên nhân gây ra đau khổ cho con người.
- Miêu tả tinh tế vẻ đẹp tiềm ẩn trong con người.
Ở mỗi một tác phẩm cụ thể, giá trị hiện thực được biểu hiện đa
dạng. Cùng phản ánh tình cảnh khốn quẫn của người nông dân
Việt Nam trước cách mạng, Ngô Tất Tố miêu tả nỗi chật vật về
vật chất của chị Dậu vì nạn sưu cao thuế nặng, một cổ nhiều
tròng, Nguyễn Công Hoan phơi bày chân thực sự cùng đường
tuyệt lộ của người nông dân (“Bước đường cùng”), Nam Cao lại
đi vào mảng hiện thực sâu kín nhất, tăm tối nhất – địa hạt tâm lí
để lột trần bi kịch bị tha hoá, nỗi đau tinh thần khắc khoải của
những con người dưới đáy của xã hội – Chí Phèo.
+ Vai trò:
- Thể hiện cái nhìn hiện thực sâu sắc hay hời hợt của nhà văn.
- Dấu hiệu của một tác phẩm có giá trị.
+ Ứng dụng:
- Phân tích giá trị hiện thực trong tác phẩm. (Chí Phéo, Vợ chồng
A Phủ, Vợ nhặt…)
- Phân tích nhân vật làm rõ giá trị hiện thực mới mẻ và độc đáo
trong một tác phẩm. (nhân vật Chí Phèo, nhân vật Mị, nhân vật
người phụ nữ vợ nhặt…)
8. Giá trị nhân đạo
+ Là gì:
- Hạt nhân: lòng yêu thương con người.
- Đối tượng: thường là nỗi khổ.
+ Biểu hiện: 3 khía cạnh cơ bản.
- Cảm thông với số phận đau khổ của những con người nhỏ bé,
bất hạnh.
- Tố cáo các thế lực gây ra đau khổ cho con người.
- Phát hiện, khám phá và ngợi ca vẻ đẹp tiềm ẩn trong những con
người bất hạnh.
Ở mỗi tác phẩm khác nhau, những khía cạnh có sự biến đổi
phong phú, linh hoạt. Chẳng hạn, cùng viết về người phụ nữ với
cái nhìn trân trọng, yêu thương sâu sắc, Ngô Tất Tố khám phá ở
Chị Dậu vẻ đẹp truyền thống, thuỷ chung, không tì vết; Kim Lân
phát hiện ra nét nữ tính và khát vọng hạnh phúc bất diệt trong
tâm hồn người vợ nhặt, còn Tô Hoài thì khơi tìm sức sống tiềm
tàng, mãnh liệt nơi cô gái vùng cao - Mị…
+ Vai trò:
- Thể hiện tầm vóc tư tưởng của nhà văn
“Nhà văn chân chính là nhà nhân đạo từ trong cốt tuỷ” (Biêlinxki)
- Là một trong những dấu hiệu của một tác phẩm giàu giá trị (Văn
học là nhân học. Nghệ thuật chỉ có nghĩa khi hướng tới con
người, yêu thương con người).
+ Ứng dụng:
- Phân tích giá trị nhân đạo trong một tác phẩm (Vợ nhặt, Vợ
chồng A Phủ, Chí Phèo…)
- Làm rõ giá trị nhân đạo độc đáo và mới mẻ của một tác phẩm
qua việc phân tích nhân vật (Phân tích nhân vật Tràng, phân tích
nhân vật Mị, phân tích nhân vật Chí Phèo…)
+ Mối quan hệ giữa giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo:
- Gắn bó hài hoà trong một tác phẩm.
- Các khía cạnh biểu hiện nhìn chung tương đồng chỉ khác biệt ở
chỗ: nếu nói giá trị hiện thực là nhắc tới sự trình bày, miêu tả hiện
thực một cách tương đối khách quan thì nói tới gía trị nhân đạo
tức là đã bao hàm thái độ của nhà văn (cảm thông, thương xót,
đồng tình, ngợi ca…)
BÀI VIẾT THAM KHẢO
Bình luận quan niệm của J.Paul. Sartre:
“Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong
vận động. Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động
cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự
đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt
đen trên giấy trắng”
1. Nhiều năm trở lại đây, vấn đề tiếp nhận tác phẩm không chỉ là
mối quan tâm của lí luận văn học mà còn là đối tượng của rất
nhiều khoa học nghiên cứu văn học. Bình luận và phân tích quan
niệm của J.Paul.Sartre trên cơ sở ngôn ngữ học hiện đại cho
chúng tôi những kiến giải sâu sắc.
2. Nếu như vai trò sáng tạo của nhà văn có lịch sử nghiên cứu
khá đầy đặn thì vai trò của người đọc, bản chất của quá trình tiếp
nhận văn học dẫu đã được “canh tác” ít nhiều vẫn còn là mảnh
đất khá màu mỡ, mời gọi khám phá.
Lấy mối quan hệ tác giả - tác phẩm - bạn đọc làm căn cốt, xưa
nay có nhiều ý kiến khác nhau về yếu tố trung tâm của hoạt động
văn học.
Trước đây, có một quan niệm đã trở thành quán tính trong nghiên
cứu phê bình: lấy tác giả cùng cá tính sáng tạo làm trung tâm. Nó
xem nhẹ vai trò của bạn đọc và quá trình tiếp nhận.
Ý tưởng của nghệ sĩ là nòng cốt, là “chỉ dẫn của Chúa” để soi
đường cho những tín đồ văn chương mải miết đi tìm chân lí. Tiếp
nhận được xem như một nỗ lực phóng chiếu tinh thần nghệ sĩ
vào tác phẩm, truy tìm ánh xạ tâm hồn nhà văn trong bề mặt
ngôn ngữ, văn bản.
Theo đó, phê bình cố gắng lần tìm theo lối người viết đã đi để
dựng lại một tác phẩm văn học duy nhất trong ý đồ sáng tạo.
Hướng nghiên cứu phổ biến và lí tưởng một thời là tiếp cận trực
tiếp với tác giả, khai thác địa đồ nhà văn đã phác thảo, lí giải tác
phẩm bằng chỉ dẫn trực tiếp.
Vấn đề đặt ra: làm cách nào để tìm hiểu các tác phẩm khuyết
danh, các sáng tác của các nhà văn không đồng thời với chúng ta
hay nhà văn đã mất? Nếu tác giả không để lại bất kì chỉ dẫn nào
ngoài văn bản thì có nghĩa chiếc chìa khoá đi vào văn bản mãi
mãi bị vùi lấp.
Xem tác phẩm văn học “như một quá trình”, các nhà nghiên cứu
đã phục nguyên vai trò của bạn đọc.
Chúng tôi quan tâm tới phân tích của hai tác giả Nguyễn Lai và
Bùi Minh Toán trên góc độ ngôn ngữ học.
GS.Nguyễn Lai trong bài viết “Về quá trình tiếp nhận văn học” có
đưa ra 5 luận điểm quan trọng:
Nói đến quá trình tiếp nhận văn học, thoạt tiên ta nghĩ ngay tới
“sản phẩm” được làm ra. Theo cách đó, sản phẩm chưa qua tay
người tiêu dùng thì mới ở dạng tiềm năng. Do vậy, năng động
chủ quan của người tiếp nhận là cánh cửa đầu tiên để ta có thể đi
vào ngôi nhà tạo nghĩa của quá trình tiếp nhận văn học.
Chủ thể hoạt động biến “thành phẩm” thành tác phẩm.
Sự khác nhau giữa kí hiệu thẩm mĩ và hình tượng thẩm mĩ. Tuy
cùng là những gợi dẫn thẩm mĩ, nhưng ở hình tượng tượng thẩm
mĩ, tính năng động chủ quan của chủ thể phát huy cao độ và phát
huy với thế hoàn toàn chủ động. Từ ngữ, kí hiệu thẩm mĩ chỉ là
phương tiện của quá trình gợi dẫn. Trong luận điểm này, tác giả
cũng phân tích quá trình chuyển mã từ mã ngôn ngữ sang mã
hình tượng.
Quá trình tác động một cách có qui luật của tác phẩm nghệ
thuật đối với người tiếp nhận.
Mối quan hệ giữa người tiếp nhận với tác phẩm và xã hội thông
qua ngôn ngữ.
Coi hoạt động văn học như là hoạt động giao tiếp, GS Bùi Minh
Toán xem xét quá trình tiếp nhận văn học trên hai khía cạnh.
Vai trò của người đọc trong quá trình tiếp nhận.
Vai trò của người đọc trong chính hoạt động sáng tạo của
người nghệ sĩ.
Trong quá trình sáng tạo của nhà văn, độc giả có vai trò nhất
định, chi phối quá trình sáng tạo và chi phối cả nội dung, hình
thức của tác phẩm.
Trong quá trình tiếp nhận, độc giả có vai trò đồng sáng tạo. Tác
phẩm là một bộ mã, nhà văn là người kĩ mã, bạn đọc giải mã.
3. Như vậy, ở Việt Nam, quan niệm về quá trình tiếp nhận và vai
trò của bạn đọc đã được thấu thị qua những lăng kính khoa học
đáng tin cậy. Dễ dàng nhận thấy những luận điểm đó khá gần gũi
với nhận định của J.Paul.Sartre.
“Tác phẩm văn học như con quay kì lạ, chỉ có thể xuất hiện trong
vận đông. Muốn làm cho nó xuất hiện, cần phải có một hoạt động
cụ thể là sự đọc. Và tác phẩm văn học chỉ kéo dài chừng nào sự
đọc còn có thể tiếp tục. Ngoài sự đọc ra, nó chỉ còn là những vệt
đen trên giấy trắng”.
Trước hết, Sartre nhận xét tác phẩm văn học không phải là cái
hoàn tất cố định sau quá trình thai nghén của nhà văn mà luôn
luôn vận động biến đổi như “con quay kì lạ”. Tác phẩm chỉ hiện
tồn “trong vận động”.
Dường như, ở đây có một cuộc đối thoại ngầm với các quan