Tải bản đầy đủ (.pdf) (13 trang)

Nam Cao và niềm khát vọng về một cuộc sống có phẩm giá ppt

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (122.57 KB, 13 trang )

Nam Cao và niềm khát vọng về một cuộc
sống có phẩm giá, có tư cách

Nam Cao (1915 – 1951) tên thật là Trần Hữu Trí, quê ở làng Đại
Hoàng, nay là xã Hòa Hậu, huyện Lý Nhân, tỉnh Nam Hà. Trước
Cách mạng Tháng Tám 1945, có lúc Nam Cao dạy học ở một
trường tư thục, nhưng khi trường bị đóng cửa, ông sống bằng
nghề viết báo, viết văn, làm gia sư. Năm 1943, Nam Cao gia
nhập nhóm Văn hóa cứu quốc ở Hà Nội. Bị khủng bố, ông phải
lánh về quê và tham gia Tổng khởi nghĩa tại đó. Năm 1946, Nam
Cao có mặt trong đoàn quân Nam tiến vào đến Nam Trung Bộ.
Sau đó, ông lên chiến khu Việt Bắc, làm công tác tuyên truyền,
báo chí, văn nghệ ở Trung ương, tham dự chiến dịch biên giới
năm 1950. Tháng 11 năm 1951, trên đường vào công tác vùng
địch hậu, Nam Cao bị giặc Pháp phục kích bắt và bắn chết tại bốt
Hoàng Đan ở Ninh Bình.

Trong công tác, Nam Cao là một người chu đáo, có tránh nhiệm.
Sau Cách mạng Tháng Tám, nhiều bạn bè đã nhìn thấy ông làm
việc rất hăng say. Khi làm báo, làm việc ở xưởng in bên cạnh anh
em công nhân, ở chiến dịch biên giới, hay trong đoàn cán bộ vào
vùng địch hậu, người ta như bắt gặp một Nam Cao khác, không
phải một Nam Cao rụt rè, nhút nhát, mà một Nam Cao dũng cảm,
xông xáo, xung phong đi đầu trong khó khăn.

Nam Cao bắt đầu viết từ năm 1936. Ngoài truyện, ông còn làm
thơ, soạn kịch. Nhưng chỉ từ năm 1941, với truyện Chí Phèo, ông
mới thể hiện rõ tài năng độc đáo và xác định chắc chắn vị trí của
mình trong nền văn học dân tộc.

Nói về sáng tác của mình trước Cách mạng Tháng Tám, trong


một bản tự thuật, Nam Cao kể lại: “Ngoài những truyện ngắn
đăng trên tờ Tiểu thuyết thứ bảy và một số sách nhi đồng (Truyền
bá, Hoa mai)… đã viết một số tiểu thuyết dài, nhưng vì bị kiểm
duyệt bỏ hay vì dài quá không in được: Ngày lụt, Cái mấu,
Chuyện người hàng xóm, Sống mòn v.v… (trừ bản thảo Sống
mòn vẫn còn giữ được, còn lại đều mất hết vì đã bán cho các nhà
xuất bản cả rồi).

Do tình hình tác phẩm bị thất lạc rất đáng tiếc như vậy, cho nên
ngoài vài vở kịch và dăm bài thơ không có gì đặc sắc và do đó ít
được nhắc đến, tác phẩm của Nam Cao đến được với người đọc
hôm nay chỉ gồm hơn 60 truyện ngắn, một tiểu thuyết và mấy tập
bút ký.

Những truyện ngắn viết trước Cách mạng của Nam Cao đáng
chú ý nhất là Chí Phèo, Dì Hảo, Nhỏ nhen, Cái mặt không chơi
được, Lão Hạc, Trẻ con không được ăn thịt chó, Một bữa no, Sao
lại thế này, Điếu văn, Từ ngày mẹ chết, Mua danh, ở hiền, Trăng
sáng, Đôi móng giò, Lang Rận, Tư cách mõ, Đời thừa, Mua nhà,
Những truyện không muốn viết, Cười, Quên điều độ, Nước mắt,
Đón khách… Tiểu thuyết Sống mòn của Nam Cao hoàn thành
năm 1944, nhưng mãi đến năm 1956, sau khi nhà văn mất, mới
được xuất bản lần đầu. Truyện ngắn có giá trị nhất của Nam Cao
viết sau Cách mạng Tháng Tám là Đôi mắt. Ngoài ra, trong thời
gian này, ông còn có nhật ký ở rừng thể hiện rõ những chuyển
biến tư tưởng của nhà văn trong những ngày tham gia kháng
chiến.

Nam Cao quan tâm đến cả sinh hoạt nông thôn và thành thị, miêu
tả nhiều loại người, đặc biệt là nông dân và trí thức nghèo.

Nhưng dù miêu tả thành phần xã hội nào, ông vẫn đi sâu vào các
số phận, các kiếp người, như chính nhà văn thường nói. Thái độ
thương cảm, lòng trắc ẩn của ông dành nhiều cho những người
cùng khổ, những người “dưới đáy” của xã họi những người hiền
lành chất phác, nhưng đời sống quá vất vả, cơ cực, số phận hết
sức hẩm hiu. (Nghèo, Dì Hảo, Lão Hạc, Một bữa no, Từ ngày mẹ
chết, ở hiền).

Một loại nhân vật khác phần lớn cũng từ nông dân lao động
nghèo mà ra, nhưng do những hoàn cảnh đặc biệt đưa đẩy, đã
trở thành những tay trộm cướp, lưu manh, những con người bị
tha hóa, bị què quặt cả về thể xác và tinh thần. Những con người
ở bên lề xã hội hay phá phách này, cùng với những người điên,
những người câm, những người dị dạng kỳ quặc đủ loại, càng tô
đậm thêm bộ mặt cùng quẫn, bế tắc, mất nhân tính của xã hội
(Chí Phèo, Đôi móng giò, Lang Rận, Tư cách mõ…).

Một loại nhân vật thứ ba khá đông đúc trong tác phẩm của Nam
Cao, khác với hai loại người trên ở chỗ có trình độ học vấn, có ý
thức hơn về thân phận, có nhiều băn khoăn suy nghĩ về ý nghĩa
của cuộc sống, về giá trị làm người. Đó là những thầy giáo tiểu
học, những viên chức nhỏ, những người làm báo, viết văn. Chính
qua những người như Thứ, như Điền, như Hộ, như Độ, nhà văn
đã trực tiếp gửi gắm những suy nghĩ của mình về cuộc sống, về
nghệ thuật (Trăng sáng, Đời thừa, Sống mòn, Đôi mắt…).

Thông thường, ở một tài năng viết truyện, viết tiểu thuyết, thì sức
mạnh tư duy sáng tạo tập trung ở nghệ thuật xây dựng nhân vật.
Nam Cao, với khuôn khổ hạn chế của truyện ngắn, đã xây dựng
được cả một loạt nhân vật để lại những ấn tượng khó phai mờ ở

người đọc. Nhiều nhân vật của Nam Cao thật sự là những phát
hiện mới mẻ, hết sức độc đáo, có khả năng tái sinh trong văn học
về sau. Đó là các nhân vật như Chí Phèo, Thị Nở, Lang Rận,
Trạch Văn Đoành. Người ta cũng rất khó quên những nhân vật
như Bá Kiến, Lão Hạc, dì Hảo, Thứ, Hộ, văn sĩ Hoàng. Nhân vật
của Nam Cao rất sinh động. Người đọc tưởng như có thể nhìn
thấy họ đang đi lại, ăn uống, nói năng, cười khóc trước mặt mình.
Chất sống ở những nhân vật của Nam Cao là do chất sống của
cuộc đời thực mang lại. Nhà văn chọn lựa rất tinh những mẫu
người, những chi tiết đặc sắc nhất để đưa vào tác phẩm.

Trong miêu tả nhân vật không phải lúc nào Nam Cao cũng chú ý
đến ngoại hình. Nhưng, khi cần, Nam Cao cũng chứng tỏ biệt tài
khắc họa ngoại hình nhân vật. Thí dụ như trường hợp Chí Phèo,
Thị Nở, Lang Rận, Trạch Văn Đoành. Những con người với ngoại
hình không bình thường, quái dị ta vẫn gặp ở ngoài đời, nhưng
ngòi bút của Nam Cao khiến chúng ta nhìn chăm chú hơn vào họ
và giật mình sửng sốt: hóa ra một phần của cuộc sống đã biến
dạng, đã xấu xí, đã thoái hóa đến như vậy!

Nam Cao thể hiện sở trường ở miêu tả nội tâm, miêu tả diễn biến
tâm lý của nhân vật. Nhà văn thường để cho nhân vật tự bộc lộ
suy nghĩ, tâm trạng của mình, một mình tự nói với mình, sử dụng
rộng rãi biện pháp độc thoại nội tâm, độc thoại bên trong. Điều
này hết sức rõ rệt ở những nhân vật trí thức như Điền, như Hộ,
như Thứ. Nhưng ngay cả những người tăm tối mà sự sống tưởng
như chỉ quy vào tồn tại sinh vật, như Chí Phèo, Thị Nở, Lang
Rận, anh cu Lộc. Cũng có đời sống nội tâm. Đời sống nội tâm, sự
suy nghĩ, trăn trở là dấu hiệu của tính người, của trình độ sống.


Nét đặc trưng có sức lôi cuốn mạnh nhất trong tài năng và phong
cách của Nam Cao là chất trữ tình ấm áp, lây truyền, thấm đậm
hầu hết các trang viết của ông. Chất trữ tình này bắt nguồn từ nỗi
buồn thương, đau đời của ông trước nỗi khổ không cùng của con
người, từ lòng khao khát của ông về một cuộc sống có tình
người, có phẩm giá, có tư cách. Chất trữ tình này cũng tăng thêm
do chỗ nhà văn thường đi sâu vào tâm hồn, tâm trạng nhân vật,
trực tiếp bày tỏ thái độ, tình cảm, tư tưởng của mình về cuộc
sống, do tính chất tự truyện trong nhiều tác phẩm của ông.

Tài năng của Nam Cao thể hiện rõ ở chỗ: hầu như chỉ viết về cái
hằng ngày, cái đời thường, với một cách viết khá dung dị và tự
nhiên, ngòi bút của ông đã tái hiện những cảnh đời, nêu lên
những chủ đề có tính chất xã hội và nhân văn sâu sắc, phảng
phất mùi vị triết lý, khiến người đọc không chỉ một thời mà nhiều
thời đọc đi đọc lại tác phẩm của ông. Tác phẩm của Nam Cao
như những câu hỏi cứ xoáy sâu vào tâm trí người đọc, không
phải câu hỏi “tồn tại hay không tồn tại”, “sống hay không sống”,
mà là sống như thế nào cho ra sống, sống thế nào cho có phẩm
giá, có tư cách, và muốn như vậy con người phải làm gì? Tư
tưởng nhân văn chứa đựng trong các tác phẩm của Nam Cao
không đơn thuần là lòng thương người, sự cảm thông với những
con người bất hạnh, mà thức tỉnh danh dự làm người, buộc con
người phải suy nghĩ về thực trạng mình đang sống, tìm cách để
thoát ra khỏi kiếp sống thừa, sống mòn vô nghĩa. Đó là tư tưởng
nhân văn mang nội dung tích cực. Dễ hiểu vì sao sau Cách mạng
Tháng Tám, nhà văn đau đời, thương người ấy lại thiết tha như
vậy với cuộc sống mới, say mê hoạt động như vậy, vừa với tư
cách là nhà văn, vừa với tư cách công dân.


Nam Cao cũng là nhà văn có phần đóng góp quan trọng bậc nhất
vào sự phát triển ngôn ngữ văn xuôi dân tộc.
Cũng như nhiều nhà văn hiện thực thời kỳ 1932 – 1945, Nam
Cao rất chú ý khai thác tiếng nói hằng ngày của người dân, sử
dụng có chọn lọc tiếng địa phương, tiếng nghề nghiệp trong tác
phẩm của mình. Ngôn ngữ của ông phong phú, biến hóa, đầy sức
sống, vừa có tính chuẩn mực của ngôn ngữ văn học dân tộc, vừa
không rơi vào tình trạng “sách vở”, trau chuốt thái quá thành
nghèo nàn, giả tạo mà ta có thể bắt gặp trong một số tác phẩm
lãng mạn thời đó. So với các nhà văn cùng thời, ngôn ngữ của
Nam Cao đến bây giờ là ngôn ngữ ít cũ đi nhất. Chỉ cần đọc lại
truyện Chí Phèo, thậm chí chỉ đoạn mở đầu truyện này, viết cách
đây đã hơn nửa thế kỷ, ta sẽ thấy ngay ngôn ngữ của Nam Cao
giàu có và sinh động như thế nào, hiện đại như thế nào.

Nam Cao là một nhà văn trong ý nghĩa đích thực và cao quý của
khái niệm này. Ông là một nghệ sĩ, một nhà tư tưởng, một bậc
thầy về tiếng Việt. Người đọc hứng thú, tự nguyện đến với ông vì
tính chất chân thực, nhân bản sâu xa trong những tác phẩm của
ông, vì ông sớm cảm nghe được một cách chính xác khuynh
hướng hiện đại trong sáng tác văn học và thể hiện nó một cách
thành công qua việc lựa chọn và miêu tả những hiện tượng tiêu
biểu của cuộc sống, qua cách kể chuyện, cấu tạo tác phẩm và sử
dụng ngôn ngữ thật mới mẻ và sáng tạo.

×