Tải bản đầy đủ (.pdf) (18 trang)

Tiến sỹ giấy - Nguyễn Khuyến. doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (137.3 KB, 18 trang )

Tiến sỹ giấy - Nguyễn Khuyến.

Đến nửa cuối thế kỷ XIX, văn học trào phúng Việt Nam đã phát
triển thành một dòng lớn mạnh bên cạnh các dòng văn học khác,
với một đội ngũ tác giả đông đảo và văn học cận hiện đại. Đến
nửa cuối thế kỷ XIX, văn học trào phúng Việt Nam đã phát triển
thành một dòng lớn mạnh bên cạnh các dòng văn học khác, với
một đội ngũ tác giả đông đảo và những hình tượng nghệ thuật
điển hình. Sự phát triển của văn học trào phúng chứng tỏ sự
trưởng thành vượt bậc của văn học dân tộc trong giai đoạn lịch
sử mới, thúc đẩy nhanh quá trình hiện đại hóa nội sinh, tiến tới
hình thành nền văn học cận hiện đại.

Tiến trình của một nền văn học cũng giống như cuộc đời một con
người. Con người ta cũng chỉ thực sự biết cười một khi đã
trưởng thành, đã có đủ trí tuệ, đã biết đến đau khổ và điều quan
trọng hơn là đã tự nhận thức được về những hạn chế của chính
bản thân mình. Đó cũng là lúc con người ấy không chỉ còn biết
cười thiên hạ, mà còn biết cười buồn về mình, biết tự trào.
Nguyễn Khuyến chính là một trong những tác gia tiêu biểu nhất
của văn học trào phúng ở giai đoạn trưởng thành này, ông cũng
là một trong những đại diện cuối cùng và lớn nhất của nền văn
học Việt Nam trung đại ở vào giai đoạn chung cục.

Tam nguyên Yên Đổ cũng là người có nhiều bài thơ mang ý vị tự
trào vào loại hay và tiêu biểu nhất trong văn học dân tộc. Tiến sĩ
giấy chính là một trong những tác phẩm như vậy. Bài thơ thể hiện
tài năng nghệ thuật của một tác gia trào phúng bậc thầy và mang
ý nghĩa thời đại rõ rệt. Xã hội mà Nguyễn Khuyến sống là xã hội
thực dân nửa phong kiến với những biểu hiện lố lăng, kệch cỡm.
Ở đó mọi giá trị đạo đức truyền thống đã bị đảo lộn, còn cái mới


lại mang bộ mặt của kẻ xâm lược.

Ngòi bút thâm trầm mà sâu cay của Nguyễn Khuyến đã chĩa mũi
nhọn vào những chỗ hiểm yếu nhất của cái ung nhọt đó. Trong
Tiến sĩ giấy nhà thơ đã đem ra trào phúng, châm biếm, hạ bệ
thần tượng cao nhất của cả một thể chế xã hội đã tồn tại hàng
mấy trăm năm - ông tiến sĩ. Đây là một nhân vật rất quen thuộc
của xã hội phong kiến Việt Nam. Đạt đến học vị tiến sĩ là niềm
vinh quang không chỉ của bản thân từng con người mà của cả
một dòng họ, một địa phương, được cả xã hội vinh danh, khoác
lên mình những ánh hào quang chói lọi. Đó vốn là những con
người có tài năng, chứa đựng trong mình những tri thức của thời
đại và tất cả những tài năng và tri thức đó sẽ được đem ra để
phục vụ đất nước, phục vụ xã hội. Đã có biết bao ông tiến sĩ trở
thành trụ cột của đất nước, của dân tộc, trở thành nguyên khí
quốc gia, được ghi tên tuổi, công trạng trên bia đá, sử xanh.
Nhưng đến thời đại của Nguyễn Khuyến mọi chuyện đã thay đổi,
những giá trị truyền thống đã dần mai một, hoặc đang từng bước
đổ vỡ.

Nho học, khoa cử đã xuống cấp, không còn được coi trọng, mọi
thứ đã có thể dùng tiền để mua bán, đổi chác, xuất hiện trong xã
hội nhiều kẻ chỉ có hư danh mà không có thực học. Kẻ có thực
tài, chữ nghĩa đầy mình thì học vị tiến sĩ chỉ còn là cái danh hão,
cũng đành khoanh tay ngồi nhìn thời cuộc xoay vần, kiến thức
sách vở cũ rích không còn có ích lợi gì trong một bối cảnh mới.
Tất cả những điều đó đã được Nguyễn Khuyến thể hiện trong bài
thơ Tiến sĩ giấy bất hủ của ông.

Nhìn trên ý nghĩa bề mặt văn bản bài thơ có thể thấy đối tượng

mà Tam nguyên Yên Đổ hướng tới để tạo nên tiếng cười là
những đồ chơi dân gian - hình nộm ông tiến sĩ làm bằng giấy
dành cho trẻ con trong những dịp tết trung thu. Làm loại đồ chơi
này, các nghệ nhân dân gian muốn khơi dậy ở trẻ em lòng hiếu
học và ý chí phấn đấu để đạt tới vinh quang của nền học vấn thời
đại, cống hiến tài năng cho đời, đem lại niềm vui cho ông bà, cha
mẹ, vinh quang cho dòng họ, tổ tiên. Như vậy, hình ảnh ông nghè
tháng Tám là một hình ảnh mang tính truyền thống rất đẹp.

Ở hai câu đề, Nguyễn Khuyến chưa nói thẳng cho người đọc biết
rõ người được ông giới thiệu trong bài thơ là ai. Nhân vật này có
đủ cờ, biển, cân, đai, lọng xanh, ghế chéo đích thị là một vị tiến sĩ
oai phong mới được ghi danh đỗ đầu trên bảng rồng:

Cũng cờ, cũng biển, cũng cân đai,
Cũng gọi ông nghè có kém ai.

Biển là tấm gỗ sơn son thếp vàng có khắc bốn chữ ân tứ vinh
quy. Cẩn là cái khăn. Đai là cái vòng đeo ngang lưng ở ngoài áo
chầu. Hết thảy đều là những thứ cao quý vua ban cho người đỗ
tiến sĩ để vinh quy bái tổ. Nhân vật có vẻ bề ngoài vừa uy nghi,
vừa phô trương tự đắc. Tuy nhiên, điệp từ cũng xuất hiện với mật
độ dày đặc và ẩn chứa ý vị mỉa mai bắt đầu bộc lộ thái độ của tác
giả, khiến cho ta thấy có điều gì đó bất thường ở vị tiến sĩ này.

Từ cũng được nhấn mạnh, được đưa lên đầu câu, chỉ sự giống
nhau, lặp lại của hiện tượng, kết hợp với ba từ có kém ai khiến
cho con người có học vị cao này có cái vẻ của sự giả dối, học
đòi. Đến hai câu sau mọi việc đã trở nên rõ ràng hơn. Nhân vật
cũng biển cũng cân đai kia hóa ra chỉ là một ông tiến sĩ giấy, bề

ngoài giống hệt như tiến sĩ thật nhưng thực chất bên trong lại
rỗng tuếch chẳng có gì.

Cái chất liệu làm nên con người ông đơn giản chỉ là từ mấy mảnh
giấy và một ít son diêm dúa:

Mảnh giấy làm nên thân giáp bảng,
Nét son điểm rõ mặt văn khôi.

Trong hai câu thực này, nghệ thuật đối được Nguyễn Khuyến sử
dụng hết sức đắc địa. Mảnh giấy đối với thân giáp bảng, nét son
đối với mặt văn khôi. Giáp bảng là bảng công bố kết quả thi cử
ngày xưa, còn được gọi một cách trang trọng là bảng rồng. Thân
giáp bảng là người đỗ đạt cao nhưng thực chất ở đây chỉ được
chế tác từ một mảnh giấy vụn. Còn chỉ bằng vài nét son là có thể
tạo nên mặt văn khôi - chỉ người đứng đầu làng văn. Nguyễn
Khuyến đã đặt những sự vật có giá trị khác hẳn nhau vào trong
một kết cấu song hành, đối lập, cho mọi người thấy được việc tạo
ra một ông tiến sĩ giả bằng giấy thực chẳng khó khăn gì, qua đó
thể hiện tính chất rẻ mạt, vô nghĩa của danh hiệu tiến sĩ thực của
cái thời cuối phong kiến đầu thực dân này.

Ông nghè tháng Tám có diện mạo bên ngoài giống hệt như tất cả
các ông tiến sĩ thật nhưng cái thực học chỉ nhẹ hều như mảnh
giấy và vết son mà thôi. Nhà thơ đã mượn hình ảnh của ông tiến
giấy để nói về ông tiến sĩ thật đương thời, vạch trần bản chất giả
dối của đối tượng bằng cách chỉ ra mâu thuẫn giữa hình thức bề
ngoài lộng lẫy, hào nhoáng được che giấu hết sức tinh vi và cái
thực chất bên trong sáo rỗng, đáng thương hại của nhân vật. Đối
với kẻ theo đòi chuyện học hành thì danh hiệu tiến sĩ là niềm vinh

quang mà muốn đạt được nó thì người quân tử phải không
ngừng tự học hành rèn luyện, có tri thức thông kim bác cổ, có tài
năng xuất chúng để ra giúp dân, giúp nước.

Có biết bao người đã theo đòi học hành chăm chỉ suốt đời mà
vẫn không đạt được vinh hạnh đó. Nhưng nay thì đã khác, cái
danh hiệu ấy đã bị người đời coi thường, khinh rẻ: Tấm thân xiêm
áo sao mà nhẹ, Cái giá khoa danh ấy mới hời. Đến hai câu luận
này, Nguyễn Khuyến dường như đã chuyển từ việc mô tả khách
quan sang việc đánh giá chủ quan. Chỉ qua hai cụm từ cảm thán:
sao mà nhẹ, ấy mới hời dường như giá trị của ông nghè đã có
thể mang ra cân đo, đong đếm. Ngày xưa kẻ lao tâm khổ tứ để
đỗ đạt khoác trên thân tấm áo vua ban mà cảm thấy trách nhiệm
nặng nề, thì nay kẻ mua danh bán tước khoác lên mình tấm áo
ấy mà sao lại thấy nhẹ bẫng.

Đơn giản bởi nó là thứ giả. Không phải ngẫu nhiên khi mô tả một
ông tiến sĩ bằng giấy nhưng nhà thơ vẫn phải luôn gắn vào đó từ
thân (thân giáp bảng) hoặc tấm thân (tấm thân xiêm áo), chính để
tạo nên sự so sánh. Nhưng sao những lời lẽ tưởng như chủ quan
chế giễu, mỉa mai trên lại như cũng đang nhuốm những ngậm
ngùi, chua chát, cảm thán thời thế và nhà thơ dường như đang
buồn cho chính mình vậy?

Sáu câu thơ trên như một chiếc đòn bẩy để hai câu thơ cuối
buông ra một lời kết luận khiến người đọc bàng hoàng:

Ghế chéo lọng xanh ngồi bảnh chọe,
Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.


Ở đây, thêm một lần nữa tác giả tiếp tục khắc họa sâu thêm sự
đối lập, tương phản gay gắt giữa cái bên ngoài và bản chất thật
của ông tiến sĩ. Cụm từ ghế chéo lọng xanh vẫn gây cho người
đọc ấn tượng về dáng vẻ oai vệ vốn có của nhân vật có học vấn
cao nhất đương thời. Nhưng lần nâng lên cuối cùng này cũng sẽ
là lần Nguyễn Khuyến giáng cho đối tượng trào phúng đòn hạ bệ
chí mạng nhất. Giọng điệu mỉa mai, hài hước của hai chữ bảnh
chọe đã giết chết, đã vạch rõ cái oai phong của vị tiến sĩ kia thực
chất chỉ là cái mẽ giả dối bên ngoài :

Tưởng rằng đồ thật hóa đồ chơi.

Thật là một hình ảnh thảm hại! Cái kẻ mà ghế chéo lọng xanh
ngồi bảnh chọe ấy hóa ra là một thứ con rối chịu để kẻ khác giật
dây mà thôi. Cái xã hội bát nháo ấy, cái thứ triều đình bù nhìn
toàn những quan chèo vai nhọ khác chi thằng hề ấy nhất định chỉ
có thể sản sinh ra cái thứ hàng mã này. Mà cái kẻ đứng đằng sau
giật dây tất cả lũ rối người ấy từ trên xuống dưới không ai khác
chính là bè lũ thực dân cướp nước. Nguyễn Khuyến đã nhìn thấy
tất cả điều đó và ông kín đáo đưa ra trào phúng đại diện ưu tú
nhất nhưng đã trở nên lỗi thời của cái thể chế đó.

Tam nguyên Yên Đổ đã táo bạo đưa vào trong thơ mình những
hư từ, lời nói khẩu ngữ kiểu như: cũng cũng, kém ai, sao mà
nhẹ, ấy mới hời, tưởng rằng , đưa chất văn xuôi, chất thế tục
vào trong một thể thơ có tính ước lệ, tượng trưng cao như thơ
Đường luật, khiến cho thể thơ này trở nên gần gũi hơn, giàu giá
trị hiện thực hơn.

Nhà thơ phát hiện mâu thuẫn đáng cười ở đối tượng qua những

nét đối lập của sự đồng dạng, giống nhau, (tiến sĩ thật - tiến sĩ
giấy). Đó là những mâu thuẫn, những điều lố bịch gây cười có
ngay trong bản thân đối tượng mà chính nó không hề ý thức
được. Lối trào phúng của ông già Yên Đổ là lối trào phúng gián
tiếp, kín đáo và thâm thúy, ý định trào phúng của người viết
không bộc lộ trên bề mặt văn bản mà chìm sâu sau những hình
ảnh và từ ngữ.

Muốn hiểu được tiếng cười của ông, buộc phải qua những bước
“giải mã”, suy đoán, bóc tách từng lớp ngôn từ, ẩn ngữ với những
ẩn dụ, phúng dụ Để nhận ra thực chất của loại tiến sĩ thật dưới
chế độ nửa thực dân phong kiến thì phải có tri thức về thứ đồ
chơi trung thu của trẻ nhỏ - hình nộm ông nghè tháng Tám; hay
muốn biết về thân phận vua hề, quan nhọ dưới chế độ thực dân
nô lệ thì phải hiểu nghệ thuật chèo, đặc biệt là hề chèo (bài thơ
Lời vợ người hát phường chèo) v.v Rõ ràng, để có được sự
thành công khi sử dụng lối trào phúng này, tác giả phải là người
trong cuộc, phải am hiểu đối tượng, nếu không sẽ tạo nên những
cú đánh trượt. Nguyễn Khuyến hiểu đối tượng sâu sắc như vậy
chính vì ông là con đẻ của chế độ khoa cử triều Nguyễn và là
người đạt đến đỉnh cao vinh quang của học vấn đương thời.

Nhưng con người ấy đã dần đánh mất niềm tin vào chế độ, vào
triều đình, vào vốn học vấn của mình trước thực tế lịch sử, khi mà
tất cả vũ khí vật chất và tinh thần, tất cả thế ứng xử truyền thống
tồn tại hàng ngàn năm của dân tộc đã bị kẻ thù mới bẻ gãy một
cách dễ dàng. Ông cũng cảm thấy nghi ngờ cả tài năng, sức lực
của lớp người đại diện cho tinh hoa của chế độ ấy và nghi ngờ
chính bản thân mình. Bởi trong số những ông nghè tháng Tám
hết thời ấy có cả bản thân Nguyễn Khuyến nhưng tất nhiên ông

Tam nguyên phủ Yên Đổ hoàn toàn khác với những kẻ hữu danh
vô thực đương thời.

Điều ấn tượng và độc đáo ở đây là cái hài hước ấy xuất phát từ
trong lòng đối tượng bị phê phán. Sự phủ định rõ ràng còn có
thêm màu sắc tự phủ định. Tính bi hài của hình tượng văn học
nhờ vậy càng trở nên sâu sắc gấp bội. Tính tự trào của bài thơ
cũng hé mở cho ta nhận thấy, nghe thấy, chứng kiến một cuộc
đối thoại và một cuộc tự đối thoại của nhà thơ với chính mình -
tiếng nói phản tỉnh của một người trong cuộc. Đó cũng chính là
tiếng nói phản chính thống, một hành vi tưởng như là nói ngược
nhưng thực chất lại phản ánh một cách chính xác nhất bản chất
của xã hội và sự tha hóa của lớp người đại diện cho tinh hoa của
thể chế đương thời. Tiến sĩ giấy là biểu hiện rõ nhất của tiếng nói
tự trào.

Nguyễn Khuyến đã lấy việc khách thể hóa bản thân để bộc lộ tâm
trạng mình. Tiếng nói lưỡng phân đa chiều, vừa hướng nội, vừa
hướng ngoại này chỉ có được khi con người tự ý thức được tình
trạng bi hài của mình trước thực tế lịch sử, nó bộc lộ những day
dứt, trăn trở, những mâu thuẫn trong chính bản thân nhà thơ, bỏ
xa kiểu con người đơn nhất trong văn chương trung đại. Trong
văn học trào phúng, phê phán và phủ định điều này cũng chính là
để khẳng định, bảo vệ một chân lí nào đó.

Nguyễn Khuyến châm biếm, đả phá cái giả Nho, cái vô dụng,
chính là để khẳng định cái chân Nho, khẳng định những giá trị
truyền thống của dân tộc, khẳng định những phẩm chất tốt đẹp
của riêng mình để tự phản tỉnh trước thực tế của sự khủng hoảng
các giá trị đạo đức đương thời. Mỹ học về cái hài dường như

không bao quát hết những sắc thái đa diện của thi tài Nguyễn
Khuyến. Trong Tiến sĩ giấy nói riêng và trong thơ tự trào của ông
nói chung, cái hài thường bị cái bi lấn át. Điều đó cũng khiến cho
tính trữ tình, sự kết hợp giữa hai phẩm chất trào phúng và trữ
tình trong các bài thơ trào phúng của ông trở nên nhuần nhuyễn,
ý thơ như còn đọng mãi trong lòng người đọc.

Vì vậy, Nguyễn Khuyến tự trào, tự giễu cợt mình, về mặt khách
quan, cũng chính là đang trào phúng cả một tầng lớp đại diện cho
một xã hội thối nát, một nền học vấn đã hết thời, và một giai cấp
đang từng bước chấm dứt vai trò lịch sử. Danh vị tiến sĩ nay đã
trở thành trò hề, trở thành thứ đồ chơi để dứ thằng cu, mà mỗi
lần nhìn thấy thứ hình nộm ấy, vị Tam nguyên lừng lẫy một thời,
vị quan đại thần của triều đại đương thời lại cứ tưởng như người
ta đang đem mình ra để bỡn cợt: Rõ chú hoa man khéo vẽ trò
Bỡn ông mà lại dứ thằng cu. (Vịnh tiến sĩ giấy, I) Nghĩ mình cũng
gớm cho mình nhỉ Thế cũng bia xanh, cũng bảng vàng. (Tự trào)

Có lẽ Nguyễn Khuyến là người trí thức đầu tiên trong thời đại ông
có được cái nhìn tỉnh táo như vậy. Không phải người trí thức nào
trong cơn phong ba của lịch sử cũng nhận ra được những hạn
chế tất yếu của giai cấp mình, thừa nhận sự bất lực của nó trước
thực tế lịch sử. Nguyễn Khuyến lớn chính vì ông đã sớm nhận ra
tất cả những điều đó. Rõ ràng, bên cạnh màu sắc bi, hài, tự trào
thấm đẫm chất trữ tình, thơ trào phúng Nguyễn Khuyến còn
mang tính triết lý sâu sắc về nhiều vấn đề xã hội, trong đó nổi bật
là triết lý về thân phận của người trí thức, của lớp nho sĩ cuối
mùa tầng lớp mang trong số phận của mình bi kịch có tính chất
nhân loại ở buổi giao thời dưới chế độ thực dân nửa phong kiến.


Nguyễn Khuyến đã tự phản tỉnh mình, tự ý thức được thân phận
con người thừa của mình, thấy mình là một hủ nho trong thời
buổi mới. Mặc cảm con người thừa, con người vô tích sự phải
đến Nguyễn Khuyến và đặc biệt Tú Xương sau này mới thật sự
rõ nét. Tuy nhiên về chủ đề này giữa hai nhà thơ có những khác
biệt cơ bản. Tú Xương cũng có bài thơ Tiến sĩ giấy nhưng hình
tượng nhân vật của ông không có lớp nghĩa tự trào, không có
màu sắc bi kịch và ít chi tiết khắc họa mang tính điển hình. Con
người không có duyên phận với khoa cử này đứng ở thế đối lập
với những kẻ mang danh khoa bảng mà không phải là người
trong cuộc, người ở trên nhìn xuống như Nguyễn Khuyến. Vì vậy
ông Tú có thể chửi thẳng mà không e dè và cũng không hề có
chút chua xót cho đối tượng bị trào phúng : Ông đỗ khoa nào, ở
xứ nào ? Thế mà hoa hốt với trâm bào ? Mỗi năm ngày tết trung
thu đến Tôi vẫn quen ông chẳng muốn chào.

Có thể thấy, hình tượng Tiến sĩ giấy của Nguyễn Khuyến mang
tính đa nghĩa, giàu liên tưởng và cũng là hình tượng có tính điển
hình và tính khái quát cao độ hơn. Điểm chung giữa hai tác giả
chính là tấm lòng ưu ái suốt đời trăn trở vì dân, vì nước được thể
hiện phong phú qua những bài thơ giàu giá trị nghệ thuật. Tiến sĩ
giấy không chỉ là thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của thơ Nguyễn
Khuyến mà còn là một trong những hình tượng điển hình có giá
trị nhất của văn học trào phúng Việt Nam ở giai đoạn đỉnh cao.
Tiến sĩ giấy cũng không chỉ có ý nghĩa nhất thời, chỉ diễn ra trong
thời đại của Tam nguyên Yên Đổ mà còn là hình tượng nghệ
thuật mang giá trị phổ biến, chỉ những kẻ bề ngoài mang danh
của người có học thức cao nhất nhưng thực chất bên trong lại
không tương xứng với cái nhãn mà mình đang mang.


Những nhân vật đó thời nào cũng có, đặc biệt trong những giai
đoạn mà những giá trị thật giả lẫn lộn, đồng tiền lên ngôi, thời kỳ
mà con người được định giá bằng đủ thứ danh hiệu hình thức thì
loại người đó càng nhiều. Họ có thể là những kẻ mua danh bán
tước, những tiến sĩ giả, nhưng họ cũng có thể là những người đi
học thật nhưng tài năng kém cỏi và Nguyễn Khuyến chính là
người đầu tiên đã tổng kết hiện tượng xã hội đó thành một hình
tượng nghệ thuật điển hình tượng trưng cho mọi thời đại. Điều đó
đã khẳng định giá trị sáng tạo và sức sống bền vững muôn đời
của thơ ca Tam nguyên Yên Đổ.

×