Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Bí ẩn sự thành công của con chip Intel doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (318.51 KB, 11 trang )

Bí ẩn sự thành công của con chip Intel
Mỗi khi nói về phát minh con chip đầu tiên của Intel,
Ted Hoff thường tỏ ra khiêm tốn. “Chỉ vì tôi quá tò mò
mà thôi”, ông nói, “đó là một phần tính cách của tôi”.



Chip vi xử lý đầu tiên trên thế giới.

Tuy nhiên, nếu không có sự tò mò của Ted Hoff, tất
cả chúng ta có lẽ vẫn phải lạch cạch gõ máy chữ để
gửi những thư cho bạn bè. Điều đó là rõ ràng. Nhưng
từng đó vẫn chưa đủ để nói hết những gì mà phát
minh này của Hoff đã mang lại cho thế giới.

Tính tò mò của ông đã không chỉ giúp các thanh thiếu
niên gửi và nhận tin nhắn suốt ngày với tốc độ chóng
mặt. Con chip vi xử lý 4004 nhỏ xíu từ ý tưởng của
Hoff và được các đồng sự ở tập đoàn Intel thiết kế, về
bản chất là một chiếc máy tính được thu nhỏ lại chỉ
bằng cỡ một cái móng tay.

Con chip vi xử lý đầu tiên của Intel này đã châm ngòi
cho một cuộc cách mạng công nghệ lớn trên toàn cầu
bởi đó là sản phẩm đầu tiên có khả năng gói các bộ
phận cơ bản một chiếc máy vi tính có thể lập trình
được vào một con chip đơn.

Được chính thức ra mắt vào năm 1971, con chip vi
xử lý 4004 đã trở thành tiền đề, cho phép các nhà
sản xuất thiết bị sản xuất ra những chiếc PC, thang


máy, máy ảnh số, máy quay số, điện thoại di động
thông minh hơn nhỏ gọn hơn. Nó cũng giúp đưa Intel,
khi đó còn là một hãng sản xuất vi xử lý mới được
thành lập có 3 năm, gia nhập vào các tập đoàn lớn
trên thế giới.

“Không quá khi chúng ta nói là chip vi xử lý đã có
những ảnh hưởng lớn đến đời sống của mọi người
trên toàn cầu”, Linley Gwennap – chuyên gia phân
tích của The Linley Group - khẳng định. “Trước khi có
chip xử lý, máy vi tính chỉ là một khối cồng kềnh,
chứa đầy cả một căn phòng nhưng khi có chip vi
xử lý giờ đây nó chỉ nhỏ bằng bàn tay thậm trí là còn
nhỏ hơn thế”.

Việc phát minh con chip 4004 này cũng đã mang lại
cho Hoff và các đồng sự của ông chiếc Huy chương
công nghệ và sáng tạo quốc gia, giải thưởng cao quý
nhất do Tổng thống Mỹ trao tặng cho những thành
tựu lớn lao về công nghệ.

Cùng với sự thành công, nhất là thành tựu có thể làm
thay đổi thế giới, thì luôn luôn có những thử thách.
Tuy nhiên, việc phát minh ra con chip 4004 đã đưa
Intel trở thành “ông hoàng” trong thị trường máy tính
cá nhân.

“Tôi cho rằng chip vi xử lý đã mang đến tương lai cho
Intel. Nhưng 15 năm trước đây chúng tôi đâu có nhận
ra được điều đó”, cựu Chủ tịch Intel Andy Grove năm

2006 cho biết. “Chip vi xử lý đã trở thành một ngành
kinh doanh chủ chốt của Intel. Nhưng khoảng 10 năm
trước đây chúng lại chỉ xem đó là là một lĩnh vực kinh
doanh nhất thời”.

Ngày nay, trước sự xuất hiện ngày càng nhiều các
dòng điện thoại thông minh và các thiết bị di động
tương tự khác, lợi nhuận thu được từ máy tính không
còn như trước. Điều này buộc Intel phải tìm cách tái
khẳng định bản thân một lần nữa, trong thời đại mà
điều mới lạ là chìa khóa cho sự thành công.


Ông Ted Hoff (thời trẻ) và con chip đầu tiên
của Intel - 4004.

Ted Hoff năm nay đã ngoài 70 tuổi. Tháng 4/1969,
hãng sản xuất máy tính của Nhật Busicom đặt hàng
Intel chế tạo một chiếc máy tính điện tử giá cả phải
chăng. Hoff đảm nhiệm công tác truyền đạt tin tức
thiết kế từ bên đối tác cho các kỹ sư của Intel. “Tôi
thấy tò mò về những gì họ đang làm và thấy thật sự
ngạc nhiên về những thiết kế của họ phức tạp như
thế nào”, ông nhớ lại.

Phía đối tác Nhật Bản, Busicom, đưa ra ý tưởng về
một tá các mạch tích hợp khác nhau, trong đó mỗi
mạch có một chức năng riêng và một số chứa tới
5.000 tranzitor. Hoff tính toán rằng, việc thiết kế mỗi
con chip như vậy có thể cần tới 6 tháng, nhất là khi

chỉ một số kỹ sư Intel có đủ trình độ cần thiết.

Hoff đã nói với ông Robert Noyce - đồng sáng lập
Intel, rằng ông có thể đơn giản hóa việc thiết kế này.
Ông Noyce đã khuyến khích ông.

Hoff đã áp dựng những gì ông học được về máy vi
tính cỡ lớn hơn. Cuối cùng, thiết kế của ông chỉ có 4
con chip tạo thành bộ xử lý trung tâm (CPU), có thể
được lập trình để đảm nhận nhiều chức năng khác
nhau, từ quét bàn phím cho tới chạy máy in, tương tự
như những cỗ máy lớn.

“Con chip mới có sự linh hoạt rất lớn”, ông nói. Khi
ban lãnh đạo Busicom nhìn thấy, họ đã từ bỏ kế
hoạch. “Họ thực sự thích nó”, Hoff nhớ lại.

Tờ ElectronicNews đã viết bài báo đầu tiên về sự ra
đời của con chip 4004. Thông tin cho biết, 4004 là
một con chip 4-bit chạy ở tốc độ 100KHz (bằng 1/10
của 1MHz) và có thể thực hiện các phép tính toán
học. Ông Gordon Moore – Giám đốc điều hành của
Intel tại thời điểm đó – đã tuyên bố chip 4004 là sản
phẩm có tính cách mạnh nhất trong lịch sử loài
người.

Tuy nhiên, sự phát minh này khiến ban lãnh đạo Intel
vấp phải một bài toán hóc búa. Bộ vi xử lý của họ chỉ
tốn khoảng 60 USD. Trong khi, các khách hàng mua
sản phẩm chính của Intel, chip nhớ để làm những cỗ

máy tính với kích thước bằng cả một căn nhà để cho
thuê với giá 2.500 USD/tháng.

“Chúng tôi phải làm rõ với khách hàng rằng, chúng tôi
sẽ không cạnh tranh với những máy tính khổng lồ đó,
bởi tốc độ xử lý của những cỗ máy cỡ bự đó vẫn còn
hơn con chip của chúng tôi”, Hoff nói. May thay, điều
đó đã đúng trong một thời gian.

Intel bắt đầu bán con chip 4004 từ tháng 11/1971.
“Không ai chắc chắn phải làm gì với nó”, Leslie Berlin,
nhà nghiên cứu lịch sử Thung lũng Silicon ở Stanford,
cho biết. “Máy tính, trong suy nghĩ của mọi người khi
ấy, là thứ gì đó to bằng cả căn phòng, chứ không
phải là một thứ bạn có thể cầm trên tay”.

“Đó là một vấn đề thực sự hấp dẫn nhưng nó sẽ khó
có thể được xem như là sản phẩm của tương lai,”
Nathan Brookwood – chuyên gia phân tích của Digital
Equipment tại thời điểm đó - nhận định.

Tuy nhiên, không lâu sau đó, các khách hàng đã sử
dụng những con chip nhỏ xíu này để thu tập dữ liệu
từ các giếng dầu và máy bơm xăng; một người nông
dân còn dùng con chip này để quan sát sự di chuyển
của đàn bò. Các thế hệ sau đó của con chip này,
được biết tới dưới những cái tên như 8008 và 8080,
đều “bán rất chạy”, Hoff kể.

Năm 1981, khi IBM chọn chip 8088 của Intel cho máy

tính để bàn của hãng, “ngành công nghiệp này đã
được nâng lên tầm cao mới và số phận của Intel đã
được định đoạt”, Tim Bajarin, Chủ tịch của hãng tư
vấn công nghệ Các chiến lược sáng tạo, cho biết.

Đến giữa thập niên 1980, Intel từ bỏ chip nhớ, lĩnh
vực kinh danh đầu tiên của công ty, do hai đồng sáng
lập đã chi 2,5 triệu USD hồi năm 1968 để gây dựng.
Ông Noyce đã qua đời năm 1990, còn Chủ tịch danh
dự Gordon E. Moore, “cha đẻ” của định luật Moore,
đã nghỉ hưu.

Con chip nổi tiếng tiếp theo của Intel là 486, được ra
mắt năm 1989 và nhanh hơn thiết kế ban đầu của
Hoff ít nhất là 100 lần.

Con chip Pentium 1993 là thế hệ thứ 8 kể từ con chip
4004 và có tốc độ xử lý nhanh gấp 1.500 lần. Intel bắt
đầu đặt tên cho các con chip của mình sau khi một
tòa án từ chối cho phép Intel đăng ký nhãn hiệu
“386”. Hiện chip Core của Intel sử dụng cho máy tính
cá nhân có tới 560 triệu tranzitor, so với chip 4004
của Hoff chỉ có 2.300.

Intel đang lập lại vị thế của mình trong bối cảnh mà
Chủ tịch kiêm Giám đốc điều hành Paul Otellini gọi là
“ngành công nghiệp máy tính tỏa khắp”, giai đoạn mà
mỗi thiết bị di động đều có một con chip xử lý bên
trong.


“Khả năng chính của chúng tôi là tạo ra một công
nghệ silicon tốt nhất trên thế giới và triển khai nó trên
diện rộng với giá cả phải chăng”, ông nói. Để đứng
được ở vị trí dẫn đầu, Intel sẽ phải tiếp tục tham gia
vào những khu vực mới mà hãng chưa từng đặt chân
tới.

Thêm vào đó, chip của Intel chưa thấy xuất hiện trong
thị trường điện thoại thông minh, nhưng nhà sản xuất
chip này cho biết sẽ ra mắt sản phẩm con chip điện
thoại di động thông minh đầu tiên trong năm 2011.
Hãng cũng đã chi hơn 10 tỷ USD để mua lại các công
ty trong năm vừa qua, phần lớn trong đó để mua lại
McAfee, hãng sản xuất phần mềm bảo mật máy tính.

40 năm trước, Hoff từng tưởng tượng rằng, phát minh
của ông sẽ được dùng trong thang máy, các tín hiệu
giao thông và “những nơi bí mật” khác. Và điều đó
đang trở thành sự thật, nhưng đáng buồn thay, một
trong những nơi bí mật ấy hiện nằm ngay gần tim
ông. Hoff đang phải dùng tới một chiếc máy trợ tim.
“Tôi là một ví dụ về hệ điều khiển nhúng”, ông nói,
“Có một con chip đang vận hành tôi”.

×