Tải bản đầy đủ (.doc) (4 trang)

NHỮNG NÉT ĐỘC ĐÁOTRONG"THUỐC" CỦA LỖ TẤN

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (70.18 KB, 4 trang )

Những nét độc đáo trong "Thuốc" của Lỗ Tấn
Những nét độc đáo trong "Thuốc" của Lỗ Tấn
:
Đọc hiểu truyện Thuốc ( Lỗ Tấn )
Trong di sản văn học của Lỗ Tấn, Thuốc là truyện ngắn đặc biệt và luôn giữ một vị trí quan trọng,
độc đáo trong cách thức kết cấu, tổ chức không gian, bố trí nhân vật và tái hiện nhân vật.
Với kết cấu bốn phần, mạch lạc tạo ra cảm giác kết cấu khai - thừa - luận - kết hay khai - thừa -
chuyển - hợp tương tự như kết cấu của một bài thơ cổ điển, được đánh số thứ tự từ I đến IV, câu
chuyện mang tiêu đề vừa thực vừa biểu trưng – Thuốc - được chia thành hai không gian rất đặc
trưng gắn với nhan đề tác phẩm: không gian quán trà nhà lão Hoa với ba phần và không gian nghĩa
địa với phần còn lại mà độ dài không kém ba phần kia là bao.
Phần khai truyện, tương ứng với phần khai đề của một bài thơ cổ điển, được mở ra từ không gian
thứ nhất bằng một buổi sáng sớm, chưa sáng hẳn song cũng đã chuyển sang một ngày mới với nội
dung chính là mua thuốc. Đó là “một đêm thu gần về sáng, trăng lặn rồi, nhưng mặt trời chưa mọc”.
Bóng tối bao trùm lên không gian ấy, trời không trăng cũng chẳng có sao nên “ngoài những giống
đi ăn đêm, còn thì ngủ say cả”. Để xua đi cái bóng tối ấy, lão Hoa, chủ nhân của ngôi nhà vừa để ở
vừa để bán hàng, đã “đánh diêm, thắp cái đèn nhầy nhụa những dầu là dầu” để tạo ra một thứ ánh
sáng “trắng xanh sáng khắp hai gian quán trà”. Ánh sáng ấy không làm cho ngôi nhà ấm lên, hay
sáng thêm mà chỉ làm cho nó chìm ngập sâu hơn vào bóng tối đang phủ dày xung quanh, khiến sự
trầm lắng có chiều sâu và hoàn cảnh buồn bã thê thảm hơn. Ánh sáng ấy cũng mang tính chất khác
thường. Đã thế sau khi thắp ngọn đèn lồng, lão Hoa lại “tắt ngọn đèn con”, tắt luôn thứ “ánh sáng
trắng xanh” đầy vẻ ma quái, hăm dọa ấy. Cảm giác về bóng tối bao trùm lại hiện ra khi lão bước ra
“ngoài đường, trời tối om và hết sức vắng”. Trong bóng tối ấy, lão đi vừa với tràn trề hi vọng, vừa
nơm nớp lo cho gói bạc cồm cộm trong túi. Lão đi đến nơi sẽ có phương thuốc diệu kì chữa bệnh
cho con lão, phương thuốc được truyền khẩu trong dân gian song không phải ai cũng biết, kể cả lão
Hoa.
Sự dịch chuyển thời gian được đánh dấu bằng: “Trời cũng sáng dần và đường cũng càng lâu càng
rõ” và lão cũng đến được nơi lão cần đến: một ngã ba đường nơi có “một cửa hiệu còn đóng kín
mít”. Tại đó, như một người lạc đường vào một xứ sở mới, lão “ngước đầu nhìn xung quanh” và
“thấy bao nhiêu người kì dị hết sức, cứ hai ba người một, đi đi lại lại như những bóng ma. Nhưng
nhìn kĩ thì lại chẳng lấy gì làm quái lạ nữa”. Đúng là lão đang rơi vào trạng thái trông gà hóa cuốc,


thần hồn nát thần tính mà tất cả cũng chỉ vì phương thuốc mà nhà lão đang rất cần để chữa bệnh cho
con. Thứ ánh sáng ở đây tạo cho lão cái nhìn ảo giác, vừa thực vừa hư mà cho dù không viết một lời
bình nào nhưng tác giả cũng hé lộ cho ta thấy trạng thái tâm lí lưỡng phân của lão Hoa. Nếu có ai
đó nhìn lão thì cũng nhìn bằng “ánh mắt cú vọ ngời lên, như người đói lâu ngày thấy cơm” hoặc
nhìn lão với đôi mắt “sắc như hai lưỡi dao chọc thẳng vào lão”. Những cặp mắt ấy cùng với những
cái nhìn kia gia tăng sức nặng cho phương thuốc “đặc biệt lắm”, đó là “một chiếc bánh bao nhuốm
máu” mà lão nhìn rõ là “đỏ tươi, máu còn nhỏ từng giọt từng giọt”. Tác giả kể một cách tuần tự,
không vội vã, như thể đang theo nhịp của từng giọt máu đang nhỏ xuống. Màu đỏ của máu tương
phản với sắc phục màu đen của người bán bánh tạo ra ấn tượng hãi hùng, vừa huyền bí vừa mang
sắc thái mỉa mai và đây là hai màu sắc đặc trưng mà lão Hoa nhận ra cũng như tác giả nhấn mạnh
cho độc giả biết.
Việc mua bán đã xong và lão đã có trong tay “cái gói bánh”, lão nâng niu nó như “nâng niu đứa con
của gia đình mười đời độc đinh”. Có “gói bánh ấy” lão hoàn thành trách nhiệm làm cha, và lại cũng
báo hiếu được cho tổ tiên, cứu cho dòng dõi nhà mình không dứt dòng tuyệt giống theo triết lí của
đạo Khổng. Hình ảnh mặt trời lại xuất hiện: “Mặt trời đã mọc, chiếu sáng con đường lớn đi về nhà
lão, và cũng chiếu sáng cái biển mục nát trên cái nhà bia ở ngã ba đường sau lưng lão, có đề bốn
chữ thếp vàng đã nhạt màu Cổ… Đình Khẩu”. Tác giả dường như cố tình bỏ mất một chữ, song
thực ra chỉ nhằm để chứng minh thêm rằng vầng dương đang chiếu sáng kia cũng chỉ là vầng dương
yếu ớt, không đủ để soi rọi cả bốn chữ mà chỉ đủ chiếu sáng có ba.
Số lượng nhân vật trong truyện có thể nói là nhiều, song hiện hình rõ rệt chỉ có bốn. Trước hết là vợ
chồng lão Hoa chủ quán hiện ra chỉ với những động tác mà không có nét ngoại hình nào. Hai vợ
chồng rất kiệm lời, thể hiện sự nhất trí nhưng đầy băn khoăn nghi ngại mà cả vợ lẫn chồng đều
không dám nói ra. Vì thế khi cầm gói bạc để đi mua thuốc, tay lão Hoa cứ “run run”, và cả khi đưa
tiền để lấy chiếc bánh bao đẫm máu người tay lão cũng “run run”, khi gặp người lạ thì lão “trố mắt
lên”. Nhân vật Thuyên được giới thiệu bằng “một cơn ho” và lời dặn dò của lão Hoa mà không hiện
ra cụ thể, song qua cách giới thiệu như vậy độc giả đã nắm bắt được lí do ra đi vào buổi tờ mờ sáng,
khi còn chưa rõ mặt người, của lão Hoa với gói bạc dành dụm được từ lâu. Cơn ho còn là động lực
thúc đẩy lão Hoa phải đi, vừa tạo ra sự thấp thỏm đợi chờ của bà Hoa. Một nhân vật khác được
miêu tả qua bộ “áo quần đen ngòm”, song có khác hơn một chút là hắn có cặp “mắt sắc như hai lưỡi
dao” với cử chỉ và cách nói dứt khoát: “Này! Tiền trao cháo múc, đưa đây!”. Nhân vật này hiện ra

với cách thức của một kẻ đao phủ chuyên nghiệp, lọc lõi chuyên buôn máu người chết. Hắn cũng
chẳng nói nhiều và cũng biết chẳng cần nói nhiều nhưng đã nói thì lời của hắn phải là mệnh lệnh.
Số nhân vật khác hiện dưới dạng các đám đông “tụm năm tụm ba” mà không thể biết số lượng là
bao. Ngoài ra, còn “mấy người lính” được phân biệt không phải qua tên người hay khuôn mặt mà
qua dấu hiệu quần áo có đính “miếng vải tròn màu trắng ở vạt áo trước và vạt áo sau”. Đây là loại
nhân vật được định danh bằng kí hiệu qui ước, song cũng thuộc loại nhân vật đám đông. Tất cả họp
thành một cái chợ đặc biệt. Kẻ bán, bán loại thuốc “đặc biệt”, còn người mua tuy ngại ngùng song
không thể không mua. Cái vô giá của mặt hàng ấy không phải ở chất liệu bánh mì làm nên chiếc
bánh bao mà ở chỗ nó được tẩm máu phạm nhân chết chém. Người phải chết đã chết rồi nhưng
phần cơ thể của họ, hiện hình qua những giọt máu đỏ tươi còn rỏ dài theo bước chân của kẻ bán, tạo
nên một nghịch cảnh trớ trêu, đầy nước mắt. Số lượng người đến mua không đếm được song không
phải là ít ỏi dưới mức bình thường, càng cho thấy rõ hơn nỗi đau của đám dân chúng cuồng tín mê
muội mà tác giả ngầm gửi gắm trong câu chuyện.
Con đường mà lão Hoa đi bắt đầu từ nhà lão và kết thúc tại ngã ba đường, nơi có “ngôi nhà còn
đóng cửa kín mít” mà lão đã đứng chờ để mua phương thuốc thần diệu, nơi những người “tụm năm
tụm ba lúc nãy” “dồn lại một chỗ”, “xô nhào tới như nước thủy triều”, “quây lại thành một nửa
vòng tròn”. Con đường đưa lão trở về hiển nhiên cũng chính là con đường ấy, song điều khác biệt là
đám người “tụm năm tụm ba” kia, đám người “quây thành nửa vòng tròn” kia đã biến mất từ lúc
nào và thay vào đó chỉ là tấm bia có “cái biển mục nát”, bốn chữ chỉ còn ba. Sức gợi của mạch văn
ở đây là rất lớn mà nếu chỉ đọc bàng bạc lướt qua thì chắc hẳn sẽ bỏ rơi những giá trị nhận thức cần
thiết không chỉ để hiểu câu chuyện mà còn để hiểu thời đại mà câu chuyện đề cập tới nữa. Đám
người biến mất tăm mất dạng ở ngã ba đường, lão Hoa cũng chỉ đến ngã ba đường rồi quay lại. Ngã
ba đường nơi người ta bán bánh bao tẩm máu người, nơi người ta tận dụng cái chết để tạo thành
thuốc “đặc biệt”, nơi nuôi dưỡng niềm tin mù quáng và cuồng tín. Ngã ba đường là nơi người ta
phải chọn lựa, song sự chọn lựa của lão Hoa chỉ là quay về nhà với niềm tin vào chiếc bánh tẩm
máu người mang sức mạnh thần bí. Ngã ba đường này vừa thực lại vừa hư, một ngã ba đường với
cái nhà bia tưởng niệm với cái biển đề mục nát. Ngã ba đường kiểu này thường gắn với hình tượng
con đường vốn tiêu biểu cho tài năng và trí tuệ của Lỗ Tấn.
Phần thừa đề diễn ra ngay trong ngôi nhà - quán trà ấy mà ta có thể tóm gọn nội dung bằng cụm từ
dùng thuốc. Ánh sáng cũng không sáng hơn cho dù có “ngọn lửa đỏ sẫm bốc lên” từ trong gian bếp,

tuy nhiên với ánh sáng ấy cũng đủ để nhận ra “trên đĩa có vật gì tròn tròn, đen thui” qua màu đen
của vỏ chiếc bánh bao bị “cháy sém” và “làn hơi trắng” bốc ra từ chiếc bánh bị bẻ làm đôi, tiếp đó
là ruột bánh bằng “bột mì trắng”. Hành động diễn ra ở đây không nhiều nhưng đều được thể hiện
một cách rất cẩn trọng, đầy xác tín. Hình ảnh “thằng Thuyên đang ngồi ăn cơm ở cái bàn dãy phía
trong, mồ hôi trán nhỏ từng giọt to tướng, chiếc áo kép dính vào sống lưng, hai xương vai gồ lên
thành chữ “bát” in nổi” trong mở đầu đoạn II với cách thức “Thuyên nghe tim mình đập mạnh
không sao cầm nổi, đưa tay vuốt ngực” khi kết thúc phần II, gợi ra cảm giác mong manh, vô nghĩa
của phương thuốc “đặc biệt lắm” mà lão Hoa mua về. Ngoài màu đen của vỏ chiếc bánh bị cháy
sém và màu trắng của làn hơi bốc lên từ chiếc bánh bị bẻ đôi mà làn hơi đó cũng mang lại cảm giác
rợn người là màu chủ đạo, ở đây còn xuất hiện mùi vị qua sự cảm nhận của nhân vật Năm Gù:
“Thơm ghê quá”, song đó là “mùi thơm quái lạ tràn ngập cả quán trà”, mùi thơm tỏa ra từ chiếc
bánh bao tẩm máu người được bọc lá sen để nướng. Cái “mùi thơm quái lạ” này càng tăng thêm ấn
tượng cho phương thuốc đặc biệt, vừa tạo ra niềm tin cho vợ chồng lão Hoa vừa đe dọa cảm thức
tâm linh của họ.
Số lượng nhân vật ở đây cũng chỉ có bốn song vợ chồng lão Hoa chủ quán cũng chỉ được giới thiệu
qua các động tác, cử chỉ là chủ yếu, ngoại trừ hình ảnh “bà Hoa từ trong bếp chạy ra, giương to đôi
mắt, đôi môi run run”. Còn thằng Thuyên đứa con còn lại của một gia đình “mười đời độc đinh”
được giới thiệu kĩ hơn. Trước hết là hình dáng với “hai xương vai gồ lên thành chữ “bát” in nổi”
cho thấy căn bệnh của nó đã vô phương cứu chữa và vì thế sự tuyệt vọng của gia đình càng tăng
hơn.
Rồi các động tác ăn bánh của nó, ngoan ngoãn hiền lành, bảo ăn thì ăn, bảo uống thì uống, bảo nằm
thì nằm, không hề hé răng nửa lời bởi nó chẳng còn đủ sức mà nói mà phô nữa, tới mức mới vừa
nuốt khỏi cổ nó cũng quên tuốt luôn “mùi vị” của cái bánh mà nó vừa nhai nuốt, bởi lẽ nó cũng đã
mất đi cảm giác ngon miệng, bởi bệnh đã trầm trọng lắm rồi. Cách hành động của Thuyên được thể
hiện rõ nhất lúc hắn cầm chiếc bánh: “Thuyên cầm lấy vật đen thui, nhìn một lúc, có cảm giác rất lạ
không biết thế nào mà nói, như đang cầm tính mệnh của chính mình trong tay”. Cái “lạ” trở thành
cảm giác chung được mọi nhân vật nhận biết nhưng cả cha mẹ lẫn đứa con đều không nói cho nhau
nửa lời về chuyện đó. Cái “lạ” dường như chứa đựng một điều gì đó bí ẩn, khác thường, mà tuy
nhận ra cái khác thường ấy, khác thường bởi đó là chiếc bánh bao tẩm máu người, song cả lão Hoa
lẫn bà Hoa đều có cảm giác như là vật thiêng cứu mạng. Cách trả lời duy nhất của thằng Thuyên là

“ho”, là những “cơn ho”. Cho nên khi thấy đứa con ăn có vẻ ngon lành thì hai ông bà cứ “trố mắt
lên” như thể đang đi từ ngạc nhiên này đến ngạc nhiên khác hoặc giả cũng có thể quá đỗi lo sợ vì
đứa con đang ăn nhanh để mà chết chứ không phải để kéo dài cuộc sống thì cả hai đều không thể
nói ra lời nên đành phải “trố mắt” mà nhìn vậy. Hình ảnh “lão Hoa đứng một bên, bà Hoa đứng một
bên”, còn ở giữa là đứa con tạo ra cảm giác như thể hai người đó đang đứng hai bên chiếc quan tài
trong một đám tang. Cảnh tượng đó thật hãi hùng song có tính biểu tượng rất lớn và kèm theo đó là
nỗi đau tuyệt vọng, vừa của người đang sống mòn mỏi vô vọng lẫn của cả người đang chết dần một
cách tuyệt vọng. Tác giả khi miêu tả hai ông bà này cũng chỉ đặc tả trạng thái bất bình thường của
họ qua đôi mắt mà cụm từ được sử dụng nhiều nhất là “trố mắt lên”, còn khi phải hành động thì
luôn “run run”. Bà Hoa “run run” sợ chồng không mua được thuốc, lão Hoa “run run” khi đón nhận
chiếc bánh bao tẩm máu người từ tên đao phủ. Hoàn cảnh mà cả hai bị đặt vào thật hết sức thương
tâm.
Nhân vật thứ tư xuất hiện trong phần này là nhân vật có tên: “cậu Năm Gù”- cái tên này trước hết là
một số thứ tự tạo ra ấn tượng về kiểu nhân vật vô danh, kiểu nhân vật mang kí hiệu qui ước, kèm
theo đặc điểm nhân dạng qua biểu hiện tật nguyền của con người đó: nhân vật bị “gù”. Xét về bản
chất, đây là loại nhân vật vô công rồi nghề, thể hiện ở chỗ: “cậu ta ngày nào cũng lê la ở cái quán
này, thường đến sớm nhất mà cũng về muộn hơn ai hết”. Cái mà cậu ta cảm nhận được là mùi vị
bốc ra từ gian bếp. Cái mùi đối với vợ chồng lão Hoa là “quái lạ” thì lại được nhân vật cảm nhận
thành mùi cơm rang: “Thơm ghê nhỉ !”. Sự tật nguyền của cơ thể chưa đủ, tác giả cho nhân vật này
tật nguyền luôn cả khứu giác. Con người này, bao giờ cũng đến sớm nhất và ra về muộn nhất, tại
nơi mà một con bệnh đang hấp hối khiến cho không gian ngôi nhà - quán trà trở thành không gian
đầy tử khí, nơi đó sự sống đang dần bị mất đi, cái chết đang lấn tới, bởi cái chết không chỉ hiện diện
trong ngôi nhà - quán trà đó mà còn cả cái chết được mua, mang từ ngoài về. Nhưng những con
người đó không chỉ chết dần về mặt thể xác mà điều quan trọng hơn là họ đang chết cả về tâm hồn
lẫn trí tuệ.
Không gian ngôi nhà - quán trà ấy tiếp tục được mở ra trong phần III - phần luận đề hay chuyển đề
của câu chuyện, với số lượng người có vẻ tấp nập hơn, ồn ào hơn nhưng cũng buồn bã hơn. Nội
dung câu chuyện được bàn ở đây là công dụng của thứ thuốc “đặc biệt” và nguồn gốc của thứ thuốc
ấy. Ánh sáng cũng không sáng hơn, chỉ đủ để phân biệt màu huyền trên chiếc áo và chiếc thắt lưng
của nhân vật Cả Khang. Ngoài cậu Năm Gù vốn đã ngồi sẵn từ lâu ở đấy, xuất hiện thêm một người

có “râu hoa râm”- nhân vật không có tên mà chỉ được định danh bằng đặc điểm cơ thể - sẽ đóng vai
người khơi mở ra câu chuyện được bàn ở đây.
Nhân vật Cả Khang với cái tên mang vẻ quyền uy kẻ cả trong làng, thể hiện luân lí tôn ti thứ bậc
của văn hóa Trung Hoa, được mọi người trong quán “cung kính”, được miêu tả qua trang phục áo
“không cài khuy”, “xộc xệch”, vào quán chẳng thèm chào hỏi đã nói “oang oang” như thể trấn áp
những người khác, với lối nói dồn dập chứa nhiều câu hỏi, với giọng điệu kể công, ban ơn. Nhân
vật này còn được miêu tả bằng một đặc điểm nhân dạng đặc biệt “người mặt thịt ngang phè”, khi
nói thì “những thớ thịt trên mặt nổi từng cục”và cách nói cũng khác thường, kẻ cả: “cứ giương cổ
nói oang oang”. Nhân vật này bốn lần “cam đoan thế nào cũng khỏi” và một lần khẳng định như
đinh đóng cột “nhất định sẽ khỏi thôi mà”. Bởi theo lão thì sự hiệu nghiệm của phương thuốc nằm ở
chỗ nó còn “nóng hôi hổi”, “lấy về còn nóng hôi hổi” và “ăn cũng còn nóng hôi hổi”, kèm theo đó
là một sự so sánh thẳng thừng, không úp mở “bánh bao tẩm máu người như thế, lao gì mà ăn chẳng
khỏi”. Bí mật của phương thuốc “đặc biệt lắm” đã xuất đầu lộ diện. Thằng Thuyên, người trực tiếp
sử dụng thứ thuốc ấy, không nói không rằng, chỉ lấy tiếng ho để minh họa. Nó phải “ho lên” để
“phụ họa”, nó phải “hai tay ôm lấy ngực, ho lấy ho để”, nó phải “thừa dịp ho cố mạng”. Còn động
tác của nó thì “bước chậm rãi”, người thì “mồ hôi ướt đầm, trên đầu hơi bốc phừng phừng”. Đặt hai
nhân vật này trong quan hệ đối sánh thì công dụng của thứ thuốc “đặc biệt” nổi bật lên mà tác giả
cũng chẳng cần thêm lời bình luận. Đồng thời cũng khu biệt được kiểu người Cả Khang. Điều này
càng được khắc họa rõ hơn bằng chính lời của hắn, khi trả lời câu hỏi của người “râu hoa râm”.
Nhân vật người có “râu hoa râm”, là đại diện cho một tầng lớp xã hội đông đảo hiện diện trong
Thuốc và được đặt đối sánh với “anh chàng trạc hai mươi tuổi” để từ đó làm nổi bật khả năng nhận
thức cũng như để minh chứng cho sự u mê lầm lạc của lớp người như thế. Cùng loại với nhân vật
“râu hoa râm” này trước hết là ông bà Hoa, là lão Nghĩa “đề lao” “mắt đỏ như mắt cá chép” và hiển
nhiên là cả lão Cả Khang. Nhân vật “râu hoa râm” tuy có nhận ra vẻ bất thường trên nét mặt lão
Hoa, nhưng cũng không phân định được là ông ta có ốm thật hay không, lại còn đưa ra câu bình tán
có vẻ thức thời nhưng lại không đúng đối tượng: “đánh cái đồ ấy, thương hại cái gì?” cho dù có biết
“người bị chém hôm nay là người họ Hạ”. Đây là kiểu nhân vật u u mê mê, muốn hiểu không được
hiểu, muốn biết không được biết, kiểu người tự mình mò mẫm tìm đường đi. Bởi thế dù nhân vật có
đi tới khẳng định: “Lão Nghĩa mà đáng thương hại à?” thì vế tiếp theo của lời phát ngôn ấy: “Điên!
Hắn điên thật rồi!” lại càng nhấn mạnh thêm tính chất thức tỉnh qua việc “vỡ nhẽ” của con người

này.

×