Tải bản đầy đủ (.doc) (95 trang)

Vi sinh vật - Chương 2: Virus doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.36 MB, 95 trang )

Chương 2: VIRUS
MỤC TIÊU:
Sau khi phần học xong phần naỳ sinh viên nắm được:
1. Sự phát triển cuả ngành virut học và tầm quan trong cuả nó.
2.Virut là nhóm đối tượng đặc biệt cuả ngành virut học.
3.Các đặc điểm cuả virut.
4.Cấu taọ cuả virut.
5. Các kiểu chu trình sống cuả các virut ở vi khuẩn và ở động, thực
vật.
6. Virut và bệnh tật.
I/ LƯỢC SỬ PHÁT HIỆN VÀ NGHIÊN CỨU VIRUT.
I.1 Phát hiện ra virut là tác nhân gây nhiều bệnh ở các loại cơ thể
sống.
Trước khi loài người biết đến bản chất cuả virut, nó đã là tác
nhân gây nhiều bệnh truyền nhiễm. người ta đã tìm thấy dấu dấu vết gây
bệnh virut trên người từ thời thượng cổ. năm 1884, Lui Paster khi nghiên
cứu bệnh daị đã giả định rằng tác nhân gây bệng daị là một loại tế baò sống
nhở hơn vi khuẩn và ông đề nghị sử dụng thuật ngữ virut dành cho loại bệnh
không rõ nguồn gốc( virut _ tiến lalinh có nghiã là chất độc).
_Năm 1892, Đ. I. Ivannôpxkii dã chứng minh rằng dịch qua lọc
từ cây thuốc lá bị bệnh đốm thuốc lá có bản chất sống, có khả năng lây
nhiễm và rút ra kết luận: tác nhân gây bệnh đốm thuốc lá là một loại vi
sinh vật đi qua hết thaỷ các loại phểu lọc vi khuẩn.
_Năm 1898, Beijerinck Martinus đã khẳng định kết luận cuả
ivanopxkii và tính kí sinh bắt buộc cuả chúng: nguyên nhân gây bệnh đốm
thuốc là lá do dịch chật độc sớng qua lọc. Chất dịch độc này chỉ gây bệnh
tr6en mô sống cuả cây thuốc lá, có thể mất hoạt tính khi dun sôi, nhưng nếu
sấy khô sẽ vẫn bảo toàn hoạt tính. Các vi sinh vật qua lọc này ngaỳ nay được
gọi chung là vi rut.
_Tiếp đó, các loại virut gây bệnh trên người, động vật và vi sinh
vât cũng đã lần luợc được khám phá, ví dụ virut gây bệnh lở mồm lông


mống ở đại gia súc có sừng, virut gây bệng số vàng ở châu phi, virut gây
bệnh máu trắng ở gà, virut gây khối u ở gà. Năm 1915,F.W.Twort dã quan
sát thất hiện tượng virut làn tan Micrococcus trên môi trường thạch. Năm
1917 Fellix D Herelle đã phân lập được virut làm tan Shigella disenteriae.
Ông gọi virut kí sinh trên vi khuẩn là thực khuẩn.
_Ngày nay danh sách các virut gây bệnh ở người và động thực
vật ngaỳ cáng dài thêm, trong đó có hhiều loại virut gây bệnh cực ki nguy
hiểm như HIV/AIDS, virut Ebola, virut Sart và cúm gà tuyp A(H5n1), virut
ung thư gan, vòng họng, Burkit….
I.2 Nghiên cứu về hình thái, câu tạo hạt virut và xây dựng các
phương pháp nghiên cứu virut.
Ngành virut học cũng đã tiến những bước tiến rất dài về xây
dựng phương pháp nghiên cứu toàn diện về bản chất virut.
+ Năm 1933 bằng phương pháp li tâm đặc biệt, Schllesinger thu được
Phage ở dạng thuần chủng.
+Năm 1940 nhờ có sự ra đời cuả kính hiển vi điện tử, người ta đã
nhìn thấy virut đốm thuốc lá( Tabaco mosaic virut= TMV) và ngành virut
học có những bước phát triển nhanh chóng.
+Năm 1935 Stanley tinh thể hóa đuợc TMV.
+ Năm 1937 Bawden và Pirie đã thuần chủng TMV và xác điịnh được
thành phần cấu trúc cuả hạt TMV gồm có axit nuclêic (ARN) và vỏ protein.
+ Mặt dù TMV là virut đuợc phát hiện sớm nhất nhưng các thí nghiệm
sinh hoá và di truyền về sau này lại chủ yếu đuợc tiến hành trên phage.
+ Holmos (1929) đã xá định phương pháp đếm đơn vị nhiễm ở thực
vât nhờ các vết hoại tử trên cây và lá.
+Max Theiler (1937) đã đưa ra phương pháp nuôi cấy virut động vật
trong phôi gà mở đầu sự nghiê cứu các virut động vật. Sự nuôi cấy thành
công các virut trên các mô sống nhân tạo cuả Ender năm 1949 đã cho phép
các nghiên cứu virut tiến hành thuận lợi hơn. Tiếp đó, năm 1952 Dulbelco
đã đưa ra phương pháp đếm đơn vị nhiễm ở động vật nhờ nuôi cấy tế bào

một lớp trong hộp petri.
+Năm 1941 Hirst đã phát hiện khả năng làm ngưng kết hồng cấu cuả
virut cúm đặt nền móng cho phương pháp chuẩn đóan các bệnh virut bằng
huyết thanh và miễn dịch học virut.
+Từ những năm 1960 các phuơng pháp huyềt thanh và miễn dịch học
tiếp tục được phát triển và hoàn thiện.
+ Năm 1975 nhờ thành công cuả Kohler và Mils về tạo kháng thể đơn
dòng mở ra một bước tiến mới trong việc hoán thiện các phuơng pháp
nghiên cứu virut.
II. ĐAỊ CƯƠNG VỀ VIRUT
II.1 Tóm tắt về đặc điểm chính (tính chất) cuả virut:
-Virut là một nhánh cuả sự sống, bao gồn nhửng thể sống siêu hiển vi,
nằm ở ranh giới giữa phân tử hữu cơ lớn nhất( phân tử albumin 10 nm) và tế
bào vi khuẩn nhỏ nhất ( Mycoplasma _ 150nm) đi qua màng lọc vi khuẩn
không nhìn thấy dưới kính hiển vi quang học, không lắng đọng trong máy
quay li tâm thường.
- Virut chỉ có kết cấu đaị phân tử, không có cấu tạo tế bào, thường
được gọi là hạt virut chứ không goị là tế bào virut( virut particles). Thành
phần cuả hạt virut chỉ bao gồm vỏ protein và lõi axit nucleic ( môt vài virut
phúc tạp có màng bao bọc chứa thêm polisaccharit hoặc lipopolisaccharic)
-Không có hệ thống trao đổi chất và năng lượng riêng. Khác với tất cả
các loại vi sinh vật đã biết, hạt virut chỉ chứa một loại axit nucleic hoặc
ADN hoặc ARN. Chí có axit nucleic mới giử chúc năng di truyền, protein và
vỏ bọc chỉ giữ chức năng năng bảo vệ.
-Virut là vi sinh vật kí sinh bắt buộc, chỉ sinh trưởng phát triển trong
tế bào vật chủ sống. Khi ở ngoài cơ thể vật chủ vi rut chỉ có thể tồn tại ở
dạng đại phân tử hoá học và có tính truyền nhiễm ( dạng virion).
-Một số virut thực vật có khả năng hình thành tinh thể.
Virut là nhóm đặc biệt cuả sinh giới và có khả năng gây bệnh trên tất cả các
sinh vật khác từ vi khuẩn , nấm tảo nguyên sinh động vật đến thực vật và

con người,.
- Vì những tính chất rất đặc biệt như trên virut chưa được xếp vào
bất cứ nhóm phân loại naò trong các hệ thống phân loại sinh giới.
II.2 Những đặc điểm đặc trưng cuả virut
II.2.1 Hình dạng, kích thước
- Virut chưa có cấu tạo tế bào, mỗi virut không thể gọi là
một tế bào mà được goị là hạt virut hay virion. Đó là một virut thành thục có
cấu trúc hoàn chỉnh. Virut có nhiều dạng hình thái khác nhau.
1. hình dạng cầu đối xứng xoắn
Dạng thường hay gập, đa số các virut gây
bệnh cho người và động vật thường dạng này như virut cúm, virut quai bị,
virut ung thư ở người và gia cầm, kích thước từ 100- 150 nm.
Virut quai bị virut ung thư
2. Dạng hình que đối xứng xoắn
Gồm hầu hết các virut gây
bệnh cho thực vật như: virut đốm lá cây thuốc lá, virut đốm
khoai tây, kích thước từ 15-250 nm.
3. Dạng hình khối đối xứng xoắn
Cây đốm thuốc lá
Gồm các virut có nhiều góc cạnh, có cấu tạo phức
tạp như: virut đậu muà, virut khối u cuả nguời và động vật,
virut đường hô hấp, kích thước từ 30-300nm.
4. Dạng hình tinh trùng
Gồm hai phần: phần đầu có dạng hình khối
saú cạnh, phần sau là đuôi có dạng hình que, goị là thực khuẩn thể (phage,
bacteriophage) có kích thưóc biến động từ 10-250nm.
Trừ virut đậu mùa có thể quan sát bằng kính
hiển vi quang học, còn hầu hết tất cả các virut có kích thước khoảng 1,2 µm
thì không thấy được. Về độ lớn thì virut họ Poxviridae có kích thước lớn
nhất 250 nm và virut nhỏ nhất là virut thuộc họ Piconaviridae có kich thước

khoảng 10- 20 nm.
II.2.2 CÂÚ TRÚC CUẢ VIRUT
Có thể khái quát cấu trúc của viut như sau:
Vỏ Vỏ capsit
Màng bọc + gai+enzim(ở một số virut)
Hạt virut
Lõi AND hoặc ARN
enzym(ở một số virut)
Tất cả các virus đều có cấu tạo gồm hai thành phần cơ bản: lõi là acid
nucleic (tức genom) và vỏ là protein gọi là capsid, bao bọc bên ngoài để
bảo vệ acid nucleic. Phức hợp bao gồm acid nucleic và vỏ capsid gọi là
nucleocapsid hay xét về thành phần hoá học thì gọi là nucleoprotein.
Đối với virus ARN thì còn gọi là ribonucleoprotein Genom của virus có
thể là ADN hoặc ARN, chuỗi đơn hoặc chuỗi kép, trong khi genom của
tế bào luôn là
ADN chuỗi kép, và trong tế bào luôn chứa hai loại acid nucleic, ADN
và ARN.
II.2.2.1Vỏ capsid:
Capsid là vỏ protein được cấu tạo bởi các đơn vị hình thái gọi là
capsome. Capsome lại được cấu tạo từ 5 hoặc 6 đơn vị cấu trúc gọi là
protome. Protome có thể là monome (chỉ có một phân tử protein) hoặc
polyme (có nhiều phân tử protein)
Virut đâu mùa
- Pentame (penton) có 5 protome nằm trên các đỉnh của khối đa diện,
còn hexame (hexon) tạo thành các cạnh và bề mặt hình tam giác.
- Capsid có khả năng chịu nhiệt, pH và các yếu tố ngoại cảnh nên có
chức năng bảo vệ lõi acid nucleic
- Trên mặt capsid chứa các thụ thể đặc hiệu, hay là các gai
glicoprotein, giúp cho virus bám vào các thụ thể trên bề mặt tế bào.
Đây cũng chính là các kháng nguyên (KN) kích thích cơ thể tạo đáp

ứng miễn dịch (ĐƯMD).
- Vỏ capsid có kích thước và cách sắp xếp khác nhau khiến cho virus
có hình dạng khác nhau. Có thể chia ra ba loại cấu trúc: đối xứng
xoắn, đối xứng hình khối và cấu trúc phức tạp (Hình 1).
Hình 1. Kích thước và hình thái của một số virus
điển hình .Theo Presscott L. M. et al. ,
Microbiology. 6th ed. Intern. Ed. 2005.
1. Cấu trúc đối xứng xoắn:
Sở dĩ các virus có cấu trúc này là do capsome sắp xếp theo chiều xoắn của
acid nucleic. Tuỳ loại mà có chiều dài, đường kính và chu kỳ lặp lại của các
nucleocapsid khác nhau. Cấu trúc xoắn thường làm cho virus có dạng hình
que hay hình sợi ví dụ virus đốm thuốc lá (MTV), dại (rhabdo), quai bị, sởi
(paramyxo), cúm (orthomyxo). ở virus cúm các nucleocapsid được bao bởi
vỏ ngoài nên khi quan sát dưới kính hiển virus điện tử thấy chúng có dạng
cầu. ( chen hinh)
2. Cấu trúc đối xứng dạng khối đa diện 20 mặt
Hình của phòng thí nghiệm
Ở các virus loại này, capsome sắp xếp tạo vỏ capsid hình khối đa diện với 20
mặt tam giác đều, có 30 cạnh và 12 đỉnh. Đỉnh là nơi gặp nhau của 5 cạnh
thuộc loại này gồm các virus adeno, reo, herpes và picorna. Gọi là đối xứng
vì khi so sánh sự sắp xếp của capsome theo trục. Ví dụ đối xứng bậc 2, bậc
3, bậc 5, vì khi ta xoay với 1 góc 1800 (bậc 2), 1200 (bậc 3) và 720 (bậc 5)
thì thấy vẫn như cũ. Các virus khác nhau có số lượng capsome khác nhau.
Virus càng lớn, số lượng capsome càng nhiều. Dựa vào số lượng capsome
trên mỗi cạnh có thể tính được tổng số capsome của vỏ capsid theo công
thức sau:
N= 10(n-1)2+2
Trong đó N- tổng số capsome của vỏ capsid, n-số capsome trên mỗi cạnh.
Hình 2.
A. Sơ đồ virus hình que với cấu trúc đối xứng xoắn (virus khảm thuốc lá).

Capsome sắp xếp theo chiều xoắn của acid nucleic.
B- Sơ đồ virus đa diện đơn giản nhất. Mỗi mặt là một tam giác đều. Đỉnh do
5 cạnh hợp lại. Mỗi cạnh chứa 3 capsome.
C- Sự đối xứng của hình đa diện thể hiện khi quay theo trục bậc 2 (1800),
bậc 3 (1200) và bậc 5 (720).
Theo J. Nicklin et al., Instant Notes in
Microbiology, Bios Scientific Publisher, 1999
đại diện kiểu cấu trúc khối có các loại: virut đường hô hấp,virut đường ruột,
virut khối u….
3. Virus có cấu tạo phức tạp
Một số virus có cấu tạo phức tạp, điển hình là phage và virus đậu
mùa. Phage có cấu tạo gồm đầu hình khối đa diện, gắn với đuôi có cấu tạo
đối xứng xoắn. Phage T chẵn (T2, T4, T6) có đuôi dài trông giống như tinh
trùng, còn phage T lẻ (T3,T7) có đuôi ngắn, thậm chí có loại không có đuôi
Virus đậu mùa có kích thước rất lớn, hình viên gạch. ở giữa là
lõi lõm hai phía trông như quả tạ. Đối diện với hai mặt lõm là hai cấu trúc
dạng thấu kính gọi là thể bên. Bao bọc lõi và hai thể bên là vỏ ngoài.
II.2.2.2. Axit nucleic
Nằm ở giữa hạt virut tạo thành lõi hay hệ gen của virut, chứa axit
nucleic, mỗi loại virut đếu có một trong hai axit nucleic hoặc AND hoặc
ARN. Những virut có cấu trúc AND phần lớn mang AND sợi lép, còn virut
mang Arn thì chủ yếu dạng sợi đơn. Axit nucleic chủ yếu là vât liệu được
mã hoá mang thong tin di truyền của virut, hầu hết các virut thực vật chứa
ARn, virut gây bệnh cho người và động vật một số chứa AND, một số chứa
ARN, còn thực thể khuẩn(phage) thì luôn luôn chứa AND.
Trong dạng virut que, axit nucleic xắp xếp như một mạch xoắn vòng, giống
như hình lò xo xoắn ốc.
Trong d ạng virut hình khối, hình cầu và phần đầu của phage thì axit nuleic
nằm cuộn tròn chính giữa trong như cuộn len rối.
Axit nuleic của virut chỉ chiếm từ 1-2% khối lượng của hạt virut,nhưng có

chức năng đặc biệt quan trọng:
+ các axit nuleic mang mật mã di truyền đặt trưng cho từng virut.
+ axit nuleic quyết định khả năng gây nhiễm trùng của virut trong
từng tế bào cảm thụ.
+ axit nuleic quyết định chu ki nhân lên cùa virut trong từng tế bào
cảm thụ.
+ axit nuleic mang tính bán kháng nguyên trong từng tế bào cảm thụ.
II.2.2.3 Cấu trúc riêng
1. Cấu trúc bọc ngoài hay vỏ bọc ngoài(envelop)
Một số virut bên ngoài capsit còn có một màng bao, gọi là envelop,
cấu tạo bởi lipoprotein, trên màng bao còn có thể có them gai nhú (spike)
bám xung quan. Màng này thực chất là màng tế bào chất của vất chủ nhưng
đã bị virut cải tạo thành và mang tính kháng nguyên đặt trưng cho virut,
màng bao có thể bị các dung môi hòa tan virut phá hủy.
Cấu trúc vỏ ngoài của virut có một số chức năng sau:
+ Tham gia vào sự của virut trên các vị trí thích ho71pcua3 tế
bào cảm thụ, như chất hemagglutinin của virut cúm.
+ Tham gia vào giai đoạn lắp ráp và giải phóng virut ra khỏi tế
bào.
+ Vỏ bọc ngoài giúp cho virut giữ được tính ổn định của kích
thước.
+Tạo nên các kháng nguyên đặcc hiệu trên bề mặt virut.
2. Enzym
Trong thành phần cấu trúc của virut có một số enzyme, đó là
những enzyme cấu trúc, chúng gắn với cấu trúc của hạt virut hoàn chỉnh.
Các enzyme cấu trúc thường gặp là Neuraminidaza, AND và ARN
polimeraza, men sao chép ngược(reverse transcriptase).
Mỗi enzyme cấu trúc có những chức năng riêng trong chu kì
nhân lên của virut trong tế bào cảm thụ và chúng cũng mang tính kháng
nguyên riêng đặt hiệu cho mội loại virut.

3.Tiểu thể bao hàm(inclusion)
Trong tế bào động vật và thực vật bị nhiễn vi rut, có thể xuất hiện những hạt
nhỏ trong nhân hoặc trong tế bào tương, có kích thước và bắt màu đặc trưng
nên có thể nhuộm và quan sát dưới kính hiển vi quang học được, đồng thời
dựa vào đó có thể dự đoán gián tiếp sự nhiễm virut trong tế bào.Bản chất
của các hạt này có thể là do các hạt virut ko6ng giải phóng khỏi tế bào hoặc
có thể là do thành phần cấu trúc của virut chưa được lắp ráp thành hạt virut
mới, cũng có thể là các hạt phản ứng của tế bào khi nhiễn virut, những hạt
đó gọi là tiểu thể bao hàm hay thể ẩn nhập(inclusion). Ví dụ trong nguyên
sinh chất tế bào của người mắt đậu mùa có tiểu thể bao hàm Guarnieri, ở gà
mắt bệnh đậu có tiểu thể bao hàm Bollinge, trong nguyên sinh chất tế bào
thần kinh trung ương của người mắt bệnh dại có tiểu thể bao hàm Negri.
III Chu trình nhân lên của virut trong tế bào vật chủ
_Virus không có khả năng sống độc lập, chúng sống ký sinh trong tế
bào sống. Kết quả của quá trình ký sinh có thể xảy ra 2 khả năng:
• Khả năng thứ nhất là phá vỡ tế bào làm tế bào chết và
tiếp tục xâm nhập rồi phá vỡ các tế bào lân cận.
• Khả năng thứ 2 là tạo thành trạng thái tiềm tan trong tế
bào chủ, nghĩa là tạm thời không phá vỡ tế bào mà chỉ hoạt động sinh sản
cùng nhịp điệu với tế bào chủ. Ở những điều kiện môi trường nhất định,
trạng thái tiềm tan có thể biến thành trạng thái tan phá vỡ tế bào.
_Những virus có khả năng phá vỡ tế bào gọi virus độc, những virus có
khả năng tạo nên trạng thái tiềm tan gọi là virus không độc.
 Quá trình hoạt động của virus độc:
Quá trình của virus độc chia làm 4 giai đoạn:
+giai đoạn 1: Giai đoạn hấp thụ của hạt virus tự do trên tế bào chủ:
Các hạt virus tự do tồn tại ngoài tế bào không có khả năng
hoạt động, chúng ở trạng thái tiềm sinh gọi là hạt Virion. Khi gặp tế bào chủ,
phụ thuộc vào tần số va chạm giữa hạt virion và tế bào, va chạm càng nhiều
càng có khả năng tìm ra các điểm thụ cảm trên bề mặt tế bào gọi là các

receptor. Lúc đó điểm thụ cảm của tế bào chủ và gốc đuôi của virus kết hợp
với nhau theo cơ chế kháng nguyên - kháng thể nhờ có thành phần hoá học
phù hợp với nhau. Kết quả là virus bám chặt lên bề mặt tế bào chủ. Mỗi loại
virus có khả năng hấp thụ lên một hoặc vài loại tế bào nhất định. Điều này
giải thích được tại sao mỗi loại virus chỉ gây bệnh cho một vài loại nhất
định.
+giai đoạn 2:Giai đoạn xâm nhập của virus vào tế bào chủ:
Quá trình xâm nhập của virus vào tế bào chủ xảy ra theo
nhiều cơ chế khác nhau phụ thuộc vào từng loại virus và tế bào chủ.
Ở thực khuẩn thể T4 sau khi virus bám vào điểm thụ cảm của tế bào chủ, nó
tiết ra men Lizozym thuỷ phân thành tế bào vi khuẩn. Sau đó dưới tác dụng
của ATP - aza bao đuôi của phage co rút làm cho trụ đuôi xuyên qua thành
tế bào và phân tử ADN được bơm vào bên trong tế bào chủ. Vỏ capxit vẫn
nằm ở ngoài. Người ta chứng minh được cơ chế trên nhờ phương pháp
nguyên tử đánh dấu.
Ngoài cơ chế trên còn có một số cơ chế khác: ở một số
virus động vật, sau khi tiết ra men phân huỷ thành tế bào chủ, toàn bộ hạt
virion lọt vào trong tế bào, sau đó các men bên trong tế bào mới tiến hành
phân huỷ vỏ Capxit giải phóng ADN. Người ta gọi là quá trình này là quá
trình “cởi áo”. Một số tế bào chủ lại có khả năng bao bọc virion rồi “nuốt”
theo kiểu thực bào. Sau đó có quá trình “cởi áo” giải phóng ADN của virus.
+ giai đoạn 3: Giai đoạn sinh sản của virus trong tế bào chủ (sao
chép và nhân lên).
Quá trình sinh sản của virus còn gọi là sự nhân lên của
chúng. Đây là vấn đề rất hấp dẫn của sinh học phân tử trong thời gian gần
đây. Bằng các phương pháp hiện đại người ta đã làm sáng tỏ quá trình nhân
lên của virus. Sau khi phân tử ADN của virus lọt vào tế bào chủ, quá trình
tổng hợp ADN của tế bào chủ lập tức bị đình chỉ. Sau đó quá trình tổng hợp
protein của tế bào cũng ngừng và bắt đầu quá trình tổng hợp các enzym này
còn gọi là protein sớm vì nó là những protein được tổng hợp đầu tiên sau

quá trình xâm nhập. Khi các enzym này được hoàn thành, bắt đầu xúc tác
cho quá trình tổng hợp ADN của virus bằng nguyên liệu ADN của tế bào
chủ bị phân huỷ. Sau khi các phân tử ADN virus được tổng hợp đến một số
lượng nhất định quá trình này ngừng và bắt đầu quá trình tổng hợp Protein
muộn bao gồm vỏ Capxit của virus và các enzym có trong thành phần của
virus trưởng thành. Các quá trình này được tiến hành do sự điều khiển của
bộ gen virus. Như vậy, 2 phần vỏ và lõi virus được tổng hợp riêng biệt.
+ giai đoạn 4: Giai đoạn lắp ráp hạt virus và giải phóng chúng ra
khỏi tế bào:
Giai đoạn này còn gọi là sự chín của virus. Sau khi các
bộ phận của virus được tổng hợp riêng biệt (axit nucleic, vỏ capxit, bao đuôi,
đĩa gốc, lông đuôi) các thành phần lắp ráp lại với nhau thành hạt virus
trưởng thành, kết thúc thời kỳ tiềm ẩn, tức là thời kỳ trong tế bào chưa xuất
hiện virus trưởng thành. Thời kỳ tiềm ẩn kéo dài bao lâu tuỳ thuộc từng loại
virus.
Trong nhiều trường hợp các virus trưởng thành tiết men
lizozym phân huỷ thành tế bào và ra ngoài, tế bào bị phá vỡ. Các virus con
tiếp tục xâm nhập vào các tế bào xung quang và phá vỡ chúng. Ở một số
virus, virus trưởng thành không phá vỡ tế bào mà chui ra qua lỗ liên bào
sang tế bào bên cạnh hoặc được phóng thích nhờ quá trình đào thải của tế
bào. Trong tế bào đầu tiên vẫn tiếp tục quá trình tổng hợp virus mới. Ở cả 2
cơ chế, tế bào chủ sớm muộn cũng bị chết hàng loạt. Đó là quá trình hoạt
động của virus độc. Sau đây ta nghiên cứu quá trình hoạt động của virus
không độc.
 Quá trình hoạt động của virus không độc
Virus không độc còn gọi là virus ôn hoà, hoạt động của nó không làm chết tế
bào chủ mà chỉ gây nên trạng thái tiềm tan, gọi là trạng thái Lyzogen. Virus
sống chung với tế bào chủ, sinh sản cùng nhịp điệu với nó.
Hiện tượng Lyzogen được phát hiện trên vi khuẩn, các phage
này được gọi là phage ôn hoà hoặc prophage. Tế bào có chứa prophage có

khả năng miễn dịch với các phage khác. Nguyên nhân của hiện tượng này là
do prophage có khả năng tổng hợp nên các protein có tác dụng kìm hãm sự
nhân lên của virus lạ cũng như vản thân prophage. Một số tác nhân đột biến
làm mất hoạt tính hoặc làm ngừng sự tổng hợp chất kìm hãm trên, dẫn đến
sự thay đổi trạng thái Lyzogen, tức là biến trạng thái tiềm tan thành trạng
thái tan. Lúc đó phage ôn hoà biến thành phage độc và tế bào chủ sẽ bị phá
vỡ. Quá trình này ngoài tác nhân đột biến còn phụ thuộc vào hệ gen của
prophage và trạng thái sinh lý của tế bào cũng như đặc điểm nuôi cấy. Bởi
vậy, cùng một loài vi khuẩn, có những chủng cảm ứng với phage, có chủng
không. Khi nuôi chung hai chủng với nhau trên môi trường thạch đĩa có thể
thấy rõ những vệt bị tan trong thảm vi khuẩn không bị tan. Trong điều kiện
tự nhiên, tần số biến trạng thái tiềm tan thành trạng thái tan chỉ là 10-2 - 10-
5.
Chu trình nhân lên của virut trong tế bào bao gồm 5 giai đoạn.
Các giai đoạn:
Các
giai
đoạn
Đặc điểm
1 Hấp thụ _ Virut bám trên bề mắt vật chủ nhờ thụ thể đặt hiệu với
thụ thể của tế bảo vật chủ.
_ Virut bám một cách đặt hiệu lên thụ thể bề mặt tế bào
nhờ gai glycoprotein đặt hiệu với thụ thể trên bề mặt tế
bao.
_ Chính vì sự bám đặt hiệu trên mà ỗi loài virut chỉ có thể
kí siinh trên một hoặc một số loài vật chù nhất định
2 Xâm
nhập
_ Bao đuôi của virut co lại đẩy bộ gen của virut chui vào
trong tế bào vật chủ.

_virut động vật đưa cả nulecapsit vào tế bào chất sau đó
cởi vỏ để giải phóng axit nuleic.
_Vrut tiết enzyme lizoxom phá huỷ thành tế bào để đưa
axit nuleic vào trong
3 Sinh
tổng hợp
_ Bộ gen của virut điều khiển bộ máy di truyền của tế bào
chủ tổng hợp AND và vỏ capsit cho mình.
4 Lấp ráp _ Vỏ capsit bao lấy lõi AND, các bộ phận như đĩa gốc,
đuôi gắn lại với nhau tạo thành virut hoàn chỉnh
5 Phóng
thích
_ Các virut mới được thạo thành phá bỏ vỏ tế bào chủ ồ at
ra ngoài tạo thành một lổ thủng trên vỏ tế bào chủ và chui
ra ngoài.
_ Khi virut nhân lên mà làm tan tế bàothì gọi là chu trình
tan.
Sơ đồ hoá năm giai đoạn phát triển của phage
độc:
IV. Hiện tượng cảm nhiễm (Interference) và
ứng dụng của nó
Interference là hiện tượng khi gây
nhiễm một loại virus cho tế bào thì việc gây
nhiễm virus khác sẽ bị ức chế. Hiện tượng ức chế
này không có tính đặc hiệu đối với virus. Các
virus hoàn toàn khác nhau có thể ức chế nhau, ví
dụ virus AND có thể ức chế sự xâm nhiễm của
virus ARN và ngược lại. Một virus đã bị làm bất hoại bởi tia cực tím vẫn có
khả năng gây ra hiện tượng Interference đối với virus sống. Song hiện tượng
này lại có tính đặc hiệu đối với loài thuộc tế bào chủ. Chất ức chế gọi là

Interferon sinh ra bởi tế bào thuộc loài nào thì chỉ có tác dụng đối với các tế
bào thuộc loại ấy. Ví dụ Interferon sinh ra ở tế bào gà thì không có tác dụng
ức chế ở tế bào bò hoặc lợn.
Interferon là một loại protein đặc biệt được sinh ra trong tế bào sau
khi bị nhiễm virus. Chính nó đã ức chế quá trình tổng hợp ARN của virus lạ,
từ đó không thể có quá trình tổng hợp AND hay protein. Bởi vậy mà virus lạ
có thể xâm nhập vào tế bào nhưng không phát triển nhân lên được. Cường
độ của hiện tượng này phụ thuộc vào số lượng virus gây nhiễm lần thứ 1 và
thời gian từ lúc đó đến lúc gây nhiễm lần thứ 2, thường khoảng 2 giờ thì có
tác dụng.
Người ta đã ứng dụng hiện tượng Interference trong việc phòng
chống bệnh do virus gây nên. Chất Interferon có thể ức chế rộng rãi nhiều
loại virus khác nhau vì nó không có tính đặc hiệu đối với virus mà chỉ có
tính đặc hiệu đối với tế bào chủ.
V. Virut và bệnh tật
Virut là dạng sống vô bào gây nhiều loại bệnh trên mọi đối tượng sinh
vât( từ vi sinh cho đến các động vật bậc cao cấp) là tác nhân gây hơn 500
loại bệnh trên cơ thể người, động vật và hơn 600 bệnh hiện biết trên thực
vật. Từ năm 1971, người ta còn lien tiếp phát hiện ra các tác nhân gây bệnh
có cấu trúc đơn giản hơn cả virut: đó chính là viriot (virino), prion) và
virutoit. Ngày nay khi các bệnh dịch virut đã được đẩy lùi, thì các bệnh virut
khác lại đang là nguy cơ đe doạ tính mạng của toàn nhân loại:ví dụ virut
ebola gây bệnh sốt xuất huyết ác tính ở châu phi, virut gây bệnh viêm phổi
cấp( SARS),, virut cúm gia cầm các tính(H5N1), virut B gây viêm gan, virut
gây ung thư và virut HIV gây đại AIDS.
V.1 Sự lan truyền virut
Bệnh virut có thể lan truyền theo hai cơ chế chính:
+Sự lan truyền dọc( lan truyền di truyền): các tế bào bố
mẹ nhiễm virut ở dạng tiền sinh truyền cho con cháu từ thế hệ này sang thế
hệ khác. Ví dụ các virut thuộc retro, virut gây AIDS, virut rubella.

(Togaviridae)
+Lan truyền ngang ) lan truyền tiếp xúc: bao gồm một số
con đường chính sau:
- Qua đường hô hấp: qua không khí bẩn chức
virut gây bệnh, ví dụ như viirut cúm, quai bi, sởi, đậu mùa….
- Qua đường tiêu hoá( qua thức ăn và nước uống
bị nhiễm) ,ví dụ như virut bại liệt(poliomyelite),virut viêm gan
A( piconaviridae)
- Qua đường sinh duc và tiết niệu:HIV, HIV…
- Lan truyền do vật trung gin như muỗi, bọ chét,
chấy rận….ví dụ các virut gây bệnh sốt vàng da, viêm não, sót vẹt, sốt xuất
huyết…
- Lan truyền qua vêt cắn;
virut dại(Rhabdoviridae)
-Lan truyền đường truyền
máu: HIV ,HBV…
V.2. Virut và bệnh ung thư
Ung thư là căn bệnh nang y nhất hiện nay. Người ta biết rắng
nguyên nhân chủ yếu gây bệnh ung thư là do thức ăn và môi trường
sống( 30%-60% ). Virut chỉ là nguyên nhân của một phần nhỏ các khối u ác
tính( chiếm khoảng 5%). Cho đến nay người ta cho rằng có ít nhất 4 loại
virut có lien quan chặt chẽ đến sự tiến triển của ung thư. Đó là:
+Virut Epstein (EBV) là virut gây bệnh ung thư được
nghiên cứu lĩ nhất. chúng gây bệnh máu trắng (ung thư máu dạng
burkit),ung thư vòm họng, ung thư vùng bụng,ung thư hàm
+Virut gây viêm gan B(HBV) cũng đã
được chứng minh chắc chắn lien quan đến ung thư gan.
+Virut Papilona gây ung thư cổ tử cung ở
người
+Ít nhất có một loài retro virut gây bệnh

ung thư tế bào limpho ở người
V.3.Virit HIV và hội chứng suy giãm miễn dịch
V.3.1 sơ lược về HIV
HIV (tiếng Anh: human immunodeficiency virus, có nghĩa virus suy
giảm miễn dịch ở người) là một lentivirus (thuộc họ retrovirus) có khả năng
gây hội chứng suy giảm miễn dịch mắc phải (AIDS), một hội chứng hệ miễn
dịch trong cơ thể con người bắt đầu bị hỏng, dẫn đến những nhiễm trùng cơ
hội có thể làm chết người.
Retrovirus là một họ virus phổ biến ở các loài động vật và ít phổ biến
hơn ở người. Họ virus này có dạng hình cầu, bên ngoài có vỏ lớp pepton và
Virus bệnh dại
Virus viêm gan B
bên trong có vỏ capsid, di truyền ARN. Vì
vậy dòng di truyền của nó là dòng di
truyền ngược chiều từ ARN sang ADN
chứ không phải thuận chiều ADN sang
ARN. ARN của virus được phân mã thành
ADN nhờ một enzim đặc biệt là một
enzim phiên mã ngược. ADN của virus di
truyền vào trong nhân và lồng ghép với
ADN của tế bào bị nhiễm trở thành ADN
tiền virus, tồn tại ở đó một cách thầm
lặng. Khi tế bào bị nhiễm phân chia, ADN tiền virus cũng được chuyển cho
tế bào con. ADN tiền virus có thể sản sinh ra các protein virus, tổng hợp các
proten đó và hình thành các virus mới. Các virus mới này phá huỷ các tế bảo
mẹ và gây nhiễm HIV cho các tế bào lân cận và có thể tiếp tục nhân lên.
V.3.2Cấu trúc HIV:
Bao ngoài là một lớp màng lipid kép, dưới màng có gai là các
glycoprotein trọng lượng phân tử 120 kilođanton (KD) ký hiệu là gp120 hay
còn gọi là Protein màng ngoài. Xuyên qua các lớp lipid kép là các lớp

glycoprotein gp41 (Protein xuyên màng) gp120 và gp41 gắn với nhau tạo
thành các phân tử gp160.
Vỏ Protein: có dạng hình cầu gồm các phân tử Protein có trọng lượng
phân tử 18KD, p18.
Lõi: có dạng hình trụ được bao bọc bằng một lớp protein p24. Trong lõi
có hai sợi ARN đơn, có enzym phiên mã ngược và một số phân tử protein
phân tử lượng nhỏ. Trong mỗi sợi ARN
của Virus này có 3 gen cấu trúc là gen
GAG- gen mã hoá cho các protein
trong của Virus; gen pol mã hoá cho
các enzyme phiên mã ngược và gen env
mã hoá cho protein bao ngoài của Virus
gp120.

V.3.3 Các biểu hiện lâm sàng
của nhiễm trùng HIV được chia theo 4 giai đoạn:
1. Nhiễm trùng cấp (còn gọi là sơ nhiễm hay nói cách khác là thời kỳ
cửa sổ)
Trong 2-8 tuần sau khi nhiễm HIV, bất kỳ qua con đường nào, 20% bệnh
nhân có biểu hiện của một nhiễm trùng cấp với sốt (38-40 độ C), đau cơ, đau
khớp, vã mồ hôi, mệt mỏi, chán ăn, nôn ói, tiêu chảy, viêm họng, phát ban
đỏ ngoài da (xuất hiện ở 50% bệnh nhân), hạch to, lách to. Một số bệnh nhân
có biểu hiện thần kinh như viêm não, viêm màng não, viêm dây thần kinh
ngoại biên… Các triệu chứng này hiện diện trong vòng 5-10 ngày và tự khỏi
hoàn toàn. Còn lại, hầu hết những người nhiễm HIV không có biểu hiện gì
khi mới nhiễm.
Trong giai đoạn này, chỉ mới có sự hiện diện của kháng nguyên tức virus
HIV trong máu. Phải chờ 2-12 tuần sau kháng thể mới xuất hiện và lúc này
mới có thể xác định được bằng các thử nghiệm xác định nhiễm HIV thông
thường (huyết thanh chẩn đoán). Đây là giai đoạn đặc biệt dễ lây do bệnh

nhân không biết mình nhiễm bệnh.
2. Nhiễm trùng không triệu chứng
Sau thời kỳ nhiễm trùng cấp, bệnh nhân nhiễm HIV rơi vào giai đoạn dài
không triệu chứng lâm sàng, nhưng chẩn đoán huyết thanh lại khá dễ dàng,
dựa vào sự hiện diện của kháng thể chống HIV. Tức là trong giai đoạn này
bệnh nhân sẽ có kết quả chính xác sau khi làm xét nghiệm máu để tìm kháng
thể chống virus HIV. Sở dĩ, chúng ta phải làm xét nghiệm tìm kháng thể là
vì việc xét nghiệm tìm kháng nguyên (phát hiện virus HIV) đòi hỏi phải có
điều kiện cơ sở vật chất và trang thiết bị cao cấp. Trong khi đó, tình trạng
ngân sách của chúng ta thì chưa thể đáp ứng được.
3. Hội chứng hạch to toàn thân và kéo dài
Sau khi huyết thanh dương tính, 50-70% trường hợp xuất hiện hội chứng
Cấu tạo của virus
hạch to toàn thân và kéo dài. Hội chứng này được chẩn đoán khi có đủ các
điều kiện sau:
- Có ít nhất 2 hạch khác nhau (không kể hạch bẹn).
- Mỗi hạch thường có đường kính trên 1 cm.
- Hiện diện kéo dài trên 1 tháng
-Không giải thích được lý do nổi hạch.
Hay gặp nhất là hạch cổ, rồi đến hạch dưới hàm, hạch nách. Một số hạch ít
gặp hơn là hạch ở khuỷu tay, trung thất (trong lồng ngực), và trong ổ bụng.
4. Biểu hiện lâm sàng thực sự của AIDS
Khi bệnh nhân được chẩn đoán là AIDS nghĩa là đã mắc các bệnh nhiễm
trùng cơ hội từ bên ngoài hay nói cách khác là do HIV đã đến giai đoạn cuối
cùng. Thời gian từ lúc bệnh nhân được xác định là AIDS đến lúc chết
thường không quá 2 năm, trung bình là 18 tháng. Riêng đối với trẻ em, thời
gian này thường ngắn hơn, khoảng 10-12 tháng. Biểu hiện lâm sàng chính
thường là nhiễm trùng cơ hội hoặc ung thư. Phần lớn là bệnh nhân mắc các
bệnh lao đặc biệt là lao phổi, các bệnh đường tiêu hoá, bệnh liên quan đến
dây thần kinh và các nhiễm trùng ngoài da. Tuy nhiên, nếu được chăm sóc

tốt, người bệnh có thể sống hoàn toàn khoẻ mạnh trong vòng 15-17 năm kể
từ khi nhiễm HIV đến khi có biểu hiện của AIDS. Ngày nay, với các tiến bộ
trong thuốc điều trị, thời gian này còn khả quan hơn nhiều. Tuy nhiên, thử
thách lớn nhất hiện tại là thuốc điều trị vẫn còn quá đắt và cũng thường
không sẵn có.
V.3.4 Đường truyền HIV và cách phòng tránh
HIV lây truyền qua ba con đường: Tình dục, đường máu và mẹ
truyền sang con (Lúc mang thai, khi sinh hoặc khi cho con bú).
• Tình dục
Virus HIV có rất nhiều trong máu, trong các chất dịch sinh dục. Do vậy,
virus có thể xâm nhập vào máu bạn tình qua cơ quan sinh dục. Việc sinh
hoạt tình dục, dù có giao hợp hay chỉ tiếp xúc cơ quan sinh dục, đều dẫn đến
nguy cơ lây nhiễm.
• Đường máu
HIV có nhiều ở trong máu. Bơm kim tiêm dùng xong mà không tiệt trùng,
hoặc tiệt trùng không tốt thì vẫn còn đọng máu (dù có thể không nhìn thấy).
Do đó, nếu dùng chung bơm kim tiêm với một người mang HIV, bạn có thể
nhiễm HIV. Nếu bạn mang HIV, bạn có thể truyền cho người khác theo
đường ấy.
• Từ mẹ truyền sang con
Cứ một trăm phụ nữ nhiễm HIV sinh con thì khoảng 25-30 trẻ bị nhiễm.
HIV có thể lây sang bé qua rau thai khi bé ở trong bụng mẹ, qua máu và chất
dịch của mẹ khi sinh, hoặc qua sữa mẹ khi mẹ cho con bú. Trẻ sơ sinh nhiễm
HIV thường không sống được quá ba năm.
V.3.4 SARS . HỘI CHỨNG HÔ HẤP CẤP
-Hội chứng hô hấp cấp tính nặng (SARS), là bệnh
đường hô hấp gây viêm phổi không điển hình ở những
người bị nhiễm.
-Viêm phổi không điển hình gây sưng và suy yếu
phế nang, làm giảm cung cấp máu tại chỗ cũng như ức chế

vận chuyển oxy.
Mặc dù nguyên nhân chưa được xác định, song các
nhà khoa học cho rằng bệnh do virut mới thuộc họ coronavirus gây ra. Cầy
hương được coi là thủ phạm truyền virut SARS. Cũng có ý kiến cho rằng
virut bắt
nguồn từ động vật, nhưng dường như nó không có gì giống với các virut đã
thấy ở trên người và động vật.
1. Virut đi vào cơ thể qua miệng, mũi và
mắt.
2. Virut đến phế nang hay là các túi ở trong
phổi
3. Khi bị tấn công, phế nang bị sưng lên và
suy yếu, làm giảm cung cấp máu và vận chuyển
oxy.
Các coronavirus là nhóm các virut thường gây ra
các bệnh đường hô hấp trên ở mức độ nhẹ và vừa cho người và có liên
quan đến các bệnh thần kinh, gan, tiêu hóa và hô hấp trên động vật.
Virus sars
Con cầy hương
Trong khi, ngày càng nhiều các chứng cớ rằng virut là nguyên nhân ban
đầu, vẫn còn rất nhiều công việc xét nghiệm để tìm ra các đặc điểm chính
xác của nó.
*Các triệu chứng:
Các triệu chứng chính gồm:
- Sốt cao trên 38 ° C
- Ho, thở nông, khó thở, đau đầu hoặc đau họng và
- Ði đến những khu vực có các ca bệnh SARS trong vòng 10 ngày gần đây
hoặc
- Tiếp xúc trực tiếp trong vòng 10 ngày gần đây với những người có những
triệu chứng trên và đã đi đến khu vực bị ảnh hưởng.

Nếu có một trong các vấn đề trên, cần đi khám bệnh ngay lập tức. Ðể giúp
các bác sĩ, bạn cần kể về việc đi lại gần đây của bạn và những người mà
bạn đã tiếp xúc gần đây.
*Lây nhiễm:
- Virut có thể lây lan qua dịch hô hấp do hắt hơi
- Vi rút cũng có thể lây lan gián tiếp như tiếp xúc với những đồ vật có dính
dịch bài tiết của cơ thể chứa vi rút như điện thoại, tay xoay cửa bị nhiễm vi
rút. Bởi vì vi rút có thể sống từ 3-6 giờ ở ngoài cơ thể người.
- Bệnh có thể được lây truyền qua không khí.
- Vi rút tồn tại trong phân (và nước tiểu) ở nhiệt độ phòng trong ít nhất 1-2
ngày, thậm chí tới 4 ngày.
- Vi rút mất hoạt tính gây nhiễm sau khi tiếp xúc với các chất tiệt khuẩn và
có thể bị chết ở 56 ° C.
*Tự phòng:
Tránh đi đến các khu vực bị ảnh hưởng.
- Tránh tiếp xúc trực tiếp với bệnh nhân SARS.
- Thực hiện vệ sinh cá nhân:
+ Ðeo khẩu trang có phần mềm để tiện cho việc hắt hơi.
+ Rửa tay nếu bạn tiếp xúc với dịch hô hấp (sau hắt hơi chẳng hạn).
+ Rửa tay trước khi phải đụng, sờ lên mắt hoặc miệng của bạn.
+ Thường xuyên vệ sinh nơi ở, bếp và nhà vệ sinh.
* Sự nguy hiểm:
virus cúm gia cầm
Virus cúm
Tỷ lệ tử vong khoảng
3-5%. Có tài liệu cho rằng có thể lên đến 10%, đặc biệt là ở những người
cao tuổi. Những người bị nhiễm xảy ra viêm phổi có thể gây nhiều biến
chứng. Thể trạng suy sụp rất nhanh, trong vòng vài ngày.
*Điều trị :
Hiện chưa có thuốc điều trị đặc hiệu, nhưng các bác sĩ đang chữa trị bệnh

bằng các thuốc kháng vi rút và steroid. Nếu điều trị sớm, phần lớn bệnh
nhân không mắc các bệnh khác, có thề hồi phục.
V.3.5 VIRUT CÚM VÀ DỊCH CÚM GIA CẦM
Virus cúm thuộc chi Cúm (gồm cúm A, B và C), họ
Orthomyxoviridae, là những virus có genome là RNA đối mã (negative-
sense RNA) gồm nhiều đoạn (multipartite). Virus cúm thường có hình cầu,
với đường kính từ 90 đến 100 nm. Genome của nó là tám đoạn RNA mã hóa
cho nhiều loại protein khác nhau, trong đó có các protein của enzyme phiên
mã trên khuôn RNA (RNA dependent transcriptase) cần thiết cho sự sao
chép của loại virus RNA đối mã trong tế bào. Virus cúm sau khi đi vào tế
bào sẽ đi vào nhân để sử dụng bộ máy phiên mã của nhân cho việc tạo ra các
RNA virus mang mã bởi virus cúm không có khả năng “đóng nắp” (capping)
ở đầu 5’.
Virus cúm được bao bọc bởi một lớp lipid kép có nguồn gốc từ tế bào
vật chủ khi nó bứt ra khỏi tế bào. Trên lớp màng này nhô ra các glycoprotein
thuộc hai nhóm chính là Hemagglutinin (HA) và Neuraminidase (NA). Vai
trò của HA là giúp virus gắn vào thụ thể trên tế bào vật chủ để kích thích tế
bào vật chủ “nuốt” virus vào trong (endocytosis) còn vai trò của NA thì
không rõ ràng lắm, có lẽ nó giúp virus bứt ra khỏi tế bào vật chủ bằng cách
cắt sialic acid khỏi các glycoprotein của virus và tế bào vật chủ. Bên trong
lớp vỏ lipid kép là lớp protein nền bao quanh vỏ nhân (nucleocapsid). Các
loại cúm A, B và C khác nhau về số lượng các đoạn RNA cũng như cấu trúc
của protein nền và protein nhân.
Cúm A là loại gây ra các đại dịch cho con người và vật nuôi nhiều
nhất. Sự khác nhau giữa cấu trúc của HA và NA của các chủng virus cúm
khác nhau được sử dụng để phân loại chúng. Ví dụ chúng ta có các chủng
virus cúm từng gây đại dịch cho người như H0N1, H1N1, H2N2, H3N2…
H7N7, H5N1. Điều đáng chú ý là đại dịch cúm thường lặp lại có tính chu
kỳ, nhiều khi do cùng một chủng virus cúm gây ra. Ví dụ chủng H1N1 gây
ra 3 đại dịch ở các năm 1947, 1977, 1986 và 1995.

Cúm B : HA ít thay đối thường chỉ gặp trên người.
Cúm C: it gặp và thường chỉ gặp trên người .
VI. PHÂN LOẠI VIRUT
1. Dựa vào cơ thể bị bệnh do virut
Virut thực vật (phytophagineae).
Virut động vật (zoophagineae).
Virut vi khuẩn (phagineae).
Virut côn trùng.
2. Dựa vào tính chất dịch tễ và tính chất lâm sàng của bệnh.
Bệnh do virut đường hô hấp.
Bệnh do virut đường ruột.
Bệnh do virut hướng bì.
Bệnh do virut hướng thấn kinh.
Bệnh do virut hướng nội tạng.
3. Dựa vào cấu trúc và đặc điểm sinh học.
Họ virut Kiểu đối
xứng của
virion
Đường
kính của
virion
Vỏ bọc
của
virion
Dạng và cấu trúc
của axt nucleic
Vị trí
nhân lên
của virut
trong tế

bào
Pravoviridae
Parovirus
Densovirus
Adeno_assovirus
Papovaviridae
Papillomavirus
Polimavirus
Adenoviridae
Mastadenovirus
Aviadenovirue
Iridoviridae
Iridovirus
Khối
Khối
Khối
Khối
18-26
44-55
55
45
70-90
130-300
Không
Không
Không

AND sợi đơn
AND
Sợi kép

AND
sợi kép
AND
sợi kép
Nhân
Nhân
Nhân
Nhân
Nguyên
sinh chat
Herpesvisudae
Herpervirus
Poxviridae
Orthopoxvirus
Avipoxvirus
Capripoxvirus
Leporixvirus
Parapoxvirus
Entomopoxvirus
Picornaviridae
Enterivirus
Rhinovirus
Calicivirus
Reoviridae
Reovirus
Orbivirus
Togaviridae
Alphavirus
Flavivirus
Ribivirus

Pestivirus
Orthomyxoviridae
Inluuenzavirus
Paramyxoviridae
Paramyxovirus
Morbillivirus
Retrovoridae
Onornamavirinae
Lentivirinae
Spumavirinae
Rhabdoviridae
Vesiculovirus
Lyssavirus
Sigmavirus
Bunyavirudae
Bunyavirus
Arenavirudae
Arenavirus
Coronviridae
coronavirus
Khối
Phức
tạp
Khối
Khối
Khối
Trụ
Khối
Trụ
120-150

300-450
170_260
20-30
35-40
60-80
40-70
80-120
150
100
130-300
90-100
50-500
100


Vỏ phức
tạp
không
không






AND
sợi kép
AND
sợi kép
ARN

Sợi đơn
ARn sợi kép
ARN sợi đơn
ARN
sợi đơn
ARN
sợi đơn
ARN
sới đơn
ARN
sợi đơn
ARN
sợi đơn
ARn
sợi đơn
ARn
nhân
nguyên
sinh chất
nguyên
sinh chất
nguyên
sinh chất
nguyên
sinh chất
nguyên
sinh chất
nguyên
sinh chất
nguyên

sinh chất
nguyên
sinh chất
nguyên
sinh chất
nguyên
sinh chất
nguyên
sợi đơn sinh chất
CHƯƠNG IV
SINH LÍ HỌC VI SINH VẬT
4.1 DINH DƯỠNG CỦA VI SINH VẬT
Các chất dinh dưỡng đối với vi sinh vật là bất kỳ chất nào được vi
sinh vật hấp thụ từ môi trường xung quanh và được chúng sử dụng làm
nguyên liệu để cung cấp cho quá trình sinh tổng hợp tạo ra các thành phần
của tế bào hoặc để cung cấp cho quá trình trao đổi năng lượng.
Quá trình hấp thụ các chất dinh dưỡng để thoả mãn mọi nhu cầu sinh
trưởng và phát triển được gọi là quá trình dinh dưỡng. Chất dinh dưỡng phải
là những hợp chất có tham gia vào các quá trình trao đổi chất nội bào.
Thành phần hoá học của tế bào vi sinh vật quyết định nhu cầu dinh
dưỡng của chúng. Thành phần hoá học của các chất dinh dưỡng được cấu
tạo từ các nguyên tố C, H, O, N, các nguyên tố khoáng đa và vi lượng.
Lượng các nguyên tố chứa ở các vi sinh vật khác nhau là không giống nhau.
Trong các điều kiện nuôi cấy khác nhau, tương ứng với các giai đoạn phát
triển khác nhau, lượng các nguyên tố chứa trong cùng một loài vi sinh vật
cũng không giống nhau. Trong tế bào vi sinh vật các hợp chất được phân
thành hai nhóm lớn: (1) nước và các muối khoáng; (2) các chất hữu cơ.
90 % khối÷Nước và muối khoáng. Nước chiếm đến 70 lượng cơ thể vi sinh
vật. Phần nước có thể tham gia vào quá trình trao đổi chất của vi sinh vật
được gọi là nước tự do. Đa phần nước trong vi sinh vật đều ở dạng nước tự

do. Nước kết hợp là phần nước liên kết với các hợp chất hữu cơ cao phân tử
trong tế bào. Nước liên kết mất khả năng hoà tan và lưu động.
5 % khối lượng khô của÷Muối khoáng chiếm khoảng 2 tế bào. Chúng
thường tồn tại dưới các dạng muối sunfat, phosphat, cacbonat, clorua Trong
tế bào chúng thường ở dạng các ion. Các ion trong tế bào vi sinh vật luôn
luôn tồn tại ở những tỷ lệ nhất định, nhằm duy trì độ pH và áp suất thẩm
thấu thích hợp cho từng loại vi sinh vật.
Chất hứu cơ trong tế bào vi sinh vật chủ yếu được cấu tạo bởi các nguyên tố:
C, H, O, N, P, S Riêng các nguyên tố C, H, O, N chiếm 97% toàn bộ chất
khô của tế bào. Đó là các nguyên tố chủ yếu cấu tạo÷tới 90 nên protein, axit
nucleic, lipit, hydrat- cacbon. Trong tế bào vi khuẩn các hợp chất đại phân tử
chỉ chiếm 3,5% , còn các ion vô cơ chỉ có 1%.
Vitamin cũng có sự khác nhau rất lớn về nhu cầu của vi sinh vật. Có những
vi sinh vật tự dưỡng chất sinh trưởng, chúng có thể tự tổng hợp ra các
vitamin cần thiết. Nhưng cũng có nhiều vi sinh vật dị dưỡng chất sinh
trưởng, chúng đòi hỏi phải cung cấp nhiều loại vitamin khác nhau với liều
lượng khác nhau.
4.1.1 Nguồn thức ăn cacbon của vi sinh vật
Căn cứ vào nguồn thức ăn cacbon người ta chia sinh vật thành các nhóm
sinh lý tự dưỡng và dị dưỡng. Tuỳ nhóm vi sinh vật mà nguồn cácbon được
cung cấp có thể là các chất vô cơ (CO2, NaHCO3, CaCO3 ) hoặc chất hữu
cơ. Giá trị dinh dưỡng và khả năng hấp thụ các nguồn thức ăn khác nhau phụ
thuộc vào hai yếu tố: một là thành phần hoá học và tính chất sinh lý của
nguồn thức ăn này, hai là đặc điểm sinh lý của từng loại vi sinh vật.
Thường sử dụng đường làm nguồn cacbon khi nuôi cấy phần lớn các vi sinh
vật dị dưỡng.
Trong các môi trường chứa tinh bột trước hết phải 700C, sau đó đun sôi rồi
mới đưa đi÷tiến hành hồ hoá tinh bột ở nhiệt độ 60 khử trùng.
Xenluloza được đưa vào các môi trường nuôi cấy vi sinh vật phân giải
xenluloza dưới dạng giấy lọc, bông hoặc các dạng xenluloza .

Khi sử dụng lipit, parafin, dầu mỏ làm nguồn cácbon nuôi cấy một số loài
vi sinh vật, phải thông khí mạnh để tạo từng giọt nhỏ để có thể tiếp xúc được
với thành tế bào của vi sinh vật.
Các hợp chất hữu cơ chứa cả C và N (pepton, nước thịt, nước chiết ngô,
nước chiết nấm men, nước chiết đại mạch, nước chiết giá đậu ) có thể sử
dụng vừa làm nguồn C vừa làm nguồn N đối với vi sinh vật.
Trong công nghiệp lên men, rỉ đường là nguồn cacbon rẻ tiền và rất thích
hợp cho sự phát triển của nhiều loại vi sinh vật khác nhau.
Nguồn C (Carbon sources)
- Tự dưỡng (autotroph) CO
2
là nguồn C duy nhất hay chủ
yếu
- Dị dưỡng (heterotroph) Nguồn C là chất hữu cơ
Nguồn năng lượng
- Dinh dưỡng quang năng
(phototroph)
Nguồn năng lượng là ánh sáng
- Dinh dưỡng hoá năng (chemotroph) Nguồn năng lượng là năng lượng hoá
học giải phóng ra từ sự oxi hoá hợp
chất hữu cơ
Nguồn điện tử
- Dinh dưỡng vô cơ (lithotroph) Dùng các phân tử vô cơ dạng khử để
cung cấp điện tử
- Dinh dưỡng hữu cơ (organotroph) Dùng các phân tử hữu cơ dạng khử
để cung cấp điên tử
Loại hình dinh dưỡng
Nguồn năng lượng,
Hydrogene,
điện tử, carbon

Đại diện
- Tự dưỡng quang năng vô cơ
(photolithoautotrophy)
Quang năng; H2,
H2S, S hoặc
H2O; CO2
Vi khuẩn sulfur,
màu tím, màu
lục, vi khuẩn
lam
- Dị dưỡng quang năng hữu

(photoorganoheterotro
phy)
Quang năng; chất
hữu cơ
Vi khuẩn phi lưu
huỳnh màu tía,
màu lục

×