Tải bản đầy đủ (.doc) (39 trang)

Tạo ảnh ảo không gian ba chiều với magic 3D pdf

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.06 MB, 39 trang )

Tạo ảnh ảo không gian ba chiều với
Magic 3D - 22/12/2006 8h:38
Tập nhìn các ảnh ảo không gian ba chiều là một
hoạt động thể dục cho mắt khá thú vị. Bạn vừa có thể rèn
luyện các cơ mắt lại vừa “xả hơi” khi làm việc căng
thẳng.
Nếu như trước đây bạn vẫn quen nhìn ảnh ảo không gian ba
chiều trên các sách báo thì giờ đây bạn có thể tự tạo ra và
nhìn chúng ngay trên máy tính của mình. Phần mềm Magic 3D sẽ giúp bạn tạo các ảnh ảo không gian
ba chiều một cách dễ dàng và đơn giản. Cách làm như sau:
- Từ giao diện chương trình, nhấn Load Depth để tạo ảnh chiều sâu (ảnh ảo ẩn sau ảnh bề mặt). Mặc
định, chương trình cung cấp sẵn cho bạn 19 ảnh. Tuy nhiên, bạn có thể chọn những bức ảnh riêng của
mình nhưng hình ảnh phải thật rõ ràng, cụ thể. Chương trình hỗ trợ các định dạng ảnh: *.gif, *.jpeg,
*.png, *.bmp, *.tif, *.psd…
- Thay đổi ảnh được chọn, bạn có thể đảo sang dạng âm bản hay xoay ảnh.
- Trong khung Storeogram type, bạn chọn một trong ba loại ảnh bề mặt: ảnh do bạn tự chọn (Texture
Picture); ảnh ngẫu nhiên (Random Dots) đen trắng hoặc màu sắc. Trong khung Stereogram Size &
Resolution, chọn kích thước và độ phân giải cho bức ảnh. Nếu chỉ sử dụng ảnh trên máy tính, bạn nên
chọn độ phân giải 70.
- Nhấn Create để tạo ảnh ảo 3D hoàn chỉnh. Bây giờ bạn đã có thể trổ tài nhìn ảnh ảo 3D của mình rồi
đấy. Bạn có thể đem in trực tiếp hoặc xuất thành file ảnh (dạng *.jpg hoặc *.bmp).
Magic 3D có dung lượng 1,99 MB, tương thích mọi Windows, tải bản dùng thử tại đây
Chuyển tệp PDF sang dạng Word
Chương trình PDF Text Reader được xây dựng để thay đổi file PDF sang dạng văn bản text một cách
thuận tiện. Điểm đặc biệt là phần mềm được tải hoàn toàn miễn phí và không giới hạn thời gian sử dụng.
Quá trình chuyển đổi diễn ra tương đối nhanh chóng với giao diện thân thiện. PDF Text
Reader cũng hỗ trợ in văn bản, sao chép sang clipboard, tuỳ chọn trang chuyển đổi,
cũng như có khả năng hoạt động độc lập với Adobe và Acrobat.
VnExpress cũng đã giới thiệu hai công cụ chuyển file PDF sang Word với thời hạn dùng
thử 15 ngày nhưng chỉ có khả năng chuyển đổi 10% văn bản là ScanSoft PDF Converter
và Solid Converter PDF.


PDF Text Reader, tương thích Windows 98/ME/2000/XP và 2003 Server, kích thước
3,25 MB, có thể tải tại đây.
Tự đưa ảnh lên màn hình khởi động Windows
Nếu thấy chán khi nhìn màn hình xanh khởi động của hệ điều hành, bạn có thể tự chế một hình ảnh vui
nhộn hơn để thay thế. Kết hợp Photoshop với chương trình BootSkin sẽ giúp dân mê máy tính dễ thực
hiện công việc hơn.
Trước hết, vào đây để tải chương trình BootSkin của Stardock với dung lượng 943 KB.
Sau khi tải về, người dùng sẽ thấy 2 tập tin là bootskin_free và skinstudio_free. Bạn có
thể cài đặt cả hai chương trình này nhưng cần nhất là bootskin_free (thư mục mặc định
là C:\Program Files\Stardock\WinCusstomize\BootSkin).
Khi mở Bootskin, bạn sẽ thấy các file sẵn có để cài làm hình nền lúc khởi động
Windows (chọn ảnh rồi nhấn Apply).
Một trong số hình nền khởi động Windows do chương trình này
tạo ra. Ảnh chụp màn hình.
Tuy nhiên, tự tạo ra ảnh nền như vậy mất một chút thời gian và công sức. Do Bootskin
mới hỗ trợ được ảnh 16 màu nên bạn cần chọn hình gốc tương ứng để đảm bảo chất
lượng hiển thị (ví dụ như ảnh đen trắng hay có một vài màu, tranh hoạt hình ). Ảnh sẽ
có độ phân giải khác nhau như 640 x 480; 800 x 600; 1024 x 768; 1280 x 960 hay 1600
x 1200. Ví dụ trong bài này sẽ dùng ảnh hoạt hình 640 x 480 16 màu làm nền với thanh
chạy khi tải Windows.
Chuẩn bị ảnh nền
- Khởi động Photoshop, lấy ảnh cần dùng. Bạn có thể biên tập ảnh tùy ý như chèn chữ,
đổi màu
- Vào menu Image > Image Size. Một cửa sổ xuất hiện, nhập kích cỡ ảnh vào ô width
(640) và height (480) hoặc đánh dấu chọn vào ô Scale Styles và Constrain Proportions.
Nên chọn Resample Image với mặc định là Bicubic. Xong, nhấn OK.
- Vào menu Image > Mode > Indexed Color > để lựa chọn Local (Selective) ở mục
Palette, nhập 16 vào ô Colors, Black and White ở mục Forced, bỏ dấu chọn ở ô
Transparency và đặt khoảng 85% ở mục Amount (chú ý không chọn Preserve Exact
Colors) . Đánh dấu chọn ở Preview > OK.

- Lưu bảng màu của hình để đưa vào thanh chạy sau này. Vào menu Image > Mode >
Color Table. Một bảng nhỏ hiện ra, nhấn vào OK để lưu bảng màu này tại một thư mục
nào đó.
- Lưu ảnh nền. Vào menu File > Save as > chọn định dạng .bmp (file bitmap) và lưu vào
một thư mục (có thể ngay trong BootSkin\skins) > OK. Sau đó, một bảng nhỏ hiện ra,
chọn mục 4-bit (16 màu).
Tạo thanh chạy
- Trong Photoshop, tạo một ảnh trắng có kích thước 22 x 9 pixel. Dùng Paint Bucket
Tools để đổ màu đen cho thanh này. Vào Image > Mode > Indexed Color để đặt hình
này ở chế độ 16 màu. Mục Colors để số 3, Black and White ở Forced, chọn
Transparency, Preserve Exact Colors và Preview > OK.
- Tạo ô chạy trên thanh ngang này với màu khá giống với màu hình nền. Vào Image >
Mode > Color Table (bảng này chỉ có vài màu) > Load > mở đến file bảng màu đã lưu
khi tạo hình nền. Chọn màu mà hình nền có nhiều nhất (có thể mở file hình nền để
ngắm lại).
- Lưu file này vào cùng thư mục với hình nền. Trên menu File > Save as > chọn định
dạng .bmp > OK > chọn 4 bit > OK.
Viết mã khởi động
- Bạn có thể copy một file bootskin.ini vào thư mục vừa tạo rồi chỉnh sửa hoặc mở
Notepad rồi biên tập lại các câu lệnh sau:
[Bootskin]
Type=0 (để mặc định)
Name= "" (ở giữa hai dấu ngoặc kép viết tên của ảnh nền khi khởi động - tùy ý)
Author= "" (ở giữa hai dấu ngoặc kép viết tên tác giả tạo file - tùy ý)
Description="" (ở giữa hai dấu ngoặc kép viết mô tả cho file - tùy ý)
Screen=(viết chính xác tên ảnh nền với đuôi .bmp)
ProgressBar=(viết chính xác tên file thanh chạy với đuôi .bmp)
ProgressBarX=(viết con số thể hiện tọa độ nằm ngang, trong đó 0 là góc phải trên cùng
của ảnh, càng về bên trái, giá trị càng tăng)
ProgressBarY=(viết con số thể hiện tọa độ nằm dọc, trong đó 0 là góc phải trên cùng

của ảnh, càng xuống phía dưới, giá trị càng tăng)
ProgressBarWidth =(viết số pixel thể hiện độ rộng của ảnh chạy trên thanh ngang).
Sau đó lưu lại file này với tên bootskin.ini.
Một số hình nền tạo mới để đưa lên BootSkin. Ảnh chụp màn hình.
Cài đặt
- Khi tạo xong thư mục mới ở trong BootSkin\skins với các file trên mà không trục trặc
gì, hình và các mô tả của file sẽ xuất hiện ngay trên chương trình BootSkin.
- Nếu không, người dùng có thể dùng chương trình WinZip để nén cả thư mục chứa 3
file ảnh nền, ảnh thanh chạy và tập tin bootskin.ini rồi đổi tên thư mục vừa nén với
đuôi .zip thành đuôi .bootskin. Chỉ cần nhấn đúp chuột vào thư mục mới, bạn có thể cài
ảnh nền này khi khởi động.
Chú ý
Khi không cảm thấy chắc chắn về các quy trình tạo file, bạn có thể copy nguyên những
tập tin ảnh và code có sẵn ra thư mục mới rồi chỉnh sửa./.
Tìm hiểu bo mạch chủ (1)
Bo mạch chủ (mainboard) là một bảng gồm những mạch điện tử có gắn vi xử lý, bộ nhớ, khe cắm mở
rộng, cổng bus… để kết nối trực tiếp hoặc gián tiếp tới mọi phần của máy tính. 25 năm đã trôi qua kể từ
khi bo mạch chủ PC ra đời, dù diện mạo đổi thay nhiều nhưng chức năng vẫn như ban đầu.
Sự cải tiến của bo mạch chủ
Máy tính nguyên thủy có rất ít thiết bị tích hợp. Chúng chỉ có các cổng, bàn phím và
hộp băng lưu trữ. Thiết bị điều hợp màn hình hay điều khiển ổ mềm, ổ cứng đều được
kết nối qua khe cắm mở rộng.
Đây là mặt trước và mặt sau của mẫu bo mạch
chủ IBM dành cho PC đầu tiên vào năm 1981.
Các chip được nối với nhau như một cái lưới.
Ảnh: International Business Machines
Corporation.
Về sau, có nhiều thiết bị hơn được tích hợp vào bo mạch chủ. Dù vậy, quá trình này
cũng khá lâu dài, ví dụ cổng I/O (nối cáp đầu vào/đầu ra) hay thiết bị điều khiển đĩa
thường được kết nối bằng thẻ mở rộng cho đến năm 1995. Nhiều thiết bị khác liên quan

đến đồ họa, mạng, âm thanh vẫn tách rời khỏi mainboard.
Nhiều hãng sản xuất đã thử nghiệm với nhiều mức độ tích hợp khác nhau. Tuy nhiên,
việc này cũng gây ra nhiều hạn chế vì người dùng sẽ khó nâng cấp một tính năng nào
đó, ví dụ, bạn muốn đẩy khả năng đồ họa lên cao sẽ đồng nghĩa với việc thay cả
mainboard.
Do đó, các bộ phận cần nâng cấp nhiều như RAM, CPU và vi xử lý đồ họa thường được
đặt ở khe cắm dạng slot (cắm đứng) hay socket (đặt nằm) để dễ thay thế. Các bộ phận ít
được sử dụng tới như SCSI sau này bị bỏ đi để giảm chi phí sản xuất.
Hiện tại bo mạch chủ tích hợp các chip đồ họa, mạng thường xuất hiện ở dòng máy
tính giá rẻ. PC cấu hình cao dùng cho việc chơi game hay thiết kế đồ họa, xử lý phim
ảnh thường dùng bo mạch chủ không tích hợp để tiện nâng cấp.
Trên bo mạch chủ trước kia, vào khoảng năm 1995, vi xử lý dạng socket rất phổ biến.
Đến cuối năm 1998, dạng slot bắt đầu chiếm lĩnh thị trường, mở đầu là Slot 1 ở dòng
Pentium II.
Sơ đồ bo mạch chủ cũ và mới. Ảnh: Answers.
Tìm hiểu về bus
Thiết kế PC hiện nay dùng nhiều bus khác nhau để kết nối các bộ phận của chúng. Tuy
nhiên, bus rộng và có tốc độ cao rất khó sản xuất do các tín hiệu truyền đi với tốc độ
“chóng mặt”, đến mức ngay cả khoảng cách chỉ vài centimetre cũng gây lỗi định thời
gian. Ngoài ra, các rãnh kim loại trên bản mạch có tác dụng như chiếc anten vô tuyến
thu nhỏ, truyền tiếng ồn điện từ gây ra tình trạng nhiễu các tín hiệu ở những chỗ khác
trong hệ thống. Vì vậy, các kỹ sư thiết kế PC luôn đặt bus nhanh ở chỗ có diện tích nhỏ
hẹp và bus chậm ở nơi thoáng hơn.
Bus là hệ thống dây nối để truyền dữ liệu từ bộ phận này đến bộ phận khác trong máy
tính. Nói một cách ví von, bus giống như con đường cao tốc, càng rộng càng truyền
được nhiều dữ liệu đi với tốc độ cao.
Tất cả các bus đều bao gồm 2 phần: bus địa chỉ và bus dữ liệu. Bus dữ liệu sẽ chuyển dữ
liệu thực sự, còn bus địa chỉ sẽ truyền thông tin về đích đến của thông tin đó.
Kích thước của bus, được hiểu như độ rộng của đường cao tốc, là yếu tố quan trọng
quyết định lượng dữ liệu được chuyển đi mỗi lần. Ví dụ, bus 16 bit, 32 bit… có thể

truyền từng đó dữ liệu một lần.
Mỗi bus đều có xung đồng hồ được đo bằng MHz. Bus càng nhanh thì dữ liệu được
chuyển đi càng nhanh, giúp cho ứng dụng trên máy tính hoạt động trơn tru và nhanh
nhẹn hơn. Trên PC, bus ISA đang dần được thay thế bằng bus có tốc độ nhanh hơn như
PCI. Hầu hết máy tính hiện nay đều có bus nội dành cho dữ liệu, yêu cầu tốc độ truyền
tải nhanh như tín hiệu video. Bus nội này như một con đường cao tốc nối trực tiếp với
vi xử lý.
Thiết lập BIOS (phần 1)
Sau khi lắp ráp, người sử dụng cần đi qua công đoạn khai báo các thông số trong BIOS thì mới dùng
được máy. Chương trình này sẽ giúp PC quản lý hệ thống, bao gồm tất cả những linh kiện, thiết bị mà
bạn đã lắp vào.
Giao diện của BIOS. Ảnh: T.H.
Khái niệm về BIOS
Đây là chữ viết tắt của basic input/output system (hệ thống đầu vào/đầu ra cơ bản). Về
thực chất BIOS là phần mềm tích hợp sẵn, xác định công việc máy tính có thể làm mà
không phải truy cập vào những chương trình trên đĩa.
Chương trình này thường được đặt trong chip ROM đi cùng máy tính, độc lập với các
loại đĩa, khiến cho máy tính tự khởi động được. Các thông số của BIOS được chứa tại
CMOS, một chip bán dẫn khác hoạt động bằng pin và độc lập với nguồn điện của máy.
Do RAM luôn nhanh hơn ROM nên nhiều nhà sản xuất đã thiết kế để BIOS có thể sao
từ ROM sang RAM mỗi lần máy tính khởi động. Quá trình này được gọi bằng cái tên
shadowing.
BIOS của PC được thiết kế khá sát với tiêu chuẩn nên dù có nhiều phiên bản khác nhau,
chúng vẫn giống nhau trên mọi máy. Nhiều PC hiện đại chứa BIOS flash, nghĩa là BIOS
đã được sao vào chip nhớ flash để nâng cấp khi cần thiết và không cần đến pin nuôi.
Khi công nghệ mới ra đời và các lỗi cũ được phát hiện, nhà sản xuất thường đưa ra
phiên bản BIOS cập nhật để giải quyết trục trặc và nâng cao tốc độ hoạt động của hệ
thống.
Việc cập nhật BIOS được thực hiện khá đơn giản nhưng phải hết sức thận trọng và nên
tuân theo những quy định sau:

- Nếu hệ thống chạy ổn định, không có lỗi gì thì không nên nâng cấp BIOS.
- Nếu cần nâng cấp, hãy đọc kỹ hướng dẫn của chương trình trước khi bắt tay vào thực
hiện.
Màn hình Bios Setup đa số là màn hình chạy ở chế độ TEXT. Gần đây đang phát triển
loại BiosWin (Ami) có màn hình Setup gồm nhiều cửa sổ giống tương tự Windows và
sử dụng được Mouse trong khi Setup nhưng các mục vẫn không thay đổi.
Các loại BIOS
Thường thì bạn vẫn quen bấm phím Delete để vào phần thiết lập BIOS. Tuy nhiên, đó
chỉ là thao tác đối với phần lớn các máy có xuất xứ từ Đông Nam Á. Ở các loại máy
tính khác (sản xuất từ Mỹ chẳng hạn), người dùng phải thông qua chương trình quản lý
riêng để thay đổi các thông số BIOS.
Hiện nay có 2 loại BIOS:
- BIOS dạng text. Người dùng sẽ di chuyển phím hướng để đưa vệt sáng đi tới các lựa
chọn. Nhấn Enter để quyết định, Esc để thoát (gõ Y khi muốn lưu thay đổi, N là không
lưu).
- BIOS Win. Đây là loại BIOS mới được phát triển. Thay vì màn hình dạng text thông
thường, các thông số hiện ra trên màn hình màu với nhiều cửa sổ. Người dùng có thể di
chuột hoặc phím hướng để chọn lựa.
Thiết lập BIOS (phần 2)
Phần này sẽ giới thiệu thiết lập cơ bản liên quan đến ngày, giờ trên máy tính, khai báo các loại ổ, màn
hình hay bàn phím. Đây là những thành phần chính mà BIOS trên các loại PC phải nhận biết để quản lý
và điều khiển chúng.
Khi vào chương trình này, chọn Standard CMOS Setup.
Các thiết lập BIOS cơ bản. Ảnh: T.H.
Date. Đây là nơi khai báo ngày tháng với các định dạng khác nhau, tùy theo máy. Ví
dụ: mm/dd/yy là kiểu ghi tháng/ngày/năm.
Time. Có loại máy yêu cầu dùng hệ giờ 24. Chỉ cần di chuyển con trỏ đến các vị trí của
giờ, phút, giây, bạn có thể nhập số từ bàn phím.
Trong các bản Windows mới, người dùng thay đổi được thông số về thời gian trong
Start > Control Panel > Date and Time. Dù BIOS dùng hệ giờ 24 nhưng bạn vẫn có thể

cho hiển thị trên khay đồng hồ theo hệ giờ 12 (AM/PM) bằng cách thiết lập trên
Windows.
IDE Primary Master
Chế độ dò tìm thông số tự động cho ổ cứng. Ảnh: T.H.
Đây là nơi khai báo các thông số của ổ cứng. Nếu khai báo sai, ổ có thể không hoạt
động, thậm chí bị hỏng. Ví dụ, khi nhập số dung lượng cao quá mà tiến hành các lệnh
Fdisk hay Format, thiết bị này sẽ bị "đơ".
Tuy nhiên, những BIOS đời mới có phát triển thêm tính năng dò tìm thông số ổ cứng
IDE một cách tự động. Bạn chỉ cần bấm Enter > tại IDE HDD Auto-Detection, nhấn
Enter tiếp. Các chế độ tiếp theo, để ở mặc định Auto.
Nếu máy chỉ có 1 ổ cứng hoặc 2 ổ chia ổ chính (Master), phụ (Slave) thì đây là nơi đặt
Master. Việc khai báo này phải đúng với cách đặt chân răm (jumper) trên 2 ổ. Hiện nay,
các loại ổ đời mới chỉ có 1 jumper cho 3 vị trí: ổ duy nhất, Master và Slave (sơ đồ cắm
chân răm đã in sẵn trên ổ cứng). Loại ổ thế hệ cũ có nhiều chân răm nên nếu dùng, bạn
phải tuân theo tài liệu hướng dẫn một cách cẩn thận.
IDE Primary Slave
Đây thường là nơi khai báo ổ cứng thứ 2 cắm ở chế độ Slave. Bạn cũng có thể nhập
thông số bằng tay hoặc dò tìm tự động. Nếu máy không cài ổ này thì phần khai báo để
None.
IDE Secondary Master
Do BIOS đời mới hỗ trợ cắm đến 4 ổ cứng, người dùng có thể lắp ổ cứng thứ 3 và khai
báo tại đây. Tuy nhiên, cáp IDE thứ 2 cũng có thể nối được với ổ đa phương tiện (CD
hoặc DVD) nên đây thường là nơi khai báo loại ổ này. Cách cắm jumper cho ổ CD cũng
giống như trường hợp ổ cứng.
Người dùng cũng có thể nhập thông số bằng tay hoặc để ở chế độ dò tìm tự động.
Nếu không có ổ nào cắm ở dây IDE thứ 2 này, bạn để ở trạng thái None.
IDE Secondary Slave
Đây là nơi khai báo cho ổ cứng thứ 4 hoặc ổ quang thứ 2. Một dây IDE có thể nối 2 ổ
cùng loại hoặc 1 ổ cứng, 1 ổ CD, miễn là cách đặt chân răm phải tuân theo luật chính -
phụ.

Khai báo ổ mềm
Thường thì Drive A và Drive B dùng để khai báo cho ổ đĩa mềm. Tuy nhiên, hiện nay
không còn nhiều người dùng thiết bị vừa dễ hỏng, vừa lưu được ít dữ liệu này.
Chế độ Halt On
Một số PC cho phép bạn "sai khiến" BIOS phản ứng với các lỗi trong quá trình kiểm tra
máy.
All Error: Khi chọn mục này, máy sẽ treo khi phát hiện bất cứ lỗi nào. Bạn không nên
chọn vì Bios sẽ treo máy khi gặp lỗi đầu tiên và bạn sẽ không thể biết các lỗi khác, nếu
có.
No Errors: Quá trình tự kiểm tra của máy sẽ được thực hiện cho đến khi hoàn tất. Máy
không treo dù phát hiện bất cứ lỗi gì. Người dùng nên chọn mục này để biết bộ phận
nào bị trục trặc và tìm cách giải quyết.
All But Keyboard: Tất cả các lỗi, ngoại trừ bàn phím.
All But Diskette/Floppy: Máy treo với tất cả các lỗi, trừ lỗi ổ đĩa và bàn phím.
Thiết lập BIOS (phần 3)
Các mục thiết lập nâng cao cho phép người sử dụng chọn thứ tự ổ đĩa boot, đặt tốc độ gõ bàn phím, tăng
tốc cho quá trình khởi động Ngoài ra, bạn còn giới hạn được việc thay đổi BIOS hoặc ngăn người khác
xâm nhập vào máy tính.
Vào Advanced Bios Features, nhấn Enter. Tại đây có các mục như sau:
Các mục trong Advanced Bios Features của một loại BIOS. Ảnh: T.H.
Virus Warning (cảnh báo có virus)
Phần cài đặt này có cái tên "ngớ ngẩn" nhất trong BIOS. Trên thực tế, nó không thể cho
biết chương trình nào là virus, chương trình nào là "trong sạch".
Về mặt ý tưởng, khi đặt Enabled, Bios sẽ báo động và treo máy nếu có hành động viết
vào boot sector (vùng khởi động) hay partition của đĩa cứng. Nhưng do không phân biệt
được, nó chỉ đóng vai trò dò tìm bất kỳ và tất cả những gì được viết vào Master Boot
Record của đĩa cứng rồi thể hiện câu hỏi trên màn hình xem bạn có đồng ý cho chép hay
không.
Do virus phổ biến nhất thường xâm nhập boot sector nên khi cài đặt như vậy, bạn có thể
hạn chế sự lây lan. Nhưng đối với những chương trình hợp pháp khác, những dòng

thông báo không mong muốn sẽ hiện ra, khiến người sử dụng bối rối. Trong trường hợp
này, bạn nhấn vào nút Authorize để thực hiện. Hoặc, trước khi tiến hành các lệnh như
Format hay Fdisk, hãy nhớ vào BIOS để chọn Disabled cho mục này.
Chú ý: Do Virus Warning tỏ ra không hiệu quả, một số BIOS đã bỏ mục này.
CPU L1 & L2 Cache
Một số BIOS tách rời phần này làm 2 mục là Internal Cache và Extenal Cache.
Cài đặt cho Cache L1 (level 1 cahe) sẽ tắt/bật cache nội trên vi xử lý. Đối với dòng chip
486 hoặc về sau này, bạn nên bật vì nếu tắt, máy sẽ gặp trục trặc lớn. Người dùng chỉ
nên tắt vì mục đích kiểm tra lỗi hoặc nghi ngờ hoạt động của chip xử lý. Trên một vài
loại BIOS, bạn có thể thấy 3 lựa chọn: Disabled, Write Through và Write Back. Trong
đó, Write Back sẽ giúp cho máy hoạt động tốt nhất.
Cài đặt cho Cache L2 sẽ tắt/bật cache ngoại trên vi xử lý. Phần lớn các mainboard 486
hoặc mới hơn đều có cache này. Cũng giống như Cache L1, thiết bị cần được bật suốt
thời gian sử dụng và chỉ được tắt vì mục đích kiểm tra lỗi. Trên một số BIOS, bạn có
thể thấy 3 lựa chọn Disabled, Write Through và Write Back. Trong đó, Write Back sẽ
giúp cho máy hoạt động tốt nhất.
Chú ý: Cache L2 trên một số bo mạch ở "chợ giời" đã bị làm giả. Cách kiểm tra là vào
BIOS để tắt và xem máy có chạy chậm đi hay không. Nếu máy vẫn bình thường, cache
L2 thực không có. Ngoài ra, một số máy còn thông báo cache L2 này Enabled ngay cả
khi nó bị Disabled. Dấu hiệu này chứng tỏ BIOS đã bị "phẫu thuật".
Quick Power On Self Test / Quick Boot/ Fast Boot
Bật mục này sẽ khiến quá trình khởi động bỏ qua một số bước(như kiểm tra bộ nhớ mở
rộng nhằm phát hiện lỗi) để giảm thời gian.
Tuy nhiên, khi làm như vậy, bạn cũng tăng nguy cơ bỏ sót lỗi. Nếu có RAM lớn, đặt
Disabled cho mục này là an toàn nhất.
Chọn thứ tự cho thiết bị khởi động
Người dùng có thể khởi động máy từ nhiều ổ khác nhau như ổ cứng, ổ CD, đĩa mềm
hay ổ USB.
Chọn khởi động đầu tiên là ổ cứng có ưu điểm là nhanh nhưng trong trường hợp ổ đĩa
hay hệ điều hành bị trục trặc, người dùng có thể chọn lại (như CD hay USB) để cài đặt.

Swap Floppy
Tráo đổi tên 2 ổ đĩa mềm, khi chọn mục này bạn không cần khai báo lại loại ổ đĩa như
khi tráo bằng cách đặt jumper trên card I/O.
Seek Floppy
Nếu Enable, BIOS sẽ dò tìm kiểu của đĩa mềm là 80 track hay 40 track. Nếu Disable,
BIOS sẽ bỏ qua. Chọn Enable làm chậm thời gian khởi động vì BIOS luôn phải đọc đĩa
mềm trước khi đọc đĩa cứng (dù đã chọn chỉ khởi động bằng ổ C).
Boot Up Num - Lock LED
Khi dùng chế độ ON cho phím Numlock mở (đèn Numlock sáng), nhóm phím bên tay
phải được dùng để đánh số. Khi đặt chế độ OFF, nhóm phím này được dùng để di
chuyển con trỏ.
Gate A20 Option
A20 là dòng địa chỉ thứ 21 trong bộ nhớ, được điều khiển bằng "chỉ huy" của bàn phím.
Để chipset điều khiển A20 và tăng cường khả năng hoạt động của máy, hãy chọn
Enabled. Rất hiếm lý do khiến người ta tắt chức năng này. Vì vậy, một số dòng máy
mới thay bằng các lựa chọn khác là Normal và Fast để người dùng quyết định mức độ
làm việc của vi xử lý.
Typematic Rate Setting
Nếu chọn Enabled, bạn kích hoạt 2 chức năng dưới đây:
Typematic Rate (Chars/Sec): Mục này sẽ giúp bạn chọn số ký tự/giây tuỳ theo tốc độ
đánh phím nhanh hay chậm. Nếu thiết lập thấp hơn tốc độ đánh thì máy sẽ phát ra tiếng
bip (vì nó không chạy kịp).
Typematic Delay (Msec): Thiết lập này điều khiển khả năng lặp lại tự động của bàn
phím, nghĩa là độ dài thời gian nhấn phím trước khi nó bắt đầu lặp lại tự động. Thường
thì ta để từ 200 - 1000 mili giây.
Chú ý: Một số loại bàn phím cao cấp đã tích hợp chức năng tương đương.
Security Option
Phần này dùng để giới hạn việc sử dụng hệ thống và Bios Setup.
Setup: Giới hạn việc thay đổi Bios Setup. Khi muốn vào Bios Setup bạn phải đánh đúng
mật khẩu đã quy định trước.

System/Always: Giới hạn việc sử dụng máy. Mỗi khi mở máy, BIOS luôn luôn hỏi mật
khẩu. Nếu bạn không biết mật khẩu hoặc gõ sai, BIOS sẽ không cho phép sử dụng máy.
Chú ý: Do chưa chọn mục đặt mật khẩu, bạn nên để Disabled.
APIC Mode
Nên đặt Disabled vì chế độ Enabled có thể gây mất ổn định cho máy. Vì khi hệ điều
hành đã được cài đặt (như Windows XP), thiết lập này không thể thay đổi nếu bạn
không cài lại. Mục đích của nó là mở rộng số dòng IRQ (Interrupt Request) - mã thông
báo sự kiện ngoại vi bắt đầu và kết thúc.
MPS Version Control For OS
MPS là chuẩn đa xử lý của Intel dành để thiết kế PC có dùng vi xử lý Pentium. Nó xác
định dung lượng số bộ nhớ và tín hiệu ngắt được chia sẻ. Giá trị 1,1 hoặc 1,4 không thể
thay đổi cho nhau nếu APIC Mode để ở trạng thái Disabled.
Nhìn chung, khi thiết lập BIOS nâng cao, người dùng cần nghiên cứu kỹ tài liệu đi kèm
và yêu cầu tài liệu này tại nơi bán hàng. Ở các dòng máy khác nhau, những mục trên
BIOS khá khác nhau.
Lắp máy tính (1): Tìm hiểu các linh kiện
Nếu mớ dây nối loằng ngoằng, các bản mạch trông như mê cung khiến người chưa
biết nhiều về máy tính bối rối, hãy thử tự lắp ráp chúng. Chủ đề này bắt đầu bằng
việc tìm hiểu các bộ phận cấu thành nên chiếc PC.
Về tổng thể, một bộ PC bao gồm 2 phần chính là màn hình và bộ xử
lý trung tâm CPU. Màn hình là nơi hiển thị kết quả xử lý và quá trình
thao tác với máy tính. Còn bộ xử lý trung tâm nằm trong một hộp kim
loại (gọi là case), bao gồm nhiều vi mạch điện tử, ổ lưu trữ, quạt gió bên trong và các
cổng giao tiếp (để cắm các đầu dây, ổ nhớ rời ) ở bên ngoài.
Phần màn hình
- Màn hình: Hiện có 2 loại CRT và LCD với kích thước từ 14 inch trở lên. Màn CRT loại
cong có hại cho mắt vì các tia cathode phóng trực tiếp về phía trước; màn CRT phẳng
và LCD hạn chế tác hại hơn do các tia này bị phân tán. Nếu chỉ có CRT cong, người
dùng có thể mua thêm tấm kính chắn với giá chỉ 2-3 chục nghìn.
Ảnh: Scotch.

- Chuột: Đây là thiết bị ngoại vi dùng để thao tác trên màn hình máy tính. Hiện có các
loại chuột bi, chuột quang, chuột không dây có gắn Bluetooth với giá dao động từ vài
chục nghìn đến hơn một triệu đồng.
- Bàn phím: Đây cũng là thiết bị ngoại vi dùng để nhập dữ liệu. Bàn phím có nhiều loại,
từ loại thường giá chưa đến một trăm nghìn tới bàn phím không dây hoặc loại có thiết
kế đặc biệt giá hơn một triệu đồng.
Phần case
- Bộ vi xử lý: là trung tâm tính toán, xử lý dữ liệu của máy tính với hàng triệu phép
tính/giây. Gần đây, nhiều người nhắc đến sức mạnh của vi xử lý lõi kép với 2 nhân trên
một chip, giúp tốc độ tính toán nhanh hơn và do đó, giá cả cũng đắt hơn.
- Bo mạch chủ (mainboard): là nơi để gắn các thiết bị như chip, card đồ họa, card âm
thanh, ổ cứng Nó đóng vai trò là một "trung tâm điều phối", giúp cho mọi thiết bị máy
tính hoạt động nhịp nhàng và ổn định. Giá cả của bo mạch chủ tùy biến theo số thiết bị
đã được tích hợp sẵn (trong các báo giá có từ "on-board").
- Ổ cứng: là nơi lưu trữ dữ liệu. Dung lượng ổ cứng càng lớn thì càng lưu được nhiều dữ
liệu và giúp cho máy chạy êm khi có nhiều không gian trống.
- RAM: bộ nhớ trong tạm thời là nơi lưu mọi hoạt động của các chương trình chạy trên
máy tính. Khi RAM càng lớn, các chương trình vận hành trơn tru và nhanh hơn.
- Card đồ họa: là thiết bị xử lý hình ảnh, video. Khi card đồ họa mạnh, hình ảnh hiển thị
trên máy tính sẽ sắc nét và có nhiều hiệu ứng thật hơn. Những người chơi game "nặng"
và hay làm việc với đồ họa sẽ yêu cầu cầu cao đối với thiết bị này. Chú ý một số
mainboard đã tích hợp sẵn card đồ họa.
- Card âm thanh: là thiết bị xử lý âm thanh, giúp cho người dùng nghe được tiếng trên
máy tính. Một số mainboard cũng tích hợp sẵn card này.
- Card mạng: là thiết bị hỗ trợ nối mạng Internet hay mạng nội bộ. Có loại card mạng
tích hợp sẵn trên bo mạch chủ, có loại card mạng rời phải mua riêng.
- Ổ đa phương tiện: các loại ổ CD trước đây hiện đang bị DVD "qua mặt" vì chúng có
khả năng đọc cả CD lẫn DVD. Ngoài ra, nếu có nhu cầu, người dùng có thể mua loại ổ
DVD đọc-ghi DVD hay đọc DVD, ghi được CD.
- Ổ mềm: loại ổ lưu trữ này hiện đang "mất giá" vì bản thân đĩa mềm lưu dữ liệu không

nhiều và hay hỏng. Nếu có USB gắn ngoài, bạn không cần đến loại ổ này.
- Quạt gió: là thiết bị nhỏ nhưng rất cần thiết để làm mát những bộ phận tạo nhiệt trong
quá trình hoạt động. Trục trặc ở quạt gió dễ làm thiết bị nóng quá mức và hỏng hẳn.
Nhiều hãng để chỗ gắn quạt gió ở khắp mọi nơi như chip, nguồn, ổ cứng Tuy nhiên,
một quạt đường kính 120 mm ở case rộng rãi cũng có thể đảm bảo an toàn cho máy
tính. Xem thêm bài này.
- Nguồn điện: là nơi chuyển điện từ ngoài vào trong máy. Nguồn điện là thiết bị quan
trọng trong việc giữ cho điện áp ổn định, giúp các thiết bị trong case được an toàn khi
có sự cố. Nguồn điện có công suất lớn phù hợp với những máy gắn nhiều thiết bị tiêu
tốn điện năng như quạt làm mát bằng nước, ổ cứng có tốc độ quay cao, ổ DVD nhiều
chức năng
Bạn cũng có thể mua thêm loa ngoài, webcam, ổ USB, ổ cứng ngoài để phục vụ nhu
cầu giải trí và làm việc của mình. Chú ý khi tự chọn mua linh kiện lắp ráp, người dùng
cần xem chúng có tương thích với nhau hay không. Bạn có thể tìm thông tin trên mạng
về những dòng sản phẩm này để quyết định chính xác.
Chuẩn bị lắp ráp
- Dụng cụ cần dùng là một tô-vít 4 cạnh.
- Nơi để máy tính cần khô và thoáng, ít bụi bẩn. Bề mặt để máy tính cần phẳng và vững
chắc.
Lắp máy tính (2): Gắn linh kiện trên bo mạch chủ
Bo mạch (mainboard) là trung tâm kết nối và điều phối mọi hoạt động của các thiết bị trong máy tính.
Lắp ráp linh kiện vào bảng mạch này cần sự cẩn thận và một số mẹo nhỏ.
Một trong các loại bo mạch chủ. Ảnh: Cdrinfo.
Chú ý trước khi lắp
- Mặc dù bo mạch chủ đã được gắn ở vị trí cố định bên trong hộp máy, vị trí của các
card tích hợp sẵn và các loại ổ (cứng, mềm, CD) trong khoang có thể thay đổi đến một
giới hạn nào đó. Tuy nhiên, tốt hơn hết là đặt chúng cách xa nhau vì dây cáp nối bị
chùng một đoạn khá lớn. Để các thiết bị xa nhau cũng tạo khoảng không gian thoáng
đãng, tránh tương tác điện từ gây hại.
- Bo mạch chủ chứa các bộ phận nhạy cảm, dễ bị "đột quỵ" vì tĩnh điện. Do đó, bảng

mạch này cần được giữ trong trạng thái chống tĩnh điện nguyên vẹn trước khi lắp ráp.
Sản phẩm được bọc trong một bao nhựa đặc biệt, trên đó có quét các vệt kim loại. Vì
vậy, trước khi lắp linh kiện, không nên để bảng mạch hở ra khỏi bao nhựa trong thời
gian dài. Trong quá trình lắp ráp, bạn cần đeo một vòng kim loại vào cổ tay có dây nối
đất. Loại vòng này có bán ở các cửa hàng tin học hoặc bạn tự chế bằng cách quấn một
đoạn dây đồng nhiều lõi vào cổ tay và nối tiếp đất. Đây cũng là yêu cầu khi lắp các loại
card.
- Cần thao tác cẩn thận với các linh kiện. Nếu một vật như tô-vít rơi vào bo mạch chủ,
nó có thể làm hỏng những mạch điện nhỏ, khiến cả thiết bị này trở nên vô dụng.
Quy trình lắp ráp
Bạn cần xác định xem case này có gắn đệm phủ hợp để đặt bảng mạch không. Miếng
đệm này có tác dụng tránh cho bo mạch chủ chạm vào bề mặt kim loại của case sau khi
lắp đặt, tránh chập mạch hoặc hỏng hóc khi máy tính bị va đập.
Bất kỳ case mới nào cũng có loại đệm bằng nhựa hay kim loại. Chúng có thể được lắp
sẵn vào case hoặc không.
- Đặt tấm vỏ máy rời trên mặt bàn và gắn bo mạch lên một cách nhẹ nhàng rồi siết chặt
đinh ốc.
Ảnh: Source Force.
- Nhẹ nhàng đưa vi xử lý vào khe ZIF (viết tắt của từ Zero Insertion Force), không cần
dùng sức. Nếu được đặt đúng, nó sẽ trôi vào khe. Chú ý chân răm số 1 phải được đặt
chính xác. Nếu không thể đặt bản chip thăng bằng, chú ý không được ấn. Khi lắp vi xử
lý xong, khóa khe này bằng cái lẫy.
Ảnh: Source Force.
Các cửa hàng có bán chip đã gắn sẵn cùng quạt gió ngay trên bo mạch chủ. Nếu muốn
"tận hưởng" cảm giác của dân tự lắp máy, bạn có thể mua loại chip rời. Tùy theo kiểu
khe cắm slot (cắm đứng) hay socket (đặt nằm ngang) trên các hệ máy khác nhau, việc
lắp chip có khác nhau đôi chút.
Bôi một lớp keo IC mỏng (hoặc dán giấy dẫn nhiệt) lên đáy quạt chip.
Vật liệu này giúp hơi nóng trong quá trình vi xử lý được dẫn lên quạt
gió. Sau khi bôi keo, đặt quạt gió lên vi xử lý và khóa các lẫy tương

ứng. Chú ý, cần làm sạch bề mặt trước khi bôi keo, có thể dùng cồn.
Ảnh: Source Force.
- Lắp RAM
Đặt bản RAM vào khe slot và nhấn xuống, hai miếng nhựa màu trắng hai bên sẽ tự
động "quặp" chặt khi thanh RAM vào khe vừa vặn. Trên bo mạch có chỗ đặt vài thanh
và dung lượng của chúng sẽ được cộng với nhau. Trong trường hợp RAM hỏng, bạn chỉ
cần nhấc ra khỏi khe và cắm lại RAM mới. Cách cắm SDRAM, DDRAM, RDRAM
có đôi chút khác biệt.
Thanh RAM được đưa vào khe slot. Ảnh: Pcstats.
Các kết nối từ bo mạch chủ
Các dây cáp để nối đến ổ và khe cắm bằng chân răm có vẻ loằng ngoằng khiến bạn rối
trí. Chú ý cắm chính xác để không làm hỏng các chân răm này. Chân số 1 ở cáp nằm về
phía vạch đỏ trên dây.
Tên cáp Kết nối với Số chân răm
IDE Ổ cứng, CD-ROM 40
Floppy IDE Ổ mềm 34
Cáp nguồn Từ bộ nguồn SMPS đến bo mạch chủ
6x2 đối với dòng AT và 20
với ATX
Đèn báo
Loa, Đèn báo ổ cứng, đèn báo nguồn, đèn
khởi động lại.
Khác nhau ở từng kiểu.
Các cổng sau
case
PS/2, USB, LPT, COM 1, COM 2 Khác nhau ở từng kiểu.
Nối card Cáp tiếng ở CD-ROM Khác nhau ở từng kiểu.
Ngoài ra, còn có các loại cáp khác như nguồn điện cho ổ cứng, ổ mềm, CD-ROM,
không kết nối vào bo mạch chủ, nguồn điện cho quạt gió.
Cấu hình chân răm trên bo mạch chủ

Có nhiều vị trí để cắm cáp trên bo mạch chủ. Sau đây là danh sách:
Tên thiết bị/slotSố chân răm
LPT 26
COM 10
IDE 40
IDE Floppy 36
Lúc này, đặt bo mạch chủ vào case và vặn chặt các đinh ốc (một số loại dùng chân
nhựa).
Lắp máy tính (3): Cắm các loại ổ
Các ổ lưu trữ (cứng, mềm) và đa phương tiện đều dùng cáp dữ liệu IDE để kết nối với bo mạch chủ. Một
dây cáp có thể nối với 2 ổ cùng loại một lúc, tạo ra sự tiện lợi cho người sử dụng.
Lắp ổ cứng
Ở phía mặt sau ổ cứng có 2 chỗ để cắm. Một là phần dành để cắm nguồn (có 4 chân),
nằm về phía bên tay phải. Phần chân cắm dài hơn phái bên trái dùng để cắm cáp dữ liệu.
Dây cáp IDE có 3 đầu cắm, 1 dành để cắm vào khe trên bo mạch chủ (gọi là IDE 0), 2
dành để nối vào ổ cứng. Khi chỉ dùng một ổ cứng duy nhất, người ta thường dùng đầu
cáp còn lại (IDE1).
Một đầu của cáp IDE được cắm vào khe slot trên bo mạch chủ. Ảnh: T.H.
Dây nguồn đã có một đầu cắm sẵn vào nguồn điện của máy tính, phần còn lại có 3 đầu,
2 đầu to dùng để cắm ổ cứng/ổ CD, 1 đầu nhỏ (cũng 4 chân) dành để cắm vào ổ mềm.
Một dây nguồn có 3 đầu nối. Ảnh: T.H.
Cả hai dây này chỉ vừa ổ theo chiều duy nhất. Kinh nghiệm cắm đúng là viền màu
đỏ/xanh trên cáp dữ liệu IDE "úp mặt" về phía sợi dây màu đỏ của cáp nguồn.
Viền màu đỏ trên cáp IDE quay về phía sợi dây màu đỏ
trên cáp nguồn. Ảnh: T.H.
Khi muốn cắm 2 ổ cứng trên cùng 1 máy, bạn chú ý đến phần chân răm nằm giữa và sơ
đồ trên mặt ổ. Lúc này, bạn phải quy định ổ chính (master) và ổ phụ (slave) theo sơ đồ
này. Chân răm màu trắng sẽ được kéo ra khỏi chỗ để ban đầu của nhà sản xuất và cắm
vào vị trí đúng (ví dụ cắm vào vị trí số 2 để làm ổ master, số 3 để làm ổ slave). Sau đó,
bạn sẽ phải thiết lập quy định này trong Bios.

Sơ đồ gắn chân răm để làm ổ chính
hoặc phụ. Ảnh: PCstats.
Chân răm màu trắng thường được để
ở đây. Nếu ổ này được làm ổ chính/
phụ, nó sẽ được lấy ra để cắm vào vị
trí khác (thường là số 2,3). Ảnh:
PCstats.
Cuối cùng, đưa ổ cứng vào khoang và vít đinh chặt ở hai bên (thường là 4 đinh ốc cho
mỗi ổ).
Lắp ổ đa phương tiện
Ổ đĩa quang như CD hay DVD đọc/ghi đều được nối với bo mạch chủ bằng cáp IDE và
nguồn điện như ổ cứng.
Tuy nhiên, ở những máy chưa có ổ CD/DVD, bạn phải mua thêm dây cáp khi muốn lắp
thêm loại ổ này (cáp có giá vài nghìn đồng).
Phần chân răm quy định ổ chính/phụ nằm bên cạnh bộ chân cắm cáp IDE. Thường thì
sơ đồ cho chân răm này được in nổi hoặc dập chìm trên bề mặt ổ, tương ứng với vị trí
của chân cắm. M là viết tắt cho master, S là viết tắt cho slave.
Phần khe cắm 4 chân bên cạnh đó dành để nối cáp tín hiệu analog từ CD-ROM vào card
âm thanh. Nếu ổ đa phương tiện của bạn có hỗ trợ Digital Audio thì cắm cáp vào khe
tương ứng và nối đầu còn lại với card sound.
Gỡ bỏ miếng nhựa ở khoang trên thùng máy và đưa ổ CD vào khoang, vít đinh ốc cẩn
thận ở 2 bên. Khi đẩy ổ CD nhô ra phía trước, chú ý để ổ không bị lệch, tránh tình trạng
kẹt khay chứa đĩa.
Dây nối từ khe cắm analog vào chip âm thanh tích hợp trên
bo mạch chủ. Ảnh: T.H.
Lắp máy tính (4): Cắm card và thiết bị ngoại vi
Nếu không muốn dùng bo mạch chủ tích hợp sẵn chip âm thanh, đồ họa , bạn có thể dùng card rời để dễ
dàng nâng cấp về sau này. Cách lắp card và các thiết bị ngoại vi cũng khá dễ dàng, chỉ cần người dùng
biết khái niệm về chúng.
Cắm các loại card

×