Tải bản đầy đủ (.docx) (51 trang)

ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (444.74 KB, 51 trang )

2014
15/01/2014
ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ
XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
2
THÀNH VIÊN NHÓM NGHIÊN CỨU
1. Nguyễn Đôn Nhã Uyên
2. Nguyễn Thị Tuyết Chi
3. Nguyễn Thị Phương Thảo
4. Lê Vũ Ngọc Anh
5. Đoàn Nhật Thanh
6. Võ Trần Đức Tuấn
7. Trần Thái Phương Nam
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
3
NHẬN XÉT CỦA GVHD
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………


TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
4
……………………………………………………………………………………
……………………………………………………………………………………
LỜI MỞ ĐẦU
Hoạt động ngân hàng trong những năm vừa qua chứa đựng khá nhiều rủi ro do ảnh
hưởng một phần từ nền kinh tế thế giới nói chung và trong nước nói riêng, một phần từ chính
hoạt động của các ngân hàng. Trong đó, hoạt động tín dụng mặc dù là một trong các lĩnh vực
chính đem lại nguồn thu lớn nhất cho hệ thống ngân hàng nhưng chính nó cũng là một hoạt
động chứa đựng rất nhiều rủi ro, đặc biệt là rủi ro nợ xấu. Nợ xấu không còn là vấn đề của
một ngân hàng, một quốc gia mà đã trở thành vấn đề chung của toàn hệ thống NHTM trên
thế giới cũng như tại Việt Nam. Do đó, việc đánh giá thực trạng nợ xấu của hệ thống NHTM
trong nước để từ đó đề xuất giải pháp xử lý vấn đề này.
Được sự phân công nghiên cứu đề tài này của giảng viên bộ môn, nhóm đã cố gắng
tìm hiểu kỹ lưỡng các vấn đề liên quan đến đề tài thông qua các bài nghiên cứu trước đây,
quy định của NHNN, các vấn đề thực tiễn khác cũng như hướng dẫn học thuật từ phía
GVHD. Đề tài được trình bày với cấu phần gồm 03 chương lớn như sau:
- Chương I : Tổng quan lý thuyết về nợ xấu;
- Chương II : Thực trạng nợ xấu tại Việt Nam;
- Chương III: Đề xuất các giải pháp xử lý nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam;
- Phụ lục và Tham khảo.
Trong quá trình thực hiện đề tài này, dù đã nỗ lực rất nhiều nhưng không thể tránh
khỏi những sai sót về cách dùng từ, câu chữ hay ý nghĩa diễn đạt. Rất hy vọng phần trình
bày tiếp sau đây sẽ nhận được sự quan tâm, góp ý sâu sắc từ thầy GVHD cũng như các nhóm
đề tài khác để bài làm của nhóm được hoàn thiện hơn.
Chân thành cảm ơn!
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
5
Nhóm thực hiện.
MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU……………………………………………………………………………… 3
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ NỢ XẤU………………………………
6
1.1. Khái niệm nợ xấu………………………………………………………………………
6
1.1.1. Theo Oxford dictionary for the Business Word ………………………………………
6
1.1.2. Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống Kê – Liên Hiệp Quốc……………………
6
1.1.3. Theo IMF……………………………………………………………………………….
6
1.1.4. Xét theo tiêu chuẩn của hệ thống kế toán quốc tế - IAS ……………………………….
6
1.1.5. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN …………………………………………………… 7
1.2. Phân loại nợ xấu.………………………………………………………………………
7
1.2.1. Theo các nước trên Thế giới……………………………………………………………
7
1.2.2. Theo Việt Nam………………………………………………………………………….8
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành nợ xấu …………………………….9
1.3.1. Các yếu tố khách quan ……………………………………………………………… 9
1.3.2. Các yếu tố chủ quan ………………………………………………………………….11
1.4. Tác động của nợ xấu đến hoạt động kinh doanh của các NHTM …………………… 12
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG NỢ XẤU TẠI VIỆT NAM …………………………….13
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
6
2.1. Thực trạng nợ xấu của các NHTM Việt Nam ……………………………………….
13
2.1.1. Tình hình nợ xấu những năm 2008-2012 …………………………………………….13
2.1.2. Tình hình nợ xấu nửa đầu năm 2013 …………………………………………………

14
2.2. Nguyên nhân nợ xấu hình thành và gia tăng ở các NHTM Việt Nam ……………
16
2.2.1.Từ các yếu tố vĩ mô ……………………………………………………………………
16
2.2.2. Từ phía các ngân hàng thương mại …………………………………………………
17
2.2.3. Từ phía khách hàng vay vốn ………………………………………………………….
18
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ
THỐNG NHTM VIỆT NAM ……………………………………………………………
20
3.1. Bài học kinh nghiệm về xử lý nợ xấu của các quốc gia trên thế giới ……………… 20
3.1.1. Kinh nghiệm của Mỹ ………………………………………………………………….
20
3.1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc ……………………………………………………… 22
3.1.3. Kinh nghiệm của Hàn Quốc ………………………………………………………….25
3.1.4. Kinh nghiệm từ Australia …………………………………………………………….27
3.1.5. Bài học kinh nghiệm chung cho Việt Nam ………………………………………… 28
3.2. Kiến nghị và giải pháp ………………………………………………………………
29
3.2.1. Kiến nghị dựa trên bài học kinh nghiệm của các nước trên thế giới…………………29
3.2.2. Kiến nghị đi từ thực trạng nợ xấu trong hệ thống NHTM Việt Nam hiện nay………
30
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
7
3.2.3. Kiến nghị hoàn thiện các phương pháp xử lý nợ xấu đang được NHTM áp dụng……
31
PHỤ LỤC 1: PHÂN LOẠI NỢ XẤU THEO THÔNG TƯ 02/2013/TT-NHNN………. 38
PHỤ LỤC 2: HIỆU QUẢ XỬ LÝ NỢ XẤU KỲ VỌNG TỪ CÔNG TY QUẢN LÝ TÀI

SẢN VIỆT NAM - VAMC .……………………………………………………………… 45
TÀI LIỆU THAM KHẢO ………………………………………………………………
49
CHƯƠNG I : TỔNG QUAN LÝ THUYẾT VỀ NỢ XẤU
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
8
1.1. Khái niệm nợ xấu:
1.1.1. Theo Oxford dictionary for the Business Word:
Nợ xấu (bad debt) là nợ khó có thể thu hồi. Chẳng hạn như một khoản tiền có thể
được xử lý như là một khoản thiệt hại và được xóa sổ trong phần lợi nhuận và tài khoản nợ
phải thu. Những khoản nợ khó có thể đòi được có thể xuất hiện trong các tài khoản của một
tổ chức cùng với một khoản dự phòng cho nợ xấu.
1.1.2. Theo định nghĩa nợ xấu của Phòng Thống Kê – Liên Hiệp Quốc:
Về cơ bản một khoản nợ được coi là nợ xấu khi quá hạn trả lãi và /hoặc gốc trên 90
ngày; hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc
chậm trả theo thỏa thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có
lý do chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ.
1.1.3. Theo IMF:
Một khoản vay là nợ xấu khi lãi và vốn gốc bị trả quá hạn 90 ngày trở lên hoặc ít nhất
90 ngày đối với việc trả lãi vay đã thỏa thuận vốn hóa, tái cấp vốn hoặc trì hoãn, hoặc việc
hoàn trả ít hơn 90 ngày quá hạn nhưng có lý do khác tốt hơn để nghi ngờ về sự hoàn trả đầy
đủ.
1.1.4. Xét theo tiêu chuẩn của hệ thống kế toán quốc tế - IAS:
Một khoản nợ được coi là nợ xấu khi đã quá hạn trả lãi và/hoặc gốc trên 90 ngày;
hoặc các khoản lãi chưa trả từ 90 ngày trở lên đã được nhập gốc, tái cấp vốn hoặc trả chậm
theo thỏa thuận; hoặc các khoản phải thanh toán đã quá hạn dưới 90 ngày nhưng có lý do
chắc chắn để nghi ngờ về khả năng khoản vay sẽ được thanh toán đầy đủ.
Theo chuẩn mực báo cáo tài chính quốc tế - IFRS và IAS 39 thì việc xét đâu là một
khoản nợ xấu chỉ chú trọng đến khả năng hoàn trả của người đi vay thông qua phương pháp
chiết khấu dòng cổ tức hoặc xếp hạng tín dụng bất luận thời gian quá hạn đã trên 90 ngày

hay chưa.
Một cách định nghĩa khác về nợ xấu, theo giáo trình Quản trị NHTM hiện đại do
PGS.TS Nguyễn Đăng Dờn chủ biên: “nợ xấu là những khoản nợ quá hạn, nhưng ở cấp độ
nghiêm trọng hơn, do đó được gọi là nợ xấu”.
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
9
1.1.5. Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN
1
:
Theo Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN ngày 22/04/2005 của NHNN quy định về việc
phân loại nợ, trích lập, sử dụng dự phòng và xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng
của Tổ Chức Tín Dụng, định nghĩa: Nợ xấu là các khoản nợ thuộc nhóm 3 (nợ dưới chuẩn),
nợ nhóm 4 (nợ nghi ngờ) và nợ nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn).
Theo đó, nợ xấu là các khoản tiền cho khách hàng vay, mà không thể thu hồi lại được
do khách hàng làm ăn thua lỗ hoặc phá sản…, là một khoản tiền cho vay đã quá hạn mà xác
định không thể thu hồi lại được.
Như vậy, nợ xấu có một số đặc trưng sau:
- Khả năng thu hồi rất thấp, khả năng mất vốn cao, gây thiêt hại cho ngân hàng.
- Khách hàng đã không thực hiện nghĩa vụ trả nợ với ngân hàng khi các cam kết hết
hạn.
- Tình hình tài chính của khách hàng đang và có chiều hướng xấu dẫn đến có khả
năng ngân hàng không thu hồi được cả vốn lẫn lãi.
- Tài sản đảm bảo (thế chấp, cầm cố, bảo lãnh) có giá trị được đánh giá không đủ
trang trải nợ gốc và lãi.
1.2. Phân loại nợ xấu:
1.2.1. Theo các nước trên Thế giới:
Theo định nghĩa của IAS, nợ xấu được xác định dựa trên hai yếu tố chính:
- Quá hạn trên 90 ngày,
- Khả năng không trả được nợ của khách hàng.
Về cơ bản, đa số các nước cũng xác định nợ xấu dựa trên hai yếu tố này. Tuy nhiên,

tiêu chí phân loại nợ là không hoàn toàn đồng nhất giữa các quốc gia trên Thế giới. Theo
cuộc khảo sát thực tiễn tại các nước đại diện trong nhóm liên kết các nguyên tắc cơ bản
Basel thì ở một số quốc gia có thêm các tiêu chuẩn khác như:
- Tại Mexico: Các ngân hàng còn dựa trên giá trị có thể thu hồi của tài sản thế chấp.
Hệ thống phân loại của Mexico cũng dựa trên một số tiêu chí như: kinh nghiệm thanh toán,
môi trường khách hàng tín dụng đang hoạt động.
1 Xem Phụ lục 1
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
10
- Tại Anh và Hà Lan: Không có yêu cầu cụ thể nào cho việc phân loại nợ vì thế các
ngân hàng tự xây dưng quy tắc riêng.
- Tại Brazil, Cộng Hòa Séc, Pháp, Ấn Độ, và Nam Phi: Khi có một khoản nợ phân
loại là nợ xấu, thì tất cả các khoản nợ khác của cùng một khách hàng cũng được phân loại là
nợ xấu.
- Tại Hàn Quốc, Mexico, Ả Rập Saudi: Có cách tiếp cận linh hoạt hơn, quyết định của
các ngân hàng dựa trên sự xem xét lại của họ về việc hình thành của từng khoản nợ, bất kể
những khoản nợ khác được xếp hạng như thế nào.
- Tại Mỹ: Các khoản vay khác nên được đánh giá lại để xác định liệu một hoặc nhiều
các khoản vay nên được đánh giá tương tự. Việc xác định này nên dựa trên việc đánh giá khả
năng thu hồi độc lập của mỗi khoản vay, khả năng thanh toán của khách hàng nợ.
1.2.2. Theo Việt Nam:
Căn cứ trên thời gian quá hạn hoàn trả, nợ xấu được phân làm 3 loại theo Điều 6
trong Quyết định 493/2005/QĐ-NHNN của Quốc hội:
- Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: (i) Các khoản nợ quá hạn từ 90 ngày đến
180 ngày; (ii) Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn dưới 90 ngày theo thời hạn đã
cơ cấu lại; (iii) Các khoản nợ được phân loại vào nhóm 3 theo quy định tại khoản 3 và khoản
4 điều 6.
- Nhóm 4 (nợ nghi ngờ) bao gồm: (i) Các khoản nợ quá hạn từ 181 ngày đến 360
ngày; (ii) Các khoản nợ cơ cấu lại thời hạn trả nợ quá hạn từ 90 ngày đến 180 ngày theo thời
hạn cơ cấu lại; (iii) Các khoản nợ khác được phân loại vào nhóm 4 theo quy định tại khoản 3

và khoản 4 điều 6.
- Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: (i) Các khoản nợ quá hạn trên 360
ngày; (ii) Các khoản nợ khoanh chờ Chính Phủ xử lý; (iii) Các khoản nợ đã cơ cấu lại thời
hạn trả nợ quá hạn trên 180 ngày theo thời hạn đã được cơ cấu lại; (iv) Các khoản nợ khác
được phân loại vào nhóm 5 theo quy định tại khoản 3 và khoản 4 điều 6.
Căn cứ vào khả năng trả nợ của khách hàng, theo điều 7 Quyết Định 493/2005/QĐ-
NHNN nợ xấu thuộc các nhóm:
- Nhóm 3 (nợ dưới tiêu chuẩn) bao gồm: Các khoản nợ được Tổ chức tín dụng đánh
giá là không có khả năng thu hồi cả vốn gốc và lãi khi đến hạn, có khả năng tổn thất một
phần nợ gốc và lãi.
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
11
- Nhóm 4 (Nợ nghi ngờ) bao gồm: Các khoản nợ được tổ chức tín dụng đánh giá là
khả năng tổn thất cao.
- Nhóm 5 (nợ có khả năng mất vốn) bao gồm: Các khoản nợ được Tổ chức tín dụng
đánh giá là không có khả năng thu hồi, mất vốn.
Ngoài ra còn một số trường hợp như sau:
- Trường hợp một khách hàng có nhiều hơn một khoản nợ với Tổ chức tín dụng mà
có bất kỳ khoản nợ bị chuyển sang nhóm nợ rủi ro cao hơn thì Tổ chức tín dụng bắt buộc
phải phân loại các khoản nợ còn lại của khách hàng đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn
tương ứng với mức độ rủi ro (Theo khoản 3 – Điều 6 QĐ 493/2005/QĐ-NHNN).
- Trường hợp các khoản nợ (kể cả các khoản nợ trong hạn và các khoản nợ cơ cấu lại
thời hạn trả nợ trong hạn theo thời hạn nợ đã cơ cấu lại) mà Tổ chức tín dụng có đủ cơ sở để
đánh giá là khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì Tổ chức tín dụng chủ động tự
quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nơ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ
rủi ro.
- Khi khả năng trả nợ của khách hàng bị suy giảm thì Tổ chức tín dụng chủ động tự
quyết định phân loại các khoản nợ đó vào các nhóm nợ rủi ro cao hơn tương ứng với mức độ
rủi ro (Theo khoản 4 - Điều 6 QĐ 493/2005/QĐ-NHNN).
1.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến quá trình hình thành nợ xấu:

Hoạt động tín dụng luôn tìm ẩn rất nhiều rủi ro. Các ngân hàng muốn kiểm soát chặt
chẽ các hợp đồng cho vay nhằm quản lý nợ quá hạn ở một tỷ lệ nhất định. Tuy nhiên, trong
thực tế, tỷ lệ nợ xấu ở các ngân hàng không chỉ bị chi phối bởi các yếu tố mà các ngân hàng
có thể kiểm soát được mà còn bởi các yếu tố ngoài tầm kiểm soát của các ngân hàng. Đó
chính là các yếu tố khách quan và các yếu tố chủ quan đã ảnh hưởng đến việc hình thành nợ
xấu.
1.3.1. Các yếu tố khách quan:
- Biến động kinh tế: Nền kinh tế của mỗi quốc gia luôn gắn liền với nền kinh tế của cả
Thế giới. Bởi lẽ tất cả các chủ thể hoạt động kinh doanh luôn có mối quan hệ trực tiếp hoặc
gián tiếp với nhau tạo thành một chuỗi các mắc xích. Khi nền kinh tế suy thoái làm cho hầu
hết các chủ thể kinh tế lâm vào tình trạng vỡ nợ hoặc hoạt động kinh doanh gặp nhiều khó
khăn, giảm sút doanh số. Do đó, các khoản vay của ngân hàng tới thời kỳ thanh toán không
thực hiện đúng kỳ hạn đã cam kết với ngân hàng. Kết quả là nợ quá hạn phát sinh và dẫn đến
hậu quả là nợ xấu tăng nhanh. Bằng chứng là năm 2008, kinh tế Thế giới và Việt Nam suy
thoái làm cho nợ xấu tại các Ngân hàng TMCP tăng nhanh, NHNN đã yêu cầu các ngân
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
12
hàng kiểm soát các khoản vay và hạn chế việc phát sinh nợ quá hạn và theo đó nợ xấu sẽ
giảm. Ngược lại, nền kinh tế phát triển bền vững sẽ làm cho phần lớn các chủ thể kinh tế
hoạt động kinh doanh có hiệu quả, đầu ra ổn định và ngày càng phát triển, nguồn tiền luân
chuyển tốt. Các khoản nợ tại ngân hàng được thanh toán đúng kỳ hạn, khi đó nợ quá hạn và
nợ xấu sẽ ít phát sinh. Do đó, có thể thấy rằng biến động kinh tế là yếu tố bao quát nhất, ảnh
hưởng rất lớn tới việc hình thành nợ xấu tại các ngân hàng.
- Hành lang pháp lý: Trong hoạt động của các ngân hàng, Nhà nước đã ban hành hệ
thống các văn bản quy phạm pháp luật nhằm buộc các chủ thể kinh tế phải thực hiện đúng
thỏa thuận với nhau thông qua việc ký kết hợp đồng hoặc cam kết thực hiện… Nếu một
trong các bên tham gia không thực hiện đúng sẽ bị pháp luật xử lý thông qua việc phán xét
của tòa án và bộ phận thi hành án sẽ thực thi các quyết định của tòa. Nhưng trong thực tế có
nhiều bản án, quyết định của Tòa án đã có hiệu lực thi hành và đã có đơn yêu cầu thi hành án
của ngân hàng mà cơ quan thi hành án vẫn chưa thi hành án với nhiều lý do như bản án chưa

rõ ràng, hồ sơ pháp lý chưa đầy đủ. Những trường hợp đó, Ngân hàng phải chờ cơ quan thi
hành án làm việc lại với Tòa án. Thời gian chờ đợi này thường kéo dài hàng tháng thậm chí
một năm ngân hàng mới nhận được văn bản trả lời của cơ quan thi hành án. Do đó, nếu hành
lang pháp lý càng chặt chẽ và phù hợp với thực tế thì sẽ góp phần ổn định hoạt động kinh tế,
hạn chế được việc một bên phá vỡ hợp đồng gây thiệt hại cho bên kia, đảm bảo công bằng và
quyền lợi của các bên tham gia. Một khi các quy định này không chặt chẽ và còn nhiều kẽ
hở, công tác thi hành án còn chậm thì sẽ tạo điều kiện cho kẻ xấu lừa đảo và chiếm đoạt vốn
của ngân hàng.
- Cơ chế chính sách của Nhà Nước: cũng góp phần điều tiết rất lớn đối với hoạt động
kinh doanh của các chủ thể trong nền kinh tế, từ đó tác động gián tiếp đến hoạt đông của các
ngân hàng. Điển hình như vừa qua Nhà nước đã có gói kích cầu nền kinh tế, hỗ trợ 4% /năm
đối với các khoản vay thuộc 15 ngành nghề quy định. Điều này đã giúp cho tất cả các Doanh
Nghiệp trong 15 ngành nghề này giảm được chi phí đầu vào, giảm giá thành sản phẩm nên
lượng tiêu thu tăng. Khi đó, các doanh nghiệp này sẽ có đầu ra ổn định, doanh số tăng lên và
tài chính vững chắc. Hơn nữa, các doanh nghiệp trong 15 ngành chủ chốt này hoạt động tốt
sẽ kéo theo các doanh nghiệp trong những ngành kinh tế khác hoạt động kinh doanh tốt hơn.
Đối với ngân hàng, khi cho vay các doanh nghiệp có đầu ra và tài chính tốt giúp cho ngân
hàng hoạt động ngày càng hiệu quả và nợ quá hạn cũng như nợ xấu sẽ được hạn chế và giảm
đáng kể. Do đó, có thể thấy được cơ chế chính sách của Nhà nước trong việc điều hành nền
kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động của hệ thống NHTM, nhất là hoạt động
tín dụng.
- Các yếu tố bất khả kháng như thiên tai, địch họa: đây là những yếu tố gây tổn thất
to lớn không thể lường trước hoặc không thể tránh khỏi như: bão, lũ lụt, hạn hán, sóng thần,
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
13
dịch bệnh, chiến tranh… Những yếu tố này thường gây thiệt hại trên phạm vi rộng, để lại
hậu quả lâu dài. Một khi khách hàng bị thiệt hại xuất phát từ các yếu tố trên thì khả năng
thanh toán các khoản vay tới hạn gần như là không thể. Do đó, các yếu tố này thường gây ra
nợ quá hạn, nợ xấu ngoài tầm dự đoán của các ngân hàng.
1.3.2. Các yếu tố chủ quan:

- Thẩm định và giám sát vốn cho vay chưa tốt: Công tác thẩm định là khâu quan trọng
nhất của quá trình cho vay vì nó xác định chính xác khách hàng có khả năng được vay hay
không. Công việc này cần phải xác định nhiều nguồn thông tin để đánh giá khách hàng, làm
cơ sở cho các công tác khác sau này. Ví dụ như đối với hoạt động tín dụng cho vay tín chấp
cá nhân, khách hàng là hộ kinh doanh cá thể cần vay vốn bổ sung vốn kinh doanh. Cán bộ
tín dụng khi thẩm định phải biết khách hàng này kinh doanh thuận lợi không, mua hàng từ
đâu và bán hàng cho ai, doanh số như thế nào, lợi nhuận hàng năm là bao nhiêu, ngành nghề
kinh doanh có mang tính chu kỳ hay không, các hóa đơn, chứng từ chứng minh có đáng tin
cậy không… Chỉ cần một thông tin không chính xác có thể dẫn đến việc đánh giá khách
hàng không đúng và dẫn tới khả năng phát sinh nợ quá hạn, nợ xấu. Điều này cho thấy một
khi cán bộ tín dụng thẩm định không tốt sẽ không nhận thấy được rủi ro tiềm ẩn gây ra các
khoản nợ xấu. Nếu các bộ tín dụng có năng lực thẩm định kỹ càng và nắm rõ khách hàng
thật tốt thì có khả năng hạn chế được nợ quá hạn, nợ xấu phát sinh.
Song song với công tác thẩm định, công tác giám sát vốn vay đối với khách hàng
cũng rất quan trọng vì nếu khách hàng sử dụng đúng với mục đích như cam kết thì sẽ hạn
chế được phát sinh nợ xấu do đã đánh giá được nguồn trả nợ ngay từ ban đầu như thế nào.
Nếu khách hàng không sử dụng đúng mục đích và chuyển vốn cho các lĩnh vực khác mà
khách hàng không thông thạo sẽ dễ bị thua lỗ và không thanh toán được khoản nợ khi đến
hạn, làm phát sinh nợ quá hạn và là nguyên nhân nợ xấu tăng nhanh tại các ngân hàng.
- Năng lực tài chính của khách hàng: Đây là yếu tố quan trọng dẫn đến việc các
khoản vay của khách hàng có bị quá hạn hay không. Nếu khách hàng có năng lực tài chính
vững mạnh, sẽ giúp họ có khả năng thanh toán được khoản vay đúng hạn và ngược lại họ sẽ
bị quá hạn khoản vay của mình. Năng lực tài chính của khách hàng cũng là một trong những
yếu tố quan trọng giúp xác định có cho vay được hay không đối với một khách hàng. Có rất
nhiều yếu tố để xác định năng lực tài chính của khách hàng, ví dụ như đối với doanh nghiệp
phải biết được khách hàng đang sản xuất mặt hàng nào, thị trường đầu ra ở đâu, doanh số
bán như thể nào, máy móc thiết bị , cách quản lý ra sao, … Đặc biệt quan trọng là nguồn trả
nợ của khách hàng, các thông tin và chứng từ khách hàng cung cấp về nguồn lực tài chính có
mức độ tin cậy và mức độ ổn định nguồn thu nhập như thế nào… Điều này rất quan trọng
trong việc xác định khả năng trả nợ, thời hạn vay của khách hàng và nó ảnh hưởng trực tiếp

tới khoản vay có bị chuyển sang nợ xấu hay không.
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
14
- Lãi suất: Mức lãi suất ảnh hưởng rất lớn tới khả năng thanh toán các khoản vay khi
đến hạn của khách hàng. Nếu mức lãi suất càng thấp, khách hàng càng cảm thấy mức trả lãi
định kỳ thấp và ít gây áp lực cho họ hơn; hơn nữa, họ có khả năng thanh toán đúng hạn cao
hơn. Ngược lại, mức lãi suất càng cao thì càng làm cho khách hàng cảm thấy trả lãi là một
gánh nặng và làm giảm mức lợi nhuận của họ xuống. Đồng thời, ngân hàng nào có lãi suất
càng thấp thì số lượng khách hàng đến vay càng nhiều và ngược lại vì mức tăng của nguồn
thu nhập không tăng kịp với mức tăng của lãi suất nên khách hàng ít vay hoặc hạn chế vay
với mức lãi suất cao. Trên thực tế vẫn có khách hàng vay với lãi suất cao vì họ cần vốn nhiều
hoặc gấp nên chỉ có một số ít ngân hàng đáp ứng được yêu cầu của họ. Một số khác có
nguồn tài chính dồi dào và hoạt động kinh doanh rất tốt nên có thể chấp nhận được. Tuy
nhiên, khi vay với lãi suất cao cũng có không ít trường hợp bị quá hạn và chuyển sang nợ
xấu vì gánh nặng về lãi suất định kỳ cao trong khi nguồn tài chính không ổn định hoặc đầu
ra không như kỳ vọng. Do đó, mức lãi suất cũng góp phần ảnh hưởng đến việc phát sinh nợ
xấu ở các ngân hàng.
1.4. Tác động của nợ xấu đến hoạt động kinh doanh của các NHTM:
Nợ xấu có thể ảnh hưởng rất nặng nề đến kết quả kinh doanh của các NHTM nếu như
ngân hàng không kiểm soát được. Sau đây là một số tác động của nợ xấu:
- Một là, ngân hàng không thu hồi được vốn và/hoặc lãi cho vay trong khi vẫn phải
hoàn trả cho các khoản vốn huy động dẫn đến mất cân đối thu chi, rơi vào vòng quay vốn tín
dụng giảm, chi phí của ngân hàng sẽ tăng lên và kết quả cuối cùng làm ngân hàng suy giảm
hiệu quả hoạt động.
- Hai là, Ngân hàng có thể rơi vào tình trạng mất khả năng thanh khoản, rủi ro thanh
khoản vì phải sử dụng nguồn vốn của mình để trả cho người gửi tiền thay cho khoản thu hồi
từ khách hàng nợ. Do đó ngân hàng phải thu hẹp quy mô kinh doanh, năng lực tài chính
giảm sút, uy tín và sức cạnh tranh giảm, kết quả kinh doanh xấu dần. Điều này có thể dẫn
đến nguy cơ thua lỗ hoặc phá sản nếu không có biện pháp xử lý kịp thời.
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM

15
CHƯƠNG II : THỰC TRẠNG NỢ XẤU TẠI VIỆT NAM
2.1. Thực trạng nợ xấu của các NHTM Việt Nam:
2.1.1. Tình hình nợ xấu những năm 2008-2012:
Theo số liệu của NHNN, từ năm 2008 đến nay, nợ xấu của các tổ chức tín dụng tại
Việt Nam có xu hướng tăng nhanh. Trung bình giai đoạn 2008 - 2011, dư nợ xấu bình quân
khá cao, khoảng 51%. Theo báo cáo của các NHTM, tỷ lệ nợ xấu toàn ngành tại thời điểm
30/11/2012 là 3,43%, song theo báo cáo của NHNN trước Quốc hội, nợ xấu tại thời điểm
thanh tra của NHNN là 8,82% tổng dư nợ tín dụng của nền kinh tế, số tuyệt đối khoảng
250.000 tỷ đồng (tương đương 10% GDP). Ngoài ra, con số nợ xấu này chưa tính đến nợ tồn
đọng xây dựng cơ bản (chủ yếu của các địa phương), hiện đang dự tính khoảng 90.000 tỷ
đồng. Theo các chuyên gia kinh tế, nợ xấu tập trung chủ yếu vào lĩnh vực bất động sản và
chứng khoán; trong đó nợ xấu tại khu vực doanh nghiệp nhà nước (DNNN) rất lớn. Những
số liệu nghiên cứu giai đoạn này cho thấy, khu vực DNNN hiện đóng góp 70% nợ xấu của
toàn hệ thống, trong đó 53% số nợ xấu thuộc về các tập đoàn kinh tế, tổng công ty. Xu
hướng gia tăng dư nợ của các doanh nghiệp sẽ góp phần làm cho tình hình nợ xấu của các tổ
chức tín dụng ngày càng nghiêm trọng hơn. Nợ xấu của các tổ chức tín dụng theo một số
ngành nghề đặc biệt tăng nhanh, trong đó có 6 ngành kinh tế chiếm tỷ lệ nợ xấu cao nhất, là:
công nghiệp chế biến, chế tạo chiếm 22,5% tổng nợ xấu toàn hệ thống; hoạt động kinh
doanh bất động sản và dịch vụ lần lượt chiếm 7,83% và 19,25%; buôn bán, sửa chữa, ô tô, xe
máy 18,52%; vận tải, kho bãi chiếm 11% và xây dựng là 9,5%. Việc gia tăng nợ xấu nhóm
thương mại và dịch vụ, trong đó có ngành vận tải biển, cho thấy khó khăn của thị trường tiêu
thụ hàng hóa và dịch vụ trong nước và quốc tế đã tác động mạnh đến ngành này.
Bảng 1: Nợ xấu của các NHTM Việt Nam giai đoạn 2008-2012
Đvt: tỷ đồng, %
Năm 2008 2009 2010 2011 2012
Tổng nợ xấu
26.970
35.875 49.064 85.967 185.205
Tổng dư nợ 242.857 1.750.000

2.271.50
0
2.504.91
1
3.086.750
Tỷ lệ nợ xấu/ tổng dư nợ
2,17
2,05 2,16 3,43
6,00
Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động của NHNN Việt Nam giai đoạn 2005 - 2012
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
16
2.1.2. Tình hình nợ xấu nửa đầu năm 2013:
Những tháng đầu năm 2013, tỷ lệ nợ xấu tiếp tục tăng cao ở mức 4,67% (vào tháng
4/2013) và đến tháng 6 giảm xuống còn 4,46%. Mức giảm này được NHNN đánh giá là do
các NHTM đã tăng cường trích lập dự phòng rủi ro theo quy định, thu hồi và xử lý một phần
nợ xấu. Tuy vậy, con số này vẫn được xem là khá cao vì theo ước tính thì nợ xấu đã chiếm
khoảng gần 6% GDP và đang có nguy cơ gia tăng. Hơn nữa, chỉ trong vòng 5 tháng, tỷ lệ nợ
xấu giảm nhanh đã đặt ra nhiều vấn đề cần xem xét. Nhiều chuyên gia kinh tế cũng lo ngại
về tỷ lệ nợ xấu thực mà các ngân hàng chưa công bố còn cao hơn nhiều. Vì vậy, trong thực
tế của bức tranh tài chính, tiền tệ Việt Nam, nợ xấu là vấn đề đáng báo động.
Hình 2.1: Tỷ lệ nợ xấu/tổng dư nợ các tháng đầu năm 2013 (đvt: %)
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tổng hợp
Trong nửa đầu năm 2013, chỉ có một số ngân hàng có tỷ lệ nợ xấu giảm, đa phần các
ngân hàng còn lại đều có tỷ lệ nợ xấu tăng đáng kể. Điểm chung của các ngân hàng có tỷ lệ
nợ xấu tăng là tốc độ tăng trưởng nợ xấu đều cao hơn nhiều so với tốc độ tăng trưởng tín
dụng. Cụ thể, tỷ lệ nợ xấu tại thời điểm 31/12/2012 so với 30/6/2013: Vietcombank từ 2,26%
lên 2,81%; VietinBank từ 1,46% lên 2,1%; Eximbank từ 1,32% lên 1,49%; Sacombank từ
1,89% lên 2,5%; MB từ 1,86% lên 2,45%; ACB từ 2,5% lên gần 3%; SHB từ 8,51% lên
9,04%; Techcombank từ 2,69% lên 5,28%; Navibank từ 5,6% lên 6,1%. Tuy nhiên, tình hình

nợ xấu vẫn khá lạc quan khi phần lớn ngân hàng đều kiểm soát được dưới 3% tổng dư nợ,
ngoại trừ ba đơn vị có nợ xấu trên 3% gồm: NaviBank (6,1%), SHB (9,04%) và
TechcomBank (5,28%).
Hình 2.2: Tỷ lệ nợ xấu ở một số NHTM Việt Nam tại thời điểm 31/12/2012 và
30/6/2013 (đvt: %)
Nguồn: Nhóm nghiên cứu tổng hợp
Điểm đáng chú ý là nợ xấu ở các ngân hàng này gia tăng liên tục ở nợ nhóm 5 (nợ có
khả năng mất vốn). Tại thời điểm 30/06/2013, nợ nhóm 5 đã chiếm gần 50% tổng nợ xấu,
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
17
tức là chỉ tính riêng với nhóm các ngân hàng niêm yết đã lên đến hơn 14 nghìn tỷ đồng.
Trong đó, ba ngân hàng lớn nhất đã công bố số liệu là BIDV, Vietcombank và Vietinbank
chiếm hơn 23.100 tỷ đồng nợ xấu, gần bằng mức tổng lợi nhuận là 24.000 tỷ đồng của toàn
hệ thống. Cụ thể, nợ xấu của BIDV gần 9.400 tỷ đồng, của Vietcombank 6.687 tỷ đồng và
Vietinbank là 7.027 tỷ đồng. Số nợ xấu của ba ngân hàng này cũng cao hơn rất nhiều so với
tổng nợ xấu của các ngân hàng như SHB, MB, ACB, Sacombank, Techcombank, Eximbank
cộng lại.
Đến thời điểm này, số liệu chính xác về nợ xấu vẫn còn là một ẩn số khi hơn một nửa
các ngân hàng thương mại chưa công bố báo cáo tài chính. Có lẽ một trọng số khác nằm ở
Agribank, khi ngân hàng này chiếm tới khoảng 15% tổng dư nợ của nền kinh tế tính đến
cuối tháng 6/2013. Tỷ lệ nợ xấu của Agribank cuối 2012 là 5,8%, giảm so với trước, nhưng
từ đó đến nay chưa có cập nhật chính thức nào. Trong gần hai năm qua Agribank đã nỗ lực
tự tái cơ cấu với sự hỗ trợ của NHNN, giảm thiểu dư nợ ở lĩnh vực bất động sản (một trong
những lĩnh vực chính làm phát sinh nợ xấu trước đây) sang chuyên trách nông nghiệp và
nông thôn như một hướng hạn chế phát sinh nợ xấu, bằng chứng là tỷ trọng cho vay nông
nghiệp và nông thôn đã được nâng từ 60% lên hơn 70%. Điều này đem đến kỳ vọng tình
hình nợ xấu của Agribank sẽ khả quan hơn đến cuối năm 2013.
Nhìn chung, ước tính số liệu cấp tín dụng từ nhóm ngân hàng đã công bố báo cáo tài
chính chiếm trên dưới 75% tổng dư nợ của hệ thống, nhưng nợ xấu lại đều dưới 3%. Liệu
đây có phải là một tín hiệu khởi sắc về chất lượng tín dụng trong hệ thống ngân hàng thương

mại hay các ngân hàng đã cố tình "làm đẹp" cân đối và số liệu nợ xấu chưa được phản ánh
chính xác. Theo đó, tỷ lệ nợ xấu cập nhật từ NHNN (thông qua báo cáo tổng hợp của các
ngân hàng thành viên) gần đây đều từ 4,5 - 4,7%, chưa kể con số qua giám sát từ xa của cơ
quan tranh tra còn cao hơn nhiều.
2.2. Nguyên nhân nợ xấu hình thành và gia tăng ở các NHTM Việt Nam:
Nợ xấu cao sẽ dẫn theo nhiều hệ lụy. Nợ xấu được các nhà khoa học bàn thảo nhiều
và được xem là nguyên nhân cơ bản gây tắc nghẽn sự lưu thông lành mạnh của nền kinh tế,
gây mất an toàn cho hệ thống ngân hàng và cũng phản ánh khó khăn của sản xuất kinh doanh
của DN nhìn từ góc độ chỉ số hàng tồn kho tăng cao. Nợ xấu tăng cao đã và đang tác động
tiêu cực đến nền kinh tế, cản trở quá trình tái cơ cấu, nhất là tái cơ cấu hệ thống ngân hàng,
tái cơ cấu DNNN và làm giảm niềm tin của người dân vào vai trò quản lý, điều hành của
Chính phủ. Để khắc phục tình trạng này cần nhiều thời gian cũng như cần giải quyết nhiều
vấn đề tồn đọng khác. Vậy nguyên nhân dẫn đến nợ xấu tăng cao do đâu?
2.2.1.Từ các yếu tố vĩ mô:
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
18
- Khủng hoảng kinh tế thế giới: Có nhiều ý kiến cho rằng do ảnh hưởng của cuộc
khủng hoảng kinh tế tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu dẫn đến tình hình hoạt động kinh
doanh của hầu hết các cá nhân, tổ chức gặp khó khăn vì vậy nợ xấu của hệ thống các tổ chức
tín dụng có chiều hướng gia tăng.
- Cơ chế xử lý tài sản đảm bảo: Trên thực tế ngân hàng gặp không ít khó khăn trong
việc xử lý tài sản đảm bảo. Hầu hết các khoản vay của khách hàng đều có tài sản đảm bảo
nhưng việc xử lý nó để thu hồi nợ là hết sức khó khăn do sự chồng chéo giữa các văn bản
pháp.
Ví dụ: Thông tư liên tịch số 03/2001/TTLT -NHNN-BTP- BTC-TCĐC giữa Ngân
hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp, Bộ Công an, Bộ Tài chính, Tổng cục địa chính ngày 29/4/2001
quy định tổ chức tín dụng không được trực tiếp bán hay được trực tiếp nhận quyền sử dụng
đất để thay thế cho việc thực hiện nghĩa vụ bảo đảm. Theo khoản 3, Mục III của Thông tư
này, nếu không đạt được sự thoả thuận của các bên thì tổ chức tín dụng phải đưa ra bán đấu
giá hay khởi kiện ra toà. Trong khi đó, Nghị định số 178 lại cho phép tổ chức tín dụng có

quyền xử lý tài sản đảm bảo nếu không đạt được sự thoả thuận của các bên. Nếu mang ra tòa
thì thời gian xử lý rất dài, thủ tục rườm rà, phức tạp, qua nhiều khâu, nhiều cấp, quá trình
bàn giao tài sản chậm làm cho tài sản hư hỏng, giá trị thu hồi thấp hơn dự kiến ban đầu,
nhất là trong lĩnh vực tàu biển. Từ lúc khởi kiện đến cưỡng chế, thi hành một vụ mất ít nhất
2 năm, trung bình mất 8-9 năm. Tiếp đến là sự phối hợp không đồng bộ giữa cơ quan thẩm
định, cơ quan bán đấu giá
- Cơ chế xử lý nợ xấu: Trước năm 2000, các tổ chức tín dụng không được trích lập
quỹ dự phòng rủi ro, do vậy nợ xấu tích tụ ngày một lớn, nhưng không có nguồn để bù đắp.
Từ năm 2001 trở đi, các ngân hàng mới được phép trích lập quỹ dự phòng rủi ro và sử dụng
quỹ này tạo nguồn tài chính chủ động trong việc xử lý rủi ro tín dụng. Chính phủ cũng cho
phép thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản (AMC) vào năm 2001 và Công ty
Mua bán nợ Việt Nam (DATC) vào năm 2003. Nhưng hiệu quả còn rất hạn chế, AMC chủ
yếu phục vụ cho ngân hàng mẹ, chỉ giới hạn mua bán các khoản nợ cho khách hàng vay, do
không đủ năng lực tài chính và cả kỹ năng để xử lý nợ xấu. DATC hoạt động theo cơ chế
kinh doanh (phải bảo toàn vốn, đồng thời có lợi nhuận) trong khi mua bán nợ là hoạt động
mạo hiểm và vẫn còn hạn chế tiềm lực tài chính so với quy mô nợ xấu của các NHTM.
2.2.2. Từ phía các ngân hàng thương mại:
- Thứ nhất, tổ chức, nhân sự và biện pháp quản trị rủi ro của các NHTM còn nhiều
hạn chế, chỉ có khoảng 40% ngân hàng thương mại tiếp cận được chuẩn quốc tế (Basel 3).
Công tác thẩm định chưa thật sự hiệu quả ở hầu hết các NHTM, các cán bộ ngân hàng chưa
xác định được quy mô kinh doanh thực sự của khách hàng, khả năng cạnh tranh của khách
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
19
hàng đối với ngành nghề mà họ đang kinh doanh, chưa kiểm soát được nguồn thu và sử dụng
nguồn để có thể đưa ra một hạn mức cho vay và cách thức giám sát hợp lý. Một số ít tài sản
đảm bảo còn được định giá vượt khung hay tài sản chưa được điều tra kỹ nên gặp rắc rối về
quyền sở hữu.
Ví dụ: Không ít khách hàng, khi được kiểm tra về việc sử dụng vốn sau khi vay cho
biết một phần vốn vay thực sự vào kinh doanh, phần khác dùng cho mục đích tiêu dùng cá
nhân Đến khi phần vốn đầu tư kinh doanh thua lỗ, không còn nguồn khác để trả nợ ngân

hàng và nợ xấu phát sinh.
- Thứ hai, các NHTM vì mục tiêu lợi nhuận theo đuổi tăng trưởng tín dụng trong thời
gian dài, luôn trên 20%, thậm chí lên tới 51,39% (năm 2007), nhưng không bền vững. Các
hợp đồng cấp tín dụng lớn phần nhiều tập trung vào các lĩnh vực mạo hiểm, không ổn định
như là bất động sản (BĐS). Dư nợ cho khu vực này chiếm dưới 16% nhưng các tài sản thế
chấp bằng BĐS cho các khoản vay khác nhau chiếm tới 60-80% tổng giá trị tài sản thế chấp.
Khi thị trường BĐS suy giảm, những khoản nợ xấu, nợ quá hạn được thế chấp bởi BĐS sẽ
rất khó thanh lý. Việc thanh lý mạnh các tài sản thế chấp sẽ tiếp tục khiến giá BĐS giảm
thêm và càng làm trầm trọng tình hình nợ xấu của nền kinh tế. Chính đặc điểm này khiến
cho công tác xử lý nợ xấu của các NHTM sẽ gặp nhiều trở ngại hơn trong bối cảnh hiện nay.
- Thứ ba, là nguồn cung cấp thông tin. Ngoài những thông tin do khách hàng cung
cấp, cán bộ tín dụng cũng gặp nhiều khó khăn với các kênh thông tin về khách hàng, rất khó
kiểm chứng được toàn bộ những thông tin mà khách hàng cung cấp cho ngân hàng.
Ví dụ: Doanh nghiệp còn sử dụng đồng thời hai hệ thống kế toán, một báo cáo kết
quả hoạt động kinh doanh luôn lỗ hay lợi nhuận rất thấp để đối phó với cơ quan thuế và một
luôn có lợi nhuận khi đặt quan hệ giao dịch với ngân hàng.
- Thứ tư, vấn đề sở hữu chéo, đầu tư ngoài ngành của các ngân hàng và DNNN diễn
ra phổ biến đã dẫn tới các khoản cho vay, đầu tư lòng vòng, bất chấp quy định, gây hậu quả
nghiêm trọng.
- Thứ năm, việc một số NHTM nới lỏng điều kiện cho vay khiến nợ xấu tăng cao hay
thực hiện hành vi đảo nợ, che dấu nợ bằng cách hạch toán nợ vào tài khoản phải thu, ủy thác
đầu tư Do tính minh bạch còn hạn chế, số nợ xấu công bố qua báo cáo của tổ chức tín dụng
không đúng thực chất, làm cho số lũy kế nợ xấu thực tăng theo thời gian và việc xử lý ngày
càng khó khăn.
- Thứ sáu, một số cán bộ ngân hàng suy thoái đạo đức nghề nghiệp, cấu kết, móc
ngoặc với doanh nghiệp để trục lợi cá nhân và cho vay không đúng quy định.
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
20
- Cuối cùng, hiệu quả công tác thanh tra, giám sát còn hạn chế, nhất là không kịp thời
phát hiện, ngăn chặn và xử lý các vi phạm quy định về hạn chế cấp tín dụng và đầu tư một số

lĩnh vực rủi ro cao.
2.2.3. Từ phía khách hàng vay vốn:
- Thứ nhất, phần lớn các khoản nợ xấu của NHTM là khoản cấp tín dụng cho các
Doanh nghiệp. Do đó nợ xấu tăng cao cũng từ sự làm ăn thua lỗ của các doanh nghiệp, nhất
là DNNN, có đến 70% nợ xấu ngân hàng là nợ của các DNNN. Đây là nhóm có nhiều thuận
lợi trong tiếp cận tín dụng và chiếm thị phần lớn trong tổng dư nợ tín dụng của toàn thể nền
kinh tế. Phần nợ xấu lớn thứ hai (sau DNNN) là xuất phát từ một số doanh nghiệp tư nhân
lớn, trong đó tập trung chủ yếu là các khoản vay đầu tư bất động sản, chứng khoán, đầu tư
ngoài ngành
Hầu hết các doanh nghiệp, nhất là DNNN đều có chi phí vốn vay lớn, thậm chí rất
lớn, trong khi doanh thu giảm mạnh so với cùng kỳ năm trước dẫn đến mất cân bằng về tài
chính. Nhiều đơn vị tổng lãi vay phải trả lớn gấp nhiều lần quỹ tiền lương, tỷ lệ sinh lời của
tài sản nhỏ hơn lãi suất vay, hiệu quả kinh doanh thấp, tài chính kém lành mạnh, vốn chủ sở
hữu nhỏ và khả năng ứng phó với sự thay đổi môi trường kinh doanh hạn chế, trong khi phải
đối diện với những khó khăn lớn của kinh tế trong, ngoài nước đó là sức mua kém, tồn kho
lớn, doanh thu giảm sút, doanh nghiệp không có nguồn để trả nợ cả gốc và lãi. Các khoản
vay ngân hàng vì thế mà trở thành nợ xấu.
Có thể điểm qua kết quả hoạt động sản xuất, kinh doanh của một số doanh nghiệp
đang hoạt động trong các lĩnh vực vận tải, bất động sản - xây dựng, tài chính như sau: Công
ty cổ phần Container phía Nam, vốn điều lệ thực góp là 110 tỉ đồng, kết quả hoạt động sản
xuất kinh doanh trong sáu tháng đầu năm 2012 âm 23,45 tỷ đồng, lỗ luỹ kế hiện tại 105,4 tỷ
đồng, Công ty cổ phần Xây dựng Hạ tầng Sông Đà lỗ sáu tháng đầu năm 2012 là 16,3 tỷ
đồng. Công ty cổ phần Chứng khoán Ngân hàng Sài Gòn Thương tín, lỗ lũy kế đến
30/6/2012 lên tới 1.772 tỷ đồng, vốn chủ sở hữu âm 256 tỷ đồng. Các DNNN lớn như:
Vinashin, Vinalines, Vinaconex, Tập đoàn Than - Khoáng sản, Tập đoàn Điện lực, Tập đoàn
Sông Đà thì những khoản lỗ là không nhỏ (dư nợ của 11 tập đoàn kinh tế chiếm gần 53%
tổng dư nợ của DNNN).
- Thứ hai, việc sử dụng vốn sai nguyên tắc đã dẫn tới nợ quá hạn, nợ xấu. Nhiều công
ty dùng nợ ngắn hạn đầu tư dài hạn. Khi đang gặp khó khăn về vốn, việc DN lấy vay ngắn
hạn cho đầu tư dài hạn là khá phổ biến.

Ví dụ: Tập đoàn Thái Hòa dùng tới 263 tỷ đồng các khoản nợ ngắn hạn, trong đó chủ
yếu là nợ đã quá hạn, để đầu tư dài hạn, dẫn đến mất cân đối tài chính nghiêm trọng, phải
phát mại tài sản để trả nợ ngân hàng khi các khoản nợ đến thời gian thu hồi. Từ một doanh
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
21
nghiệp tư nhân lớn trong sản xuất và chế biến nông sản, đến giữa năm 2012, Tập đoàn Thái
Hòa đã phải đứng trước bờ vực phá sản.
- Thứ ba, nhiều công ty dùng vốn vay đầu tư ra ngoài ngành, đặc biệt vào BĐS. Theo
báo cáo của các tổ chức tín dụng, vào thời kỳ đỉnh cao, dư nợ cho vay BĐS chiếm khoảng
10% tổng dư nợ tín dụng của cả nền kinh tế (năm 2011). Một nghiên cứu của Ủy ban Giám
sát Tài chính Quốc gia cũng cho thấy tại thời điểm tháng 6/2011, dư nợ BĐS chiếm 9,95%
tổng dư nợ, tương đương 245.000 tỉ đồng. Tỉ lệ này khá cao so với một số nước trong khu
vực như Thái Lan 6%, Malaysia 7% Trong bối cảnh thị trường BĐS vừa đóng băng, vừa
suy giảm, thì đây là nguy cơ vừa làm mất vốn, vừa làm mất khả năng thanh toán của doanh
nghiệp.
CHƯƠNG III: ĐỀ XUẤT CÁC GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG
HỆ THỐNG NHTM VIỆT NAM
3.1. Bài học kinh nghiệm về xử lý nợ xấu của các quốc gia trên thế giới:
3.1.1. Kinh nghiệm của Mỹ:
Tổng quan về hệ thống ngân hàng ở Mỹ: nước Mỹ có hệ thống ngân hàng lớn nhất thế
giới. Vào năm 2010, hệ thống ngân hàng Mỹ có khoảng 7.135 NHTM, khoảng 85.000 chi
nhánh. Đứng đầu trong hệ thống ngân hàng Mỹ là Cục dự trữ Liên bang (NHTW của Mỹ)
FED (thành lập năm 1913) gồm một hệ thống 12 Ngân hàng dự trữ liên bang.
Kinh nghiệm xử lý nợ xấu trong hệ thống ngân hàng Mỹ:
- Cuộc đại suy thoái kinh tế năm 1932: Nhằm giảm nợ xấu trong các ngân hàng,
Chính phủ thành lập Tổng công ty tái thiết tài chính vào năm1932 với số vốn ban đầu Quốc
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
22
hội cung cấp 500 triệu USD, được quyền vay đến 2 tỷ USD. Công ty này tiến hành chuyển
các khoản nợ xấu của các ngân hàng thành cổ tức ưu đãi. Việc làm này nhằm có hiệu quả

nhưng cũng còn hạn chế vì yêu cầu công khai số lượng vay và tên tổ chức đi vay nên gây
ảnh hưởng đến uy tín của tổ chức đi vay. Bên cạnh đó Chính phủ cũng tiến hành quốc hữu
hóa một số ngân hàng và để các ngân hàng yếu kém phá sản.
- Khủng hoảng kinh tế năm 1980: Khủng hoảng nợ và tiết kiệm (Saving & Loan) tại
Mỹ trong thập kỷ 1980 có nguyên nhân từ các khoản vay được định giá thấp và chứa nhiều
rủi ro tiềm ẩn. Nếu khoản tín dụng rủi ro trở thành nợ xấu, phần lỗ sẽ nhận được bảo lãnh từ
Chính phủ. Sau khi khủng khoảng xảy ra, để xử lý số nợ khó đòi liên quan đến các khoản
vay thế chấp mua nhà, công ty xử lý nợ (RTC) mua các khoản nợ khó đòi, thực hiện nghiệp
vụ chứng khoán hóa với các sản phẩm chứng khoán được đảm bảo bởi tài sản cầm cố và bán
lại cho các nhà đầu tư. RTC cũng đã tiến hành mua lại các ngân hàng nhỏ, các khoản nợ xấu,
các tài sản thiếu thanh khoản với tổng chi phí là 400 tỷ USD.
- Khủng hoảng kinh tế năm 2008: Chính sách tiền tệ nới lỏng của Mỹ đã tạo ra bong
bóng bất động sản và thị trường chứng khoán. Sự bùng nổ cho vay dưới chuẩn, các công cụ
tài chính mới và sự bãi bỏ các quy định liên quan đến hoạt động của ngân hàng làm gia tăng
nợ xấu, làm xói mòn niềm tin của các nhà đầu tư, từ đó dẫn đến vấn đề thanh khoản trong
lĩnh vực ngân hàng. Cuộc khủng hoảng bắt đầu với sự sụp đổ của Lehman Brothers và một
số ngân hàng, tổ chức tài chính khác, sau đó nhanh chóng lan rộng ra nền kinh tế toàn cầu.
Để phục hồi nền kinh tế, giải quyết hậu quả nặng khủng hoảng Chính phủ Mỹ nỗ lực
điều tiết nền kinh tế vĩ mô và kết hợp các chương trình như: Chương trình mua vốn (PPP),
Chương trình hỗ trợ vốn (CAP), Kế hoạch Ổn định Tài chính, Quỹ công – tư cho việc mua
lại tài sản ( PPIP). Cụ thể:
+ NHTW Mỹ cắt giảm lãi suất để khơi thông dòng vốn, giảm lãi suất cơ bản từ
5%/năm xuống 0.25%/năm, tiếp quản một số tổ chức tín dụng lớn như Freddie Mac và
Fannie nhằm giúp những tổ chức này tránh khỏi nguy cơ phá sản, nỗ lực bảo lãnh cho các tổ
chức tín dụng với con số lên đến 1.300 tỷ USD đầu tư vào nhiều tài sản rủi ro khác nhau.
Chính phủ bơm tiền hỗ trợ thanh khoản cho các tập đoàn tài chính, cũng như kích thích tiêu
dùng và cho vay. Tập đoàn bảo hiểm lớn nhất thế giới AIG đã được chính phủ Mỹ bơm vào
85 tỷ USD. FED quyết định dùng 700 tỷ đôla để mua lại nợ xấu của các ngân hàng.
+ Một loạt các chương trình được triển khai đồng thời với các chính sách vĩ mô để
đưa nền kinh tế Mỹ vượt qua khủng hoảng như chương trình mua vốn CPP (Capital

Purchase Program) thực hiện vào tháng 10/2008 trong khuôn khổ Chương trình Cứu trợ Tài
sản có vấn đề TARP: CPP được phân bổ hơn 250 tỷ USD để mua những cổ phiếu ưu đãi của
các ngân hàng như Citigroup, JP Morgan Chase, Wells… Các cổ phiếu ưu đãi của ngân hàng
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
23
sẽ được trả 5%/cổ phần trong 5 năm đầu, và 9%/cổ phần những năm sau đó. Các cổ phiếu có
kỳ hạn thanh toán không giới hạn và dễ bị mua lại trong vòng 3 năm (hoặc sớm hơn). Và để
mua cổ phần ưu đãi, Chính phủ Mỹ đã đạt được một quyền chọn trong việc mua cổ phần phổ
thông có trị giá không quá 15% cổ phần ưu đãi.
+ Tiếp sau chương trình mua vốn, vào tháng 2/2009, chương trình hỗ trợ vốn và kế
hoạch ổn định tài chính được thực hiện đồng thời nhằm tăng cường hiệu quả. Chương trình
hỗ trợ vốn (CAP): là giai đoạn thứ hai của chương trình tái cơ cấu vốn ngân hàng (sau CPP).
Trong giai đoạn đầu tiên, tài chính sẽ được cung cấp thông qua các cổ phiếu ưu đãi. Cổ tức
là 9% mỗi cổ phần, cổ phiếu ưu đãi có thể được chuyển đổi thành cổ phần thường ở mức giá
được thiết lập (90% giá trị đóng cửa trung bình cho thời kỳ từ ngày 20/01 đến ngày 09/02).
Khi cổ phiếu ưu đãi không được chuyển đổi hoặc mua lại, 7 năm sau nó sẽ được tự động
chuyển đổi thành cổ phần thường.
+ Cùng với CAP đầu tháng 2/2009, một gói các biện pháp tài chính để hỗ trợ nền kinh
tế Mỹ đã được phê duyệt. Chương trình được đề ra nhằm giúp giảm nợ xấu trong lĩnh vực
bất động sản. Kế hoạch này gồm cuộc kiểm tra đầy căng thẳng tất cả các ngân từng ngân
hàng (mở rộng của chương trình CPP). Thiết lập quỹ đầu tư tư nhân để mua lại những tài sản
có vấn đề. Mở rộng chương trình cho vay TALF
2
.
+ Bên cạnh đó vào tháng 3/2009 với mục đích thu hút đầu tư 500-1000 tỷ USD để
mua tài sản có vấn đề từ các ngân hàng và khôi phục lại thị trường trong các khoản vay và
chứng khoán tài sản tài chính, Quỹ công – tư cho việc mua lại tài sản (PPIP) được thành lập,
vốn 75 – 100 tỷ USD của quỹ TARF và các quỹ bổ sung từ các nhà đầu tư tư nhân.
+ Trong lĩnh vực cho vay, một số ngân hàng lớn của Mỹ (JPMorgan, Bank of
American) tiến hành hoãn các vụ tịch thu tài sản, nỗ lực làm việc với người đi vay nhằm tạo

điều kiện cho họ có thể trả nợ với các biện pháp như giảm lãi suất, giảm giá trị các khoản chi
trả.
Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam: qua tìm hiểu về công tác xử lý nợ xấu của Mỹ,
một số giải pháp được rút ra cho Việt Nam như sau:
- Chính phủ hỗ trợ và cung cấp tiềm lực vốn đủ lớn thành lập công ty xử lý nợ xấu
tiến hành xử lý nợ xấu tại các ngân hàng trong toàn bộ nền kinh tế, tạo dựng một tiềm lực
vững mạnh về tài chính cũng như pháp lý cho công ty này.
2 TALF (Term Asset-Backed Securities Loan Facility) là Chương trình Tài trợ Bảo chứng định kỳ. TALF
được thiết kế để tạo tín dụng sẵn có đến khách hàng và doanh nghiệp với những điều kiện dễ dàng nhằm tạo
điều kiện thuận lợi cho việc phát hành chứng khoán dựa trên tài sản tài chính (ABS) và cải thiện thị trường
ABS.
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
24
- Mặt khác, có thể xử lý nợ bằng cách tiến hành mua lại các khoản nợ khó đòi, thực
hiện nghiệp vụ chứng khoán hóa với các sản phẩm chứng khoán được đảm bảo bởi tài sản
cầm cố và bán lại cho các nhà đầu tư.
- Thêm vào đó, cần hạ lãi suất và hỗ trợ thanh khoản cho các tập đoàn tài chính, cũng
như kích thích tiêu dùng và cho vay. Các ngân hàng cần có các biện pháp hỗ trợ khách hàng
như gia hạn nợ, giảm lãi suất, giảm giá trị các khoản cho vay giúp khách hàng có khả năng
trả nợ.
3.1.2. Kinh nghiệm của Trung Quốc:
Năm 1948, Ngân hàng nhân dân Trung Hoa với vai trò là NHTW được thành lập. Đến
năm 2011, tổng tài sản của các tổ chức tài chính - ngân hàng Trung Quốc đạt 113,28 nghìn
tỷ nhân dân tệ. Hiện nay, Trung Quốc có 4 NHTM lớn nhất là: Ngân hàng Trung Quốc,
Ngân hàng Xây dựng Trung Quốc, Ngân hàng Công thương Trung Quốc và Ngân hàng
Nông nghiệp Trung Quốc. Trong năm 2011, 4 đại ngân hàng này chiếm 55% tổng dư nợ cho
vay của toàn hệ thống ngân hàng Trung Quốc và ảnh hưởng lớn đến hoạt động của toàn bộ
nền kinh tế.
Kinh nghiệm của Trung Quốc trong việc xử lý nợ xấu:
- Từ cuối thập kỷ trước, nợ khó đòi hay còn gọi là nợ xấu trong các NHTM quốc

doanh Trung Quốc đã trở thành một quả bom hẹn giờ đặt trong lòng ngành tài chính nước
này, với ước tính mức nợ khó đòi lên tới khoảng 10-25% tổng dư nợ cho vay, mà chủ yếu là
các khoản vay của các DNNN. Điều này đã ảnh hưởng xấu đến hoạt động kinh doanh tại các
ngân hàng. Tuy vậy NHTW và các NHTM đã có những quy định và cải tổ nhằm giảm bớt số
nợ xấu trong hệ thống.
- Ban hành các quy trình thẩm định tín dụng sát sao, chặt chẽ ngay từ đầu nhằm hạn
chế nợ xấu: Theo quy định của Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (với tư cách là NHTW), bộ
phận tín dụng của NHTM cần phải có các quy trình kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay,
kịp thời thu thập thông tin để phân loại, kịp thời đề xuất kiểm tra và hoàn chỉnh hồ sơ phân
loại, kịp thời kiến nghị kiểm tra lại, chịu trách nhiệm về tính chân thực, tính chuẩn xác, tính
hoàn chỉnh của các dữ liệu phân loại, định kỳ báo cáo cho bộ phận quản lý rủi ro tín dụng
những thông tin phân loại nhằm tiến hành quản lý các khoản tín dụng, có sự phân biệt trong
quản lý đối với từng khoản tín dụng cụ thể, thực hiện các biện pháp cải tiến nhằm loại trừ và
xử lý rủi ro.
- Ban hành những quy định chặt chẽ về phân loại nợ xấu và trích lập dự phòng để
phòng ngừa các tổn thất: Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa đã ban hành các Hướng dẫn trích
lập dự phòng tổn thất cho vay và các công văn liên quan, yêu cầu các NHTM kiểm tra định
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM
25
kỳ đối với các loại tài sản dựa trên nguyên tắc thận trọng, dự kiến một cách hợp lý các khoản
tài sản có khả năng phát sinh tổn thất và trích lập dự phòng giảm giá tài sản đối với các tài
sản này. Đồng thời, phân loại tín dụng thành 5 nhóm: nợ đủ tiêu chuẩn (nhóm 1), nợ cần chú
ý (nhóm 2), nợ dưới tiêu chuẩn (nhóm 3), nợ nghi ngờ (nhóm 4), nợ có khả năng mất vốn
(nhóm 5), trong đó nợ nhóm 3, 4, 5 được gọi là nợ xấu. Việc trích lập dự phòng tổn thất cho
vay bao gồm: dự phòng chung và dự phòng cụ thể: Dự phòng chung được trích hàng tháng
và được xác định bằng 1% số dư cuối kỳ của các khoản tín dụng; Dự phòng cụ thể: Vào cuối
tháng, dựa theo kết quả phân loại nợ và sau khi khấu trừ giá trị tài sản thế chấp, NHTM trích
lập dự phòng cụ thể theo số dư các khoản tín dụng với tỷ lệ như sau: nhóm 1: 0%; nhóm 2:
5%; nhóm 3: 25%; nhóm 4: 50%; nhóm 5: 100%.
+ Thành lập các công ty quản lý tài sản (AMC) để xử lý nợ xấu tại các ngân hàng:

vào năm 1999 Trung Quốc đã thành lập 4 công ty quản lý tài sản với vốn điều lệ khoảng 5 tỷ
USD (tương đương 1% tổng số nợ xấu của hệ thống ngân hàng Trung Quốc). Bốn công ty
quản lý tài sản được thành lập để xử lý toàn bộ số nợ dưới chuẩn ước tính lên đến 670 tỷ
NDT, những công ty này được được thành lập theo mô hình của tổ chức Resolution Trust &
Corporation của Mỹ, được trao quyền ngoại lệ đặc biệt để xử lý, mua lại nợ xấu, thậm chí
đầu tư và sinh lời từ tài sản đảm bảo của những khoản nợ xấu này. Các tổ chức này có một
nhiệm vụ lớn đó là “dọn dẹp” các khoản nợ khó đòi và làm trong sạch bảng cân đối tài sản
của các NHTM. Về nhân lực, đội ngũ nhân viên của các tổ chức AMC chủ yếu là từ các
ngân hàng mẹ chuyển sang. Về vốn, chúng được Chính phủ cấp cho một khoản vốn ban đầu
để hoạt động (Bộ Tài chính cấp 10 tỷ NDT, tương đương 1,2 tỷ đôla, Ngân hàng Nhân dân
Trung Quốc cấp 500 tỷ NDT), còn lại từ nguồn phát hành 800 tỷ NDT trái phiếu cho các
ngân hàng để thu hút vốn hoạt động. Các tổ chức này có thể khởi xướng thanh lý tài sản,
hoán đổi nợ sang cổ phần, tổ chức đấu giá các khoản nợ, và kể cả tham gia trực tiếp vào
quản lý các doanh nghiệp vay nợ của tổ chức tín dụng mà họ đang xử lý. Tuy nhiên, chỉ có
các khoản nợ trước năm 1996 mới thuộc phạm vi quản lý của các công ty này.
+ Tái cấu trúc PBC nhằm tăng cường tính tự chủ và khả năng giám sát: năm 1998,
Chính phủ Trung Quốc tiến hành tổ chức lại Ngân hàng Nhân dân Trung Hoa (PBC) nhằm
tăng cường khả năng giám sát và tính độc lập, tự chủ trong quản lý, điều hành các chính sách
tiền tệ của NHTW. Tiếp theo là củng cố và tăng cường hệ thống giám sát tài chính bằng việc
thành lập Ủy ban Giám sát Ngân hàng Trung Hoa, tập trung vào công tác quản trị rủi ro ở
các ngân hàng. Ban hành hàng loạt văn bản và quy định mới, áp dụng những chuẩn mực kế
toán và kiểm toán độc lập khắt khe hơn và những thông lệ quản trị công ty hiện đại nhằm
nâng cao tính minh bạch, khôi phục, duy trì niềm tin của khách hàng, nhận diện những ngân
hàng có vấn đề để kịp thời có biện pháp hỗ trợ, xử lý. PBC đã tiến hành áp dụng các quy tắc,
quy định, định mức và tỷ lệ an toàn theo chuẩn mực của Ngân hàng Thanh toán Quốc tế
(BIS), tỷ lệ an toàn vốn (CAR) được nâng lên mức 8%; những quy định mới về phân loại
TCNHĐ2_N2 ĐỀ XUẤT GIẢI PHÁP NHẰM XỬ LÝ NỢ XẤU TRONG HỆ THỐNG NHTM

×