Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

XỬ LÝ NƯỚC THẢI BẰNG PHƯƠNG PHÁP VI SINH pptx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (104.67 KB, 6 trang )

XỬ LÝ NƯỚC THẢI BẰNG PHƯƠNG PHÁP VI
SINH

Tình trạng ô nhiễm môi trường do chất thải của các nhà
máy chế biến nông, lâm, hải sản đang diễn ra ở nhiều địa
phương. Mới đây, một kỹ sư ở tỉnh Quảng Bình đã nghiên
cứu và đưa ra phương pháp xử lý chất thải bằng vi sinh rất
thành công, hiệu quả cao với giá thật rẻ. Qua thực tế ở
nhiều nhà máy, có thể khẳng định đây là giải pháp hữu
hiệu.
Kỹ sư Hồ Xuân Hiếu, Phó Giám đốc phụ trách kỹ thuật của
Nhà máy tinh bột sắn Sê Pôn thuộc Công ty Thương mại
Quảng Trị cho biết, nước thải ở đây được xử lý bằng
phương pháp "truyền thống" là dùng hồ chứa để chất thải
thẩm thấu và bay hơi tự nhiên. Hậu quả là nguồn nước và
không khí của vùng chung quanh bị ô nhiễm nghiêm trọng,
ảnh hưởng đến đời sống dân cư.
Trước nguy cơ phải đóng cửa, nhà máy quyết định đầu tư
một dây chuyền xử lý hiện đại đang được áp dụng ở Trung
Quốc và Thái Lan. Dây chuyền này vận hành theo quy
trình: Cho hóa chất xuống nguồn nước thải rồi đưa qua
thiết bị kỵ khí ngược (UASB) để tạo ra hai sản phẩm, gồm
khí CH
4
và nước thải loại B. Tuy nhiên đầu tư ban đầu phải
mất 5,3 tỷ đồng, chiếm đến 25% giá trị đầu tư toàn bộ nhà
máy (đã có nhà máy lớn hơn phải đầu tư đến 21 tỷ đồng
cho dây chuyền này). Chưa hết, quá trình sản xuất còn phải
chi thêm cho mỗi tấn thành phẩm khoảng 10 nghìn đồng
gồm nhân công, hóa chất, điện
Đang loay hoay tìm nguồn vốn mua dây chuyền xử lý chất


thải thì kỹ sư Nguyễn Tỷ giới thiệu phương pháp mới. Nhìn
ông Tỷ vốc từng nắm bột trắng rải xuống bể nước thải đã
đóng màng cứng dày 30 cm, nồng nặc xú khí mà chẳng ai
tin sẽ có kết quả tốt đẹp.
Mẫu thử nghiệm nước thải khi chưa xử lý của nhà máy do
Chi cục Tiêu chuẩn - Đo lường - Chất lượng (TC-ĐL-CL)
Quảng Trị thực hiện cho thấy các chỉ tiêu BOD5, COD và
TSS đều ở mức rất cao, đến 2560.80, 8250.00 và 1694.00.
Vậy mà chỉ một tuần sau khi xử lý, tất cả tan ra thành nước,
mùi hôi biến mất đến 80%. Kiểm tra lại các chỉ tiêu BOD5,
COD và TSS ở hồ chứa cuối cùng đã giảm mạnh, chỉ còn
240.16, 781.20 và 280.50. Một tháng sau tuy chưa có kết
quả thử nghiệm mẫu nước thải nhưng nước trở nên trong và
bèo Nhật Bản bắt đầu phát triển. Giờ đây, Nhà máy Sê Pôn
có công suất 90 tấn sản phẩm mỗi ngày đã không còn mùi
hôi.
Chúng tôi cũng đến tận Nhà máy chế biến tinh bột sắn
Sông Dinh của Công ty CP Tư vấn và Xây dựng Bình Lợi
ở Quảng Bình, nơi áp dụng phương pháp xử lý này từ hơn
một năm nay. Khác với nhiều nơi chỉ đi ngang qua nhà máy
là mùi hôi nồng nặc, ở đây môi trường đã được cải thiện
đến mức các chuyên gia lâu năm trong nghề chế biến sắn
đến tham quan cũng nghĩ rằng ở đây đã ngừng sản xuất
hàng năm rồi!
Ông Hoàng Văn Thuyến, Giám đốc Công ty cho chúng tôi
xem kết quả xét nghiệm mẫu nước thải do Chi cục TC-ĐL-
CL tỉnh Quảng Bình thực hiện. Trước khi áp dụng phương
pháp xử lý của ông Nguyễn Tỷ, các chỉ tiêu BOD5, COD
và TSS lên đến hàng nghìn mg/l. Nhưng sau một tháng, các
chỉ tiêu ở hồ chứa thải cuối cùng chỉ còn 60, 90 và 42. Còn

mẫu nước ở vùng cửa cống thông ra sông Dinh chỉ còn là
12, 32 và 14
Không chỉ với nhà máy chế biến tinh bột sắn, tại Quảng
Bình có hai nhà máy chế biến mủ cao-su của Công ty cao-
su Việt Trung và Công ty Lệ Ninh từng bị ô nhiễm nghiêm
trọng, có nguy cơ phải đóng cửa nhưng nhờ phương pháp
xử lý đơn giản của ông Nguyễn Tỷ mà đã giải quyết được
dễ dàng.
Ông Lê Thanh Toán, Giám đốc Nhà máy chế biến mủ cao-
su Lệ Ninh, nhớ lại: "Trước đây chỉ đứng cách nhà máy vài
cây số đã phải bịt mũi, nhăn mặt. Nhà máy lại nằm cạnh
khu dân cư của thị trấn Lệ Ninh nên ảnh hưởng rất nặng, đã
có lúc phải tính đến chuyện đóng cửa, dời đi chỗ khác.
Nhưng ba năm nay, mỗi ngày chỉ có sáu lạng men rải
xuống đầu nguồn nước thải là đủ để sản xuất an toàn hai
tấn mủ khô, không khí không còn ô nhiễm như trước nữa".
Chúng tôi vào tận nhà máy có công suất 1.000 tấn sản
phẩm/năm này trong lúc vận hành và cũng như tại các nhà
máy tinh bột sắn, mùi hôi tại chỗ không đáng kể, còn môi
trường chung quanh được cải thiện đến lý tưởng.
Điều rất lạ, ban đầu tất cả giám đốc của các nhà máy đều có
suy nghĩ giống nhau là không tin ông Nguyễn Tỷ có thể
thành công. Bởi nạn ô nhiễm đang làm đau đầu không chỉ
các chủ doanh nghiệp mà cả giới nghiên cứu khoa học trên
thế giới, trong khi đó quy trình của ông kỹ sư "tay ngang"
này lại hết sức đơn giản và rẻ tiền. Từ không tin đến bất
ngờ vì hiệu quả thực tế, họ thông tin cho nhau và thương
hiệu men vi sinh của kỹ sư Nguyễn Tỷ ngày càng được giới
chế biến nông sản tìm đến. Nhiều nhà máy ô nhiễm bị "thổi
còi", bị đóng cửa, sau khi dùng phương pháp xử lý của ông

đều đã trở lại sản xuất bình thường.
Đến nay hàng chục nhà máy bị ô nhiễm ở Nghệ An, Quảng
Bình, Quảng Trị, Thừa Thiên - Huế, Quảng Ngãi, Ninh
Thuận, Bình Thuận, Tây Ninh, Kon Tum đã được xử lý
an toàn. "Thương hiệu" Nguyễn Tỷ cũng đã qua tận đất
Thái Lan, Trung Quốc
Chính ông Đài Kiến Quân, Tổng Giám đốc Nhà máy tinh
bột sắn Maple Leaf có công suất 1.000 tấn tinh bột/ngày ở
huyện Vũ Minh, tỉnh Quảng Tây (Trung Quốc) cho chúng
tôi hay rằng ông đã rất bất ngờ vì hiệu quả của phương
pháp xử lý chất thải của ông Nguyễn Tỷ. Với một huyện có
hơn nửa triệu ha sắn của Quảng Tây (Trung Quốc) và 38
nhà máy chế biến tinh bột sắn thì đây sẽ là giải pháp tối ưu
cho vấn nạn ô nhiễm môi trường.
Theo ông Nguyễn Tỷ, phương pháp này có thể áp dụng
được cho tất cả các cơ sở chế biến nông, lâm, hải sản.
Riêng với các cơ sở chế biến hải sản thì quy trình xử lý đơn
giản hơn nhiều
Vậy "công nghệ" xử lý chất thải bằng men vi sinh của ông
Nguyễn Tỷ là gì?
Sau nhiều năm tìm tòi, ông Nguyễn Tỷ, người từng được
báo chí tôn vinh là người Việt Nam đầu tiên thành công với
chế phẩm men xử lý hầm cầu, đã tạo ra được loại men
BIOLOGICAL. Đây là chế phẩm sinh học bao gồm các vi
sinh vật có lợi như Protaza, Lipasa, Xenluloza, Amylaza
giúp phân giải các chất hữu cơ có chứa đạm, đường,
xenlulo, khử hết mùi hôi của nước thải. Men
BIOLOGICAL không độc hại về mặt sinh học, không ăn
mòn các công trình xây dựng.
Tại các nhà máy chế biến tinh bột sắn và cao-su vừa được

xử lý thành công theo phương pháp này đều qua hai bước.
Bước một, vì các nhà máy đã sản xuất lâu ngày, lượng chất
thải dồn lại khối lượng khá lớn nên phải dùng lượng lớn
men BIOLOGICAL rải đều trên diện tích hồ chứa. Quá
trình vi sinh hóa chất thải sẽ diễn ra trong vòng 30 ngày.
Khi chất thải tồn đọng đã được xử lý xong thì chuyển sang
bước hai. Với giai đoạn này thì đơn giản hơn nhiều, chỉ cần
cho xuống đầu nguồn nước thải đầu ca vận hành một lượng
men theo tỷ lệ một kg men trên 20 tấn sản phẩm tinh bột.
Ông Hồ Xuân Hiếu, Phó Giám đốc Nhà máy Sê Pôn
(Quảng Trị) hạch toán: Chỉ cần 2.500 đồng là đủ để xử lý
cho mỗi tấn sản phẩm tinh bột. Và Nhà máy Sê Pôn không
phải đầu tư 5,3 tỷ đồng lắp đặt dây chuyền xử lý chất thải
nhập từ nước ngoài nữa và chi phí xử lý bằng men vi sinh
cũng chỉ bằng một phần tư số tiền cho mỗi tấn sản phẩm
nếu như vận hành dây chuyền hiện đại đó. Ông Lê Thanh
Toán, Giám đốc Nhà máy chế biến mủ cao-su Lệ Ninh
(Quảng Bình) cũng khẳng định chỉ cần 15 nghìn đồng để
sản xuất ra một tấn mủ khô, một tỷ lệ không đáng kể trong
giá thành sản phẩm mủ cao-su xuất khẩu
Hiệu quả của phương pháp xử lý chất thải bằng men vi sinh
BIOLOGICAL của ông Nguyễn Tỷ đã được kiểm chứng
qua thực tế ở nhiều nhà máy chế biến nông, lâm, hải sản và
có thể khẳng định đây là một giải pháp rất hữu hiệu, đơn
giản và giá rẻ, phù hợp khả năng nguồn vốn của nhiều cơ
sở chế biến. Xử lý chất thải bằng men vi sinh có lợi thế
vượt trội hơn các phương pháp dùng hóa chất hay cơ học.
Bởi không để di chứng tác hại môi trường, men vi sinh liên
tục phát triển theo hướng ngăn chặn ô nhiễm môi trường và
giá rẻ.

Với những tính năng hữu hiệu đó, phương pháp xử lý chất
thải ô nhiễm môi trường bằng men vi sinh của ông Nguyễn
Tỷ cần được các cơ quan chức năng của tỉnh Quảng Bình
và Bộ Tài nguyên - Môi trường đánh giá chính xác, đồng
thời chủ động tạo điều kiện thuận lợi cho phương pháp này
phổ biến rộng rãi. Bởi trong xu thế phát triển, ngày càng có
nhiều nhà máy, cơ sở chế biến nông, lâm, hải sản đủ quy
mô ra đời và mặt trái về tác hại môi trường cũng đã và đang
"nóng" lên ở nhiều địa phương. Sớm phổ biến rộng rãi
phương pháp này cũng chính là đưa ra một giải pháp tích
cực cho công tác bảo vệ môi trường.

×