Tải bản đầy đủ (.pdf) (6 trang)

Sinh học tế bào ( phần 27 ) Đại cương về Glucid docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.95 MB, 6 trang )

Sinh học tế bào ( phần 27 )
Đại cương về Glucid
Glucid là hợp chất phổ biến trong tự nhiên và trong cơ thể sinh vật.
Thành phần mô bào thực vật gồm trên dưới 80%, chất khô là glucid, mô
bào động vật có ít hơn, khoảng trên dưới 2%. Đây là loại chất hữu cơ phổ
biến bậc nhất. Glucid ở thực vật có dưới dạng chất xơ (cellulose
dạng tinh bột dự trữ, dạng đường (sacarose, fructose ). Ở động vật,
glucid có nhiều trong gan dưới dạng glycogen dự trữ, hoặc có trong huyết
thanh dưới dạng glucose.
1. Định nghĩa về glucid
Glucid là hợp chất hữu cơ mang năng lượng, nó là sản phẩm của quá trình
quang hợp: cây xanh nhờ diệp lục đã biến CO2 và H2O thành glucid
dưới ánh sáng của mặt trời:

Có thể nói glucid là những hợp chất mà ở đó quang năng đã chuyển sang
dạng hoá năng dễ sử dụng đối với đa số sinh vật.
2. Vai trò của glucid trong sự sống
Cung cấp năng lượng cho hoạt động sống, hàng ngày nhu cầu năng lượng
của động vật được bảo đảm 60 - 80% là do glucid.
- Tham gia vào cấu trúc của các mô bào (nhất là mô chống đỡ). Đó là vai
trò tạo hình của glucid. Ví dụ: nhóm chất quan trọng của cơ thể là acid
nucleic có thành phần đường ribose và desoxyribose.
- Ngoài ra, trong đời sống hàng ngày của người và gia súc, những glucid
như tinh bột, đường, cellulose (rơm, cỏ, rau) chiếm một tỷ lệ quan trọng
trong thực phẩm.
3. Các tính chất của glucid
3.1. Tính chất lý học của monosacand
- Tính hoà tan và quay mặt phẳng phân cực
Các monosacarid dễ tan trong nước, ít tan trong rượu, không tan trong các
dung môi hữu cơ (như đe, benzen) và có khả năng làm quay mặt phẳng
phân cực.


- Tính chất oxy hoá khử
Các monosacand thể hiện tính khử mạnh do sự có mặt các nhóm chức
aldchyd và đon tự do. Trong môi trường kiềm và đun nóng, các
monosacand có thể khử các con tám loại (ví dụ Cu
2+
-> cuối Tính chất
này được sử dụng để định lượng đường khử nói chung và glucose nói
riêng trong các mẫu thực vật và động vật. Khi khử các
monosacand ta thu được các rượu đa nguyên tử tương ứng. Các rượu
socbit, ribit vốn được tạo thành khi khử glucose (hoặc fructose), ribose
thường gặp trong cơ thể sống và đóng vai trò quan trọng.
- Phản ứng tạo este
Khi phản ứng với các acid, các monosacand tạo thành các este,
trong đó có ý nghĩa quan trọng nhất là các este phosphonc của
monosacand. Các monosacand tham gia vào các quá trình trao đổi chất
quan trọng nhất (như quang hợp, hô hấp) đều ở dạng este phosphoric:
aldehyd-3-phosphoglyceric, phosphodioxyaceton, glucose-6-
photphat, fructose-1,6-diphotphat, riboso-5-photphat
Phản ứng với hydrazin (NH
2
- NH
2
) hoặc phenylhydrazin (C
3
H
5
-
NH- NH
2
) Monosacand tác dụng với phenythydrazin tạo thành

sản phẩm không tan - phenylozazon màu vàng. Phenylozazon
được sử dụng để nhận biết đường khi phân tích. Sơ đồ hình thành
ozazon của monosacand có thể biểu diễn như sau:

- Tác dụng với acid phosphonic

4. Vấn đề đồng phân và mạch vòng của monosacarid
4.1. Vấn đề đồng phân
Một trong những đặc điểm của glucid (ví dụ như glucose và nhiều
monosacand khác) là tồn tại dưới nhiều dạng đồng phân.
Mỗi phân tử monosacand, từ loại có 3 carbon trở lên đều chứa ít nhất một
nguyên tử carbon bất đối (nghĩa là 4 hoá trị carbon được bão hoà bởi 4
nhóm hoá học khác nhau). Vì vậy nó có khả năng tồn tại ở 3 dạng đồng
phân.
- Đồng phân quay phải tia phân cực (+)
- Đồng phân quay trái tia phân cực (-)
- Chất không có hoạt tính quang học (raxemat)
Hai đồng phân đầu là 2 chất đối kháng về mặt quang học.
Dựa.vào các đồng phân của triose là glycerylaldehyd người ta chia các
mơnose làm 2 hàng tương ứng: D và L.

Vị trí để nhận xét hàng D và L cho các đường là H và OH ở nguyên tử
carbon nằm cạnh nhóm rượu bậc nhất (CH2OH)
- Nếu OH nằm bên phải là hàng D
- Nếu OH nằm bên trái là hàng L
Hàng D và L giống nhau về nhiều đặc tính lý hóa, chúng chỉ khác nhau
về khả năng làm quay mặt phảng tia phân cực. Ngoài ra, về mặt dinh
dưỡng của động vật giá trị của hai loại cũng khác nhau. Trong cơ thể chủ
yếu có đường hàng D.
4.2. Vấn đề mạch vòng của monosacarid

Trong cấu trúc của monosacand ta thấy có những gốc hoạt động ở cạnh
nhau như aldchyd và alcol. Do đó chúng có khả năng phản ứng với nhau
tạo thành dạng dẫn xuất nửa acetal (hemiacetal) theo sơ đồ sau:

Khi phản ứng xảy ra trong phân tử monosacand, một cầu nối oxy sẽ được
thành lập và monosacand sẽ hoá dạng vòng.

Dạng vòng của monosacand có thể là 6 cạnh hay 5 cạnh. Haworth đã đề
nghị gọi monosacand có dạng vòng 6 cạnh là pứanose và monosacand có
dạng vòng 5 cạnh là furanose. Vì có thể cơi 2 dạng này như là dẫn xuất
của phần và furan.

Cầu nối oxy có thể xuất hiện giữa nguyên tử C1 - C5 (dạng Piranose)
hoặc C1- C4 dạng furanose)
Ví dụ:

Haworth cũng đã đề ra công thức phối cảnh để biểu diễn monosacand. ở
dạng vòng glucose (hoặc các monosacand khác) có khả năng tồn tại dưới
dạng đồng phân không gian a và β Hai loại này khác nhau do vị trí H và
OH ở nguyên tử C1.

Đối với monosacand lớp cetose như fructose cũng có thể ở dạng
nửa acetal, nhưng cầu nối oxy sẽ xuất hiện giữa C2 - C5 hoặc C2 - C6


×