Tải bản đầy đủ (.pdf) (117 trang)

Địa Lý Nam Trung Bộ - Dung Quất phần 9 docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.34 MB, 117 trang )



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
344

sản xuất. Các dự án về tín dụng ưu ñãi cho người nghèo, hướng dẫn người nghèo
cách làm ăn, xây dựng mô hình xóa ñói giảm nghèo, hỗ trợ sản xuất và phát triển
ngành nghề, ñào tạo cán bộ làm công tác xóa ñói giảm nghèo - việc làm, ñịnh canh,
ñịnh cư và di dân ñến vùng kinh tế mới, giải quyết việc làm và xây dựng cơ sở hạ
tầng cho các xã nghèo cũng ñã triển khai thực hiện. Kết quả trong giai ñoạn 2001 -
2004, toàn tỉnh ñã giảm ñược 37.541 hộ nghèo, nhưng trong thời gian này ñã có
6.882 hộ tái nghèo và hộ nghèo mới phát sinh. Tính ñến cuối năm 2004, số hộ
nghèo (theo chuẩn cũ) chiếm tỷ lệ 11,74% tổng số hộ trong toàn tỉnh. So với chỉ
tiêu Nghị quyết ðại hội ðảng bộ tỉnh lần thứ XVI, Quảng Ngãi ñã hoàn thành chỉ
tiêu giảm nghèo trước một năm. Tỷ lệ ñói nghèo ở các xã miền núi còn 25% (theo
chuẩn cũ), giảm 35% so với năm 2001. Hiện nay, hầu hết các huyện miền núi ñều
có ñường giao thông ñi ñến trung tâm xã, 100% xã có trạm y tế, 93,3% xã có ñiểm
bưu ñiện văn hóa, 94,6% trẻ em trong ñộ tuổi ñến trường. Năm 2005, tỷ lệ ñói
nghèo của tỉnh Quảng Ngãi ñã giảm xuống dưới 9%
(22)
(theo chuẩn cũ)
(23)
.
Năm 2005, Quảng Ngãi vẫn còn 15.608 hộ nghèo có nhà ở tạm bợ, dột nát, hoặc
chưa có nhà ở cần phải hỗ trợ xây dựng hoặc sửa chữa. Trong giai ñoạn 2006 -
2010 tỉnh Quảng Ngãi sẽ hỗ trợ làm mới và sửa chữa nhà ở cho 5.520 hộ nghèo với
tổng kinh phí là 55.666 triệu ñồng.
2.3. VẤN ðỀ GIẢI QUYẾT CHÍNH SÁCH THƯƠNG BINH - LIỆT SĨ VÀ
CÁC ðỐI TƯỢNG XÃ HỘI
Năm 2005, tỉnh Quảng Ngãi ñã hoàn thành ñề án hỗ trợ nhà ở cho các gia ñình


có công với cách mạng, phụng dưỡng các Bà mẹ Việt Nam Anh hùng. Tổng số ñối
tượng này là 120.000 người. Ngoài ra, các ñối tượng khác như người cao tuổi,
người tàn tật, gia ñình neo ñơn, trẻ em lang thang cơ nhỡ, nạn nhân chất ñộc màu
da cam ñã ñược chính quyền và xã hội quan tâm giúp ñỡ. Từ năm 1993 ñến 2005,
Trung tâm Bảo trợ Xã hội Quảng Ngãi ñã tiếp nhận từ 80 ñến 90 trẻ mồ côi, 20 ñến
25 người già cô ñơn hàng năm. Bình quân mỗi năm trong tỉnh từ 4.000 ñến 6.000
ñối tượng ñược hưởng trợ cấp. Tổ chức cứu ñói giáp hạt, lũ lụt, thiên tai ñột xuất
mỗi năm hàng ngàn người. Tính từ ngày tái lập tỉnh Quảng Ngãi ñến năm 2005,
toàn tỉnh ñã xây mới trên 1.900 ngôi nhà tình nghĩa, sửa chữa trên 1.700 ngôi nhà
với tổng số tiền trên 35 tỷ ñồng. Các ñoàn thể, các tổ chức xã hội, cơ quan, ñơn vị
ñóng góp và trao tặng 1.500 sổ tiết kiệm cho các ñối tượng chính sách với tổng
kinh phí hơn 1 tỷ ñồng
(24)
.
ðối với những người trong diện ñối tượng chính sách, Quảng Ngãi ñã giải quyết
chế ñộ trợ cấp hàng tháng cho trên 45.000 người, trong ñó có hơn 21.910 thương
binh và người hưởng chính sách như thương binh, 2.500 bệnh binh, 2.250 Bà mẹ
Việt Nam Anh hùng. Hàng năm, ngoài kinh phí của Trung ương, tỉnh Quảng Ngãi
còn trích 4 tỷ ñến 6 tỷ ñồng từ ngân sách ñịa phương thăm hỏi các ñối tượng chính
sách vào dịp lễ, tết. Năm 2005, Quảng Ngãi tiếp tục triển khai việc giải quyết chế
ñộ cho những người tham gia ở các chiến trường B, chiến trường C và chiến trường


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
345

K, giải quyết chế ñộ nhà ở cho các ñối tượng tham gia hoạt ñộng cách mạng trước
năm 1945 và các chế ñộ xã hội khác theo quy ñịnh của nhà nước.
2.4. VẤN ðỀ PHÒNG CHỐNG TỆ NẠN XÃ HỘI

Tệ nạn ma túy
Từ năm 2000 về trước, Quảng Ngãi chỉ có 38 ñối tượng nghiện ma túy, năm
2001 tăng lên 81 ñối tượng, năm 2005 tăng lên 151 ñối tượng, trong số ñó có 92
ñối tượng có hồ sơ quản lý. Phần lớn những ñối tượng nghiện ma túy ở ñộ tuổi từ
20 ñến 35 tuổi, ñặc biệt ñã xuất hiện một số ñối tượng là ngư dân ở huyện ñảo Lý
Sơn dùng ma túy ñể kích thích trong việc bơi lặn ñánh bắt hải sản. ðể phòng chống
tệ nạn tiêm chích ma túy, cùng với việc ñẩy mạnh công tác tuyên truyền trên các
phương tiện thông tin ñại chúng và tổ chức tập huấn nâng cao kỹ năng, biện pháp
phát hiện ñối tượng nghiện hút, có nguy cơ lây nhiễm HIV/AIDS cao, Quảng Ngãi
ñã thành lập Trung tâm Giáo dục - Lao ñộng xã hội. Từ năm 2001 ñến tháng
6.2005, Trung tâm ñã tiếp nhận và cai nghiện cho 23 ñối tượng nghiện ma túy và
tổ chức hoàn lương cho 17 ñối tượng. Cũng trong thời gian này, bằng phương thức
tổ chức cai nghiện tại cộng ñồng, các ñịa phương ñã có 89 ñối tượng ñược cai
nghiện tại gia ñình.
Tệ nạn mại dâm
ðến nay, Quảng Ngãi vẫn chưa có cuộc ñiều tra khảo sát tổng thể nào về tình
hình tệ nạn mại dâm trên ñịa bàn tỉnh. Tuy nhiên, cùng với việc phát triển nhanh
chóng của các nhà hàng, khách sạn, nhà nghỉ, dịch vụ karaoke, cà phê vườn… nên
hoạt ñộng mua bán dâm xuất hiện không ít và ñược che giấu khá tinh vi. ðể phòng
chống những tệ nạn này, Quảng Ngãi ñã thành lập ðội phòng chống mại dâm và
ðội kiểm tra liên ngành 814 từ tỉnh ñến cơ sở. Tuy không nhiều, nhưng các cơ
quan chức năng ñã triệt phá ñược một số ñịa ñiểm chứa chấp hoặc mua bán dâm.
Những việc làm này ñã ñược dư luận xã hội ñồng tình ủng hộ.
(1) Nguyễn Bá Trác và các tác giả: Quảng Ngãi tỉnh chí, sñd.
(2) ðại Nam nhất thống chí, sñd, tr. 355.
(3) Quốc Sử quán triều Nguyễn: ðại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử học, tập
XXVIII, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1973, tr. 224, 255. Các cứ liệu ở trên cũng ñều lấy
từ bộ sách ðại Nam thực lục.
(4) Theo Ban Chấp hành ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi
(1945 - 1975), Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1999, tr. 120.

(5) Theo Ban Chấp hành ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi
(1945 - 1975), sñd, tr. 77, 80.
(6)
Theo Ban Chấp hành ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi
(1945 - 1975), sñd.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
346

(7) Phạm Trung Việt: Non nước Xứ Quảng, sñd.
(8) ðịa phương chí Quảng Ngãi, sñd.
(9) ðịa phương chí Quảng Ngãi, sñd.
(10) Theo Ban Chấp hành ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi: Lịch sử ðảng bộ tỉnh Quảng Ngãi
(1945 - 1975), sñd, tr. 207.
(11) Theo Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 1986 , Hà Nội, 1988.
(12) Tổng cục Thống kê: Niên giám thống kê 1986, sñd.
(13) Theo tài liệu của Hội ñồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.
(14) Theo Cục Thống kê Quảng Ngãi: Niên giám thống kê tỉnh Quảng Ngãi năm 2005,
Nxb Thống kê 2006.
(15) Thời ñiểm xuất bản ðịa chí Quảng Ngãi, trường ñã ñược thành lập (2007).
(16) Quốc Sử quán triều Nguyễn: ðại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử học, tập
XXX, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1974.
(17) Xem Chương XXVI: Văn học.
(18) Quốc Sử quán triều Nguyễn: ðại Nam thực lục, bản dịch của Viện Sử học, tập
XXXIV, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội, 1976.
(19) Xem Chương XXX: Y tế.
(20) Quốc Sử quán triều Nguyễn: ðại Nam thực lục, sñd, tr. 185.
(21) Quốc Sử quán triều Nguyễn: ðại Nam thực lục, sñd, tr. 177.

(22) Theo Quyết ñịnh số 882/Qð-UBND ngày 12.4.2006 về việc chuẩn y kết quả ñiều tra
xác ñịnh hộ nghèo tỉnh Quảng Ngãi năm 2005 theo chuẩn hộ nghèo giai ñoạn 2006 - 2010
(chuẩn mới), tổng số hộ nghèo của tỉnh là 87.862 hộ, trong ñó ở thành thị có 7.109 hộ
nghèo, chiếm 17,8%, ở vùng nông thôn có 80.753 hộ nghèo, chiếm 34,32%.
(23) Báo cáo chính trị tại ðại hội ðảng bộ tỉnh lần thứ XVII.
(24) Theo số liệu của Hội ñồng nhân dân tỉnh Quảng Ngãi.



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
347

Phụ lục 1
THỐNG KÊ VỀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH XÃ HỘI GIAI
ðOẠN 2000 - 2005

Chỉ tiêu
ðơn vị

tính
Thực hiện
2000
Thời kỳ 2001 - 2005
Thực
hiện 2001

Thực
hiện
2002

Thực
hiện
2003
Thực
hiện
2004
Kế hoạch
2005
I.


Lao ñ
ộng
-

vi
ệc l
àm


1.


S
ố ng
ư
ời trong ñộ tuổi
lao
ñộng
người 644.407 661.339 675.478


682.585

695.000

707.700
2.


S
ố ng
ư
ời tham gia trong
nền kinh tế quốc dân
người 543.100 589.600 620.911

630.710

644.518

662.780
3.


T
ỷ lệ lao ñộng thất nghiệp
ở thành thị
% 5,91 5,5 5,09 5,4 5,08 4,8
4.



T
ỷ lệ sử
d
ụng thời gian lao
ñộng ở nông thôn
% 73 73,25 74,55 75,15 76,88 78,5
5.


S
ố lao ñộng thiếu việc l
àm
ở nông thôn
người 72.450 68.230 65.400 65.530 61.850 60.250
6.


S
ố lao ñộng ñ
ư
ợc giải
quyết việc làm
người 30.000 27.000 30.000 31.000 30.600 30.000
7.


S
ố lao ñộng có việc l
àm

mới trong năm
người 10.200 9.720 11.100 12.090 12.240 12.600
8. S


h


ñư

c vay v

n t

o
việc làm
lượt hộ 25.000 30.000 35.000 45.000 50.000 60.000
Trong ñó: H
ộ ngh
èo

lượt hộ 3.288 10.500 14.000 27.000 35.000 42.000
II. Xóa ñói
gi

m nghèo


1.



T
ổng số hộ dân c
ư

hộ 256.418 267.145 269.918

269.918

279.176

279.176
2.


S
ố hộ ngh
èo theo chu
ẩn

quốc gia
hộ 61.779 58.548 50.877 39.940 32.777 24.517
3. T
ỷ lệ hộ ngh
èo
(*)

% 23,28 21,88 18,84 14,8 11,74 8,78
4. S



h


thoát nghèo

hộ 2.731 6.342 10.144 12.104 9.421 8.753
III. C

u tr


xã h

i


1. C

u t
ế

thư

ng xuyên

người 6.500 6.500 8.500 7.296 7.296 7.500
2.



Nuôi dư
ỡng ñối t
ư
ợng
chính sách xã hội
người 246 280 310 330 434 520
Trong ñó: Nuôi dư
ỡng tập
trung
người 96 100 110 130 232 220
Nuôi dư

ng trong c

ng ñ

ng

người 150 180 200 200 202 300
3. Xây d

ng, s

a ch

a nhà


cho người nghèo
nhà 63 150 300 400 500 930

IV. Chính sách thương binh
liệt sỹ và chăm sóc người có
công

1. S

a ch

a, xây d

ng ngh
ĩa
trang
nghĩa
trang
15 20 6 10 09 14


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
348

Chỉ tiêu
ðơn vị

tính
Thực hiện
2000
Thời kỳ 2001 - 2005
Thực

hiện 2001

Thực
hiện
2002
Thực
hiện
2003
Thực
hiện
2004
Kế hoạch
2005
2. C
ải thiện nh
à
ở cho ng
ư
ời

có công
nhà 125 93 380 155 1069 600


(*) Tỷ lệ hộ nghèo năm 2005 tính theo chuẩn cũ. Nếu tính theo chuẩn mới tỷ lệ
hộ nghèo năm 2006 là 28%.



Ñòa chí Quaûng Ngaõi

Trang
349

PHỤ LỤC ẢNH


















































Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
350























































Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
351
















Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
352








Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
353





Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
1




PHẦN V

THÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI VÀ
CÁC HUYỆN TRONG TỈNH
*Thành phố Quảng Ngãi
* Huyện Bình Sơn
* Huyện Sơn Tịnh
* Huyện Tư Nghĩa
* Huyện Nghĩa Hành
* Huyện Mộ ðức
* Huyện ðức Phổ
* Huyện Trà Bồng
* Huyện Tây Trà
* Huyện Sơn Hà
* Huyện Sơn Tây
* Huyện Minh Long
* Huyện Ba Tơ
* Huyện Lý Sơn



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
2

P
hần này viết về các huyện và thành phố Quảng Ngãi. Nếu ở 4 phần trước ñối
tượng xem xét là các lĩnh vực, các ngành ñược ñề cập chung trong phạm vi toàn

tỉnh Quảng Ngãi, thì phần này ñối tượng xem xét lại là từng huyện và thành phố.
Mỗi huyện, thành phố là một bộ phận hợp thành, vừa có nét chung của toàn tỉnh
Quảng Ngãi, vừa có ñặc thù riêng của nó. Cụ thể hóa nét chung của tỉnh và nói
ñược nét riêng của từng bộ phận là hết sức cần thiết, nhất là khi bạn ñọc muốn
tiếp cận riêng ñối với một huyện nào ñó, hoặc một mặt cụ thể nào ñó thể hiện ở
một huyện hay thành phố Quảng Ngãi.
Mỗi huyện và thành phố Quảng Ngãi, do vậy, sẽ ñược viết riêng và ñược ñề cập
ñến các ñặc ñiểm về hành chính - tự nhiên - dân cư, truyền thống, kinh tế, văn hóa
- xã hội của huyện hay thành phố ấy. Nói cách khác, ñây là cách tiếp cận ở nhiều
phương diện khác nhau ñối với từng thực thể (huyện, thành phố).
Trong khi chú trọng tiếp cận về nhiều mặt khác nhau, khi cần thiết, các dữ liệu
sẽ ñược so sánh với cái chung của toàn tỉnh hoặc các ñơn vị bạn ñể thấy nét ñặc
thù.
Các lĩnh vực, các dữ liệu của từng huyện và thành phố Quảng Ngãi ñược ñề cập
sẽ phối hợp cả xưa và nay, cả ñồng ñại và lịch ñại, trong ñó thứ tự thông thường là
trình tự thời gian - cái có trước ñề cập trước, cái có sau ñề cập sau.
Các dữ liệu ñược ñề cập nếu ñã ñược viết chi tiết ở các chương, phần trước, thì
ở ñây sẽ không ñi sâu vào chi tiết và xét cần sẽ có chỉ dẫn ñến chương, phần ñể
tiện cho bạn ñọc tra cứu.
Phần này sắp xếp các huyện, thành phố chủ yếu dựa vào vị trí ñịa lý và phần
nào là vai trò của nó. Theo ñó, thành phố tỉnh lỵ sẽ ưu tiên xếp trước, kế ñến là các
huyện ñồng bằng, các huyện miền núi (ñều từ Bắc vào Nam) và huyện hải ñảo. Cụ
thể như sau: 1) Thành phố QUẢNG NGÃI; 2) Huyện BÌNH SƠN; 3) Huyện SƠN
TỊNH; 4) Huyện TƯ NGHĨA; 5) Huyện NGHĨA HÀNH; 6) Huyện MỘ ðỨC; 7)
Huyện ðỨC PHỔ; 8) Huyện TRÀ BỒNG; 9) Huyện TÂY TRÀ; 10) Huyện SƠN
HÀ; 11) Huyện SƠN TÂY; 12) Huyện MINH LONG; 13) Huyện BA TƠ; 14) Huyện
LÝ SƠN.




Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
3

THÀNH PH
Ố QUẢNG
NGÃI


T
HÀNH PHỐ QUẢNG NGÃI là ñơn vị hành chính trực thuộc tỉnh Quảng
Ngãi, ñược ñặt làm tỉnh lỵ. Thành phố Quảng Ngãi nằm ở phía ñông tỉnh, hữu
ngạn sông Trà Khúc, tại tọa ñộ ñịa lí 180
o
48’ð và 15
o
08’B. Ba phía ñông, tây, nam
ñều giáp huyện Tư Nghĩa, phía bắc giáp huyện Sơn Tịnh (qua sông Trà Khúc); có
Quốc lộ 1 và ñường sắt Thống Nhất chạy qua. Diện tích: 37,12km². Dân số:
122.567 người (năm 2005). Mật ñộ dân số: 3.302 người/km²
(1)
. ðơn vị hành chính
trực thuộc gồm 2 xã (Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng); 8 phường (Nguyễn Nghiêm, Trần
Hưng ðạo, Lê Hồng Phong, Trần Phú, Chánh Lộ, Quảng Phú, Nghĩa Lộ, Nghĩa
Chánh), với 166 thôn, tổ dân phố; trong ñó:
Phường Nguyễn Nghiêm có 13 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 13;
Phường Trần Hưng ðạo có 18 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 18;
Phường Lê Hồng Phong có 14 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 14;
Phường Trần Phú có 24 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 24;
Phường Chánh Lộ có 20 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 20;

Phường Quảng Phú có 26 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 26;
Phường Nghĩa Lộ có 22 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 22;
Phường Nghĩa Chánh có 19 tổ dân phố, tên gọi theo thứ tự từ tổ 1 ñến tổ 19;
Xã Nghĩa Dũng có 6 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 6;
Xã Nghĩa Dõng có 4 thôn, tên gọi theo thứ tự từ thôn 1 ñến thôn 4.
ðịa hạt thành phố Quảng Ngãi có dân cư, hình thành làng mạc từ lâu ñời. Nơi
ñây ñược ñặt làm tỉnh lỵ từ năm 1807, nhưng do hoàn cảnh lịch sử, vị trí ñịa lý,
thành phố Quảng Ngãi vẫn là một ñô thị phát triển muộn so với nhiều ñô thị khác
trong nước. Sự phát triển muộn xét về mặt nào ñó có một số thuận lợi nhất ñịnh,
nhưng bao trùm vẫn là một khó khăn lớn trên ñường phát triển.
Về hành chính, thành phố Quảng Ngãi trải qua nhiều thay ñổi qua các thời kỳ
lịch sử.
Toàn bộ ñịa hạt thành phố Quảng Ngãi xưa kia ñều thuộc huyện Chương Nghĩa.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
4

Tỉnh thành Quảng Ngãi
Vùng trung tâm nội thị của thành phố Quảng Ngãi vốn là xã Chánh Mông (sau
ñổi là Chánh Lộ), tổng Nghĩa Hạ, huyện Chương Nghĩa. Từ năm Gia Long thứ 6
(1807), tỉnh thành Quảng Ngãi ñược dời về ñây. Năm Gia Long thứ 14 (1815),
thành ñược xây bằng ñá ong. Thành có 3 cửa: Tây, ðông, Bắc (chưa rõ vốn có cửa
Nam hay không); tỉnh thành do các kiến trúc sư Pháp theo giúp Gia Long thiết kế
ñược xây dựng theo kiểu vôbăng (vauban) của Pháp, bình ñồ vuông, chu vi 500
trượng hai thước (2000m); cao một trượng (4m), bốn phía có hào thành áp sát bờ
thành rộng 5 trượng (20m). Thành có một trục dọc xẻ ñôi thành từ cửa Tây ñến cửa
ðông (nay là ñường Lê Trung ðình), chia thành ra hai phần nam, bắc, trong ñó
phần phía nam nhỏ bằng 1/2 của phần phía bắc. Từ ngoài vào thành có cầu bắc qua

hào, có cổng thành. Các cơ quan ñầu não của tỉnh nằm gọn trong thành. Theo trục
ñường từ phía tây ñi xuống phía ñông, phía tay trái (phần phía bắc) ở giữa có dinh
Tuần vũ, phía tây là dinh Án sát, phía ñông có dinh Lãnh binh, nhà lao, nhà thương
ở phía sau; từ khi thực dân Pháp ñô hộ, có thêm Nhà Dây thép (Bưu ñiện), Sở Lục
lộ Phía tay phải (phần phía nam ñường) có Hành cung (nơi vua ngự trên ñường
công cán), ñối diện với dinh Tuần vũ; về sau, ở phía ñông có tòa Công sứ, phía tây
có ñồn Khố Xanh. Theo tài liệu Quảng Ngãi tỉnh chí do Tuần vũ Quảng Ngãi
Nguyễn Bá Trác chủ trương, biên soạn năm 1933, tại nội thành Quảng Ngãi có số
nhà tư là 87 nóc với số người là 584 người, nhà tranh làm liền kề bên nhau của các
công chức làm việc trong thành. Thời Nhật chiếm ñóng, quân Nhật ñóng quân cố
thủ trong thành khi Cách mạng tháng Tám bùng nổ, sau phải rút ñi. Năm 1947,
thành ñược san bằng ñể thực hiện tiêu thổ kháng chiến.
Về tỉnh thành Quảng Ngãi trước khi dời về xã Chánh Mông, sách ðại Nam nhất
thống chí cũng như các sách cổ khác ñều ghi là ở xã Phú Nhơn, huyện Bình Sơn
(nay thuộc huyện Sơn Tịnh), ñầu niên hiệu Gia Long (1802) dời ñến xã Phú ðăng
huyện Chương Nghĩa. Xã Phú Nhơn nay thuộc thị trấn huyện lị Sơn Tịnh, nằm ở
bắc sông Trà Khúc, gần sát với tỉnh lỵ Quảng Ngãi ngày nay. Tuy vậy, ở ñây không
còn dấu vết gì vì có lẽ tỉnh thành hồi ấy chỉ xây dựng tạm bợ. Còn Phú ðăng có thể
là một ñịa ñiểm cách thành phố Quảng Ngãi 10km về phía ñông, nằm bên sông Phú
Thọ. Sách bản ñồ cổ Lê Hoàng triều kỷ có ghi rõ bên dòng sông này có nhà kho Phú
ðăng (Phú ðăng khố). Nơi ñây xưa là ñược coi là cảng biển chính của tỉnh Quảng
Ngãi. Tuy vậy, cho ñến nay chưa thấy dấu vết nào của tỉnh thành, có lẽ vì tỉnh thành
ñược ñặt ở ñây trong một thời gian quá ngắn ngủi (1802 - 1807) nên chưa kịp xây
dựng gì.
Hiện nay, dù không còn, nhưng dấu vết xưa của thành Quảng Ngãi ở Chánh Lộ
vẫn còn rõ. ðó là các hào thành, các ñịa ñiểm Cửa Tây, Cửa ðông, Cửa Bắc.
Khuôn viên nội thành nay là một số cơ quan của tỉnh và khu dân cư.
Tỉnh lỵ Quảng Ngãi dời về xã Chánh Mông tính ñến năm 2007 là tròn 200 năm,
tính từ năm 1807. Nhưng tỉnh thành Quảng Ngãi chỉ là một phần nhỏ của xã Chánh
Mông, ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi ngày nay rộng lớn hơn nhiều.



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
5

ðịa bàn thành phố Quảng Ngãi
ðịa bàn thành phố Quảng Ngãi ngày nay khá rộng, gồm các thôn xã xưa: xã Ba
La, thôn Ngọc Án, xã Chánh Mông, châu Vạn Tượng, xã Thu Phố, xã ðại Nham,
châu Phù Khế thuộc các tổng Nghĩa Hạ, Nghĩa Châu của huyện Chương Nghĩa. Xã
Chánh Mông nguyên có tên là xã Cù Mông, ñời Gia Long thuộc tổng Trung, sau
thuộc về tổng Nghĩa ðiền huyện Chương Nghĩa, có 815 mẫu ruộng ñất. ðời Minh
Mạng, Cù Mông ñổi là Chánh Mông. ðời vua ðồng Khánh (1885 - 1888) ñể tránh
tên húy, xã Chánh Mông ñổi tên là xã Chánh Lộ. Xã Ba La ñời vua Gia Long thuộc
về tổng Trung, sau thuộc tổng Nghĩa Hạ, huyện Chương Nghĩa, có 698 mẫu ruộng
ñất. Châu Vạn Tượng cũng thuộc tổng Trung, sau về tổng Nghĩa Hạ, ñời Gia Long
có gần 123 mẫu ruộng ñất. Xã Thu Phố ñời Gia Long thuộc tổng Thượng, sau
thuộc về tổng Nghĩa Trung, có 216 mẫu ruộng ñất. ðến trước năm 1945, diện tích
xã Thu Phố có ñến 1.532 mẫu Trung Bộ với số dân 3.036 người. Xã Ngọc Án vốn
chỉ là lưu dân ngụ cư. Xã ðại Nham và châu Phù Khế nhỏ hẹp, nằm sát bãi sông
Trà Khúc. ðô thị Quảng Ngãi manh nha hình thành ở phía tây thành, gọi là Chánh
Lộ phố. Cho ñến năm 1933, các tác giả Quảng Ngãi tỉnh chí chép rằng "Thành phố
Quảng Ngãi số nhà ñếm ñược là 331 cái và số người là 1.378 người, vừa lớn, nhỏ,
ñàn ông, ñàn bà". Ngày 14.5 Âm lịch năm Bảo ðại thứ 9 (25.6.1934) có dụ số 23
của vua Bảo ðại quyết ñịnh thiết lập một ñô thị trung tâm cùng tên, thay cho tỉnh
thành Quảng Ngãi "bị tước danh tịch". ðô thị này mở rộng lên hướng tây, rộng
133ha 2.462m
2
, thuộc xã Chánh Mông và xã Thu Phố, phía tây ñến ga và ñường
sắt Quảng Ngãi (vừa mới xây dựng). ðến trước năm 1945, ở xã Chánh Lộ, bên

ngoài tỉnh thành có Chánh Lộ phố gồm các phường: Bắc Môn, Bắc Lộ, Nam Lộ,
sau ñó có thêm phường Thu Lộ.
Sau Cách mạng tháng Tám 1945, Chánh Lộ phố ñược quyết ñịnh thành lập ñơn
vị thị xã Quảng Ngãi trực thuộc tỉnh. Các làng xã khác (như ñã kể trên) vẫn thuộc
huyện Tư Nghĩa. Sau kháng chiến toàn quốc bùng nổ (tháng 12.1946), thực hiện
tiêu thổ kháng chiến, các cơ quan tỉnh sơ tán về các vùng quê xa, ñơn vị thị xã
Quảng Ngãi nhập chung với xã Nghĩa Lộ huyện Tư Nghĩa
Sau Hiệp ñịnh Giơnevơ 1954, chính quyền Sài Gòn thành lập xã Cẩm Thành với
4 ấp: Bắc Môn, Bắc Lộ, Nam Lộ, Thu Lộ. Theo Nghị ñịnh số 314-BNV/HC/Nð
ngày 12.6.1958 của Bộ trưởng Bộ Nội vụ Việt Nam Cộng hòa (chính quyền Sài
Gòn) thì Cẩm Thành vẫn thuộc quận (huyện) Tư Nghĩa, có ghi chú thêm: "xã này
có thể ñặt trực thuộc tòa tỉnh trưởng". Nhưng theo các văn bản hành chính, cho ñến
tháng 3.1975 các vùng ven vẫn thuộc quận (huyện) Tư Nghĩa.
Tháng 5.1965 (trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước), phía kháng chiến thành
lập ñơn vị thị xã Quảng Ngãi ñể ñẩy mạnh phong trào cách mạng trong ñô thị. Từ
năm 1968, ở phía kháng chiến, ñịa bàn thị xã Quảng Ngãi ngoài 4 ấp nội thị ñược
tính gồm cả xã Nghĩa Lộ, xã Nghĩa ðiền, xã Nghĩa Dõng (huyện Tư Nghĩa) và
thôn ðông Dương của xã Tịnh Ấn (huyện Sơn Tịnh).


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
6

Sau ngày thị xã Quảng Ngãi ñược giải phóng (24.3.1975), ñơn vị hành chính
ñược ñiều chỉnh, gồm 4 phường, 3 xã như sau: ấp Bắc Môn ñổi thành phường Lê
Hồng Phong; ấp Bắc Lộ ñổi thành phường Trần Hưng ðạo; ấp Nam Lộ ñổi thành
phường Nguyễn Nghiêm; ấp Thu Lộ ñổi thành phường Trần Phú; xã Nghĩa Lộ (xã
Tư Chánh thời chính quyền Sài Gòn); xã Nghĩa ðiền (xã Tư Quang thời chính
quyền Sài Gòn); xã Nghĩa Dõng (xã Tư Bình thời chính quyền Sài Gòn). Riêng

thôn ðông Dương trả về cho xã Tịnh Ấn.
Ngày 12.2.1976, thị xã Quảng Ngãi hợp nhất với huyện Tư Nghĩa thành thị xã
Quảng Nghĩa với số xã phường kể trên và 11 xã của huyện Tư Nghĩa. Tháng
3.1979, xã Nghĩa Lộ tách lập thành 2 xã Nghĩa Lộ, Nghĩa Chánh.
Cuối năm 1981, thị xã Quảng Nghĩa tái lập thành 2 ñơn vị: thị xã Quảng Ngãi và
huyện Tư Nghĩa và có sự ñiều chỉnh ñịa giới hành chính so với trước. Thị xã
Quảng Ngãi có 4 phường (Lê Hồng Phong, Trần Hưng ðạo, Nguyễn Nghiêm, Trần
Phú) và 5 xã (Quảng Phú, Nghĩa Lộ, Nghĩa Chánh, Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng).
Trong ñó, xã Quảng Phú mới thành lập gồm 3 thôn của xã Nghĩa ðiền (một phần
xã Nghĩa ðiền giao về cho huyện Tư Nghĩa) là Thu Phổ ðông, Thu Phổ Tây,
Thạch Phổ (các thôn này trước năm 1945 thuộc xã Thu Phố); xã Nghĩa Dũng ñược
tách từ xã Nghĩa Dõng cũ, xã Nghĩa Dõng tương ñương với xã Ba La xưa, xã
Nghĩa Dũng tương ñương với châu Vạn Tượng và một phần xã Ba La, các làng
ðại Nham, Phù Khế.
Tháng 7.1989, tỉnh Quảng Ngãi ñược tái lập. Thị xã Quảng Ngãi trở thành tỉnh
lỵ như trước. Tháng 7.1991, xã Nghĩa Lộ ñược tách lập làm phường Chánh Lộ và
xã Nghĩa Lộ. Năm 1994, xã Nghĩa Lộ ñổi thành phường Nghĩa Lộ. Xã Quảng Phú
cũng ñược ñổi là phường Quảng Phú.
Cho ñến cuối năm 2004, thị xã Quảng Ngãi có 8 phường, 2 xã (như ñã kể trên).
Các khối phố ñổi ra nhiều tổ dân phố. Năm 2002, thị xã Quảng Ngãi ñược công
nhận ñô thị loại 3 và ñến ngày 26.8.2005 có Nghị ñịnh của Chính phủ thành lập
thành phố trực thuộc tỉnh.
Về tự nhiên,
(2)
. Phía ñông - ñông nam núi Bút có hòn Nghiên, quen gọi là hòn
Mu Rùa, hiện có một ñơn vị ñiện lực ñóng. Phía nam - tây nam có một gò ñồi, xưa
gọi là núi Sơn Xuyên (vì có ñàn Sơn Xuyên thờ sông núi), sau gọi là Quy Sơn, vì
có Quy Sơn Tự do Nguyễn Hữu Mưu lập từ ñời Nguyễn. Núi Trấn Công, tục gọi là
núi Ông hay núi Ông Trấn, trước kia gọi là núi Phước hay Phước Lãnh, hay Ngũ
Phước, tương truyền có nhiều dơi, là loài vật ñược xem gắn với phúc. Núi nằm ở

phía tây thành phố thuộc phường Quảng Phú, chân ngâm vào sông Trà Khúc. Núi
Trấn Công xưa có lăng thờ Trấn Quận công Bùi Tá Hán, danh tướng ñời Lê Trung
hưng. Về sau, do xây dựng Nhà máy ðường Quảng Ngãi nên ñền thờ phải dời về
Rừng Lăng. ðại bộ phận ñất ñai của thành phố Quảng Ngãi là ñồng bằng, có ñộ
cao từ 4 - 9m so với mặt biển, trong ñó vùng phía tây (phường Quảng Phú) cao
hơn cả.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
7

Khí hậu thành phố Quảng Ngãi mang ñặc trưng chung của vùng ñồng bằng ven
biển tỉnh Quảng Ngãi.
Về dân cư: Tính ñến năm 2005, cư dân thành phố Quảng Ngãi có 122.567
người. Diện tích tự nhiên, dân số, mật ñộ dân số cụ thể của từng xã, phường như
sau
(3):

TT Xã, phường
Diện tích tự
nhiên (km
2
)
Dân số
(người)
Mật ñộ dân số
(người/km
2
)

1

Phư
ờng L
ê H
ồng Phong

3,38

8.234

2.436

2

Phư
ờng Trần Phú

2,179

14.281

6.551

3

Phư
ờng Trần H
ưng ð
ạo


0,52

10.309

19.810

4

Phư
ờng Nguyễn Nghi
êm

0,525

10.094

19.194

5

Phư
ờng Nghĩa Lộ

4,01

14.461

3.607


6

Phư
ờng Chánh Lộ

2,57

13.462

5.368

7

Phư
ờng Quảng Phú

7,27

17.648

2.426

8

Phư
ờng Nghĩa Chánh

4,03

12.682


3.143

9

Xã Ngh
ĩa D
õng

6,06

10.537

1.736

10

Xã Ngh
ĩa Dũng

6,62

10.860

1.640


T
ổng số


37,12

122.567

3.302


Trong số 122.567 người dân ở thành phố Quảng Ngãi thời ñiểm năm 2005, chỉ
có 425 người Hrê, 110 người Cor, 1 người Ca Dong (từ các huyện miền núi trong
tỉnh) mà phần nhiều trong số này là lớp trẻ ñang theo học trường dân tộc nội trú
tỉnh (nằm trên ñịa bàn phường Quảng Phú) và 28 người thuộc các dân tộc khác
theo vợ, chồng về thành phố sinh sống.
Tuyệt ñại ña số dân cư ở thành phố Quảng Ngãi là người Việt. Xưa kia, trên ñịa
bàn này có lớp dân cư cổ sinh tụ là người Chăm. Về sau, thị xã Quảng Ngãi có
thêm một ít người Việt gốc Hoa, Ấn kiều. Thời thuộc Pháp có thêm một số quan
chức Pháp, thời chính quyền Sài Gòn kiểm soát có một số viên chức dân sự và
quân sự Mỹ; từ sau 1975, có thêm một số ñồng bào dân tộc thiểu số miền núi trong
tỉnh và từ các tỉnh khác về cư ngụ, nhưng ñều không nhiều
(4)
.
Thời chính quyền Sài Gòn, vào khoảng giữa năm 1962, vùng nội thành Quảng
Ngãi gồm 4 ấp có số dân 8.816 người với 1.737 gia ñình. Cụ thể: ấp Bắc Môn có
1.128 người với 225 gia ñình; ấp Bắc Lộ có 2.432 người với 535 gia ñình; ấp Nam
Lộ có 3.793 người với 666 gia ñình; ấp Thu Lộ có 1.363 người với 311 gia ñình.
Vùng ngoại thành có tổng cộng 23.314 người với 4.503 gia ñình. Cụ thể: xã Tư
Quang (chỉ tính hai ấp Thu Phổ ðông, Thu Phổ Tây, sau này là phường Quảng Phú)
có 5.671 người với 824 gia ñình; xã Tư Bình (sau này là hai xã Nghĩa Dõng, Nghĩa
Dũng) có 7.055 người với 1.673 gia ñình; xã Tư Chánh (sau này là các phường
Nghĩa Chánh, Nghĩa Lộ, Chánh Lộ) có 10.588 người với 2.206 gia ñình.



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
8

Tổng cộng cả vùng nội và ngoại thành (tính theo ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi
ngày nay) có 32.130 người với 6.240 gia ñình.
Vào thời ñiểm chiến tranh nổ ra ác liệt, dân cư các huyện trong tỉnh tập trung ở
ñịa hạt thành phố rất ñông. Vào thời ñiểm tháng 5.1972, ở xã Cẩm Thành (nội thị) có
ñến 46.714 người, xã Tư Chánh có 36.615 người, xã Tư Quang có 17.834 người, xã
Tư Bình có 9.881 người, tổng cộng cả nội thị và ngoại vi có ñến 111.044 người.
ðến năm 1975, giải phóng toàn tỉnh, số dân tạm trú lần lượt trở về quê cũ
(5)
.
Cư dân thành phố Quảng Ngãi xưa có người Chăm qua các dấu tích còn sót lại.
Cư dân Việt làm nông và dấu ấn nông nghiệp cho ñến nay vẫn còn rất rõ. Thành
phố Quảng Ngãi ñược ñô thị hóa khá muộn, nên các ngành nghề công nghiệp,
thương mại, dịch vụ cũng chỉ mới hình thành và phát triển vào cuối thế kỷ XX về
sau và ñang có xu hướng tăng nhanh. Dân cư Việt ở thành phố Quảng Ngãi xưa
vốn giỏi về nghề nông, ñặc biệt giỏi về việc làm bờ xe nước dọc sông Trà Khúc.
Người dân ở ñây cũng rất hiếu học, với nhiều người học giỏi, ñỗ ñạt cao, trong ñó
nổi bật có các "danh tộc", như tộc Bùi (của Bùi Tá Hán), tộc Tạ (của Tạ Tương ở
Nghĩa Lộ), tộc Nguyễn ở Vạn Tượng, Nghĩa Dũng (của Nguyễn Duy Cung), tộc
Nguyễn ở Ba La (Nghĩa Dõng)… Một ñặc ñiểm quan trọng của cư dân thành phố
Quảng Ngãi ngày nay là tỉ lệ cư dân chuyển từ các huyện về khá cao, do tốc ñộ ñô
thị hóa ñang diễn ra tương ñối nhanh. Sự biến ñổi dân số ở thành phố Quảng Ngãi
là số dân di chuyển cơ học nhiều, do vậy bên cạnh việc xem xét mức ñộ tăng giảm
dân số tự nhiên, sự tăng giảm (cả chuyển ñi và chuyển ñến) dân số cơ học là không
thể bỏ qua.
*

* *
Về truyền thống yêu nước của cư dân thành phố Quảng Ngãi, người ta thấy có
những dấu hiệu có thể là dấu vết của phong trào Tây Sơn thế kỷ XVIII qua các ñịa
danh như Tàu Tượng, bãi Ông Bành, Bàu Voi, khu Mả Voi, có thể là những dấu
tích về tượng binh thời Tây Sơn. Trong phong trào Cần vương (1885 - 1896), các
thủ lĩnh Lê Trung ðình, Nguyễn Tự Tân, Nguyễn Bá Loan, Thái Thú, Trần Du
ñều lấy tỉnh thành Quảng Ngãi làm mục tiêu tấn công và ñều ñược sự ủng hộ của
dân cư ở quanh vùng. Ông Bùi Phụ Cát người xã Thu Phố vận ñộng hương binh ở
xã, ông Nguyễn Viện người xã Chánh Mông nằm trong phiên chế triều ñình ñều
hưởng ứng cuộc khởi nghĩa của Lê Trung ðình, Nguyễn Tự Tân tháng 7.1885 và
bị chém, bị giam cầm ñến chết. Trong phong trào Duy tân ñầu thế kỷ XX, ñịa bàn
thành phố Quảng Ngãi là một trọng tâm hoạt ñộng và có cơ sở của phong trào, như
hoạt ñộng của Tú tài Trần Kỳ Phong (người Châu Me, Bình Sơn), Cử nhân Lê Tựu
Khiết (người An Ba, Nghĩa Hành) Năm 1908, dân cư ở các huyện trong tỉnh
Quảng Ngãi rầm rộ kéo về tỉnh thành ñể "cự sưu khất thuế" (chống sưu thuế) thành
biển người vây bọc lấy tỉnh thành, với sự tham gia ủng hộ và giúp ñỡ của rất ñông
người dân sở tại. Trong phong trào Việt Nam Quang phục Hội, các chí sĩ lãnh ñạo
phong trào ở Quảng Ngãi cũng xác ñịnh mục tiêu tấn công thành Quảng Ngãi,


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
9

nhưng cuộc khởi nghĩa chiếm thành năm 1916 bại lộ và hàng loạt chí sĩ ñã hy sinh
vì nước ngay tại ñây. Tỉnh thành Quảng Ngãi cũng là nơi giam cầm nhiều chiến sĩ
cộng sản, trong ñó có nhiều người là cán bộ lãnh ñạo, kể từ 1930, trong số ñó có
ñồng chí Nguyễn Nghiêm - Bí thư ñầu tiên của ðảng bộ tỉnh và nhiều người ñã hy
sinh tại ñây. Trong kháng chiến chống Pháp, thành Quảng Ngãi ñược san phẳng ñể
thực hiện tiêu thổ kháng chiến. Trong kháng chiến chống Mỹ, cứu nước, ñịa bàn

thành phố Quảng Ngãi là nơi có trung tâm ñầu não của ñịch ở tỉnh Quảng Ngãi,
nhưng phong trào yêu nước và cách mạng vẫn phát triển: phong trào bí mật hoạt
ñộng ngay trong nội thị, vùng ven, các phong trào ñấu tranh công khai chống Mỹ
và chính quyền Sài Gòn, cuộc tấn công và nổi dậy Tết Mậu Thân 1968, cuộc biểu
tình lớn năm 1974.
Thành phố Quảng Ngãi là quê hương, nơi hoạt ñộng của các nhân vật lưu danh
trong lịch sử như Bùi Tá Hán, Nguyễn Duy Cung… ðơn vị thị xã Quảng Ngãi ñã
ñược Chủ tịch nước phong tặng danh hiệu Anh hùng Lực lượng Vũ trang nhân dân
ngày 29.4.2000; hai xã Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng ñược phong tặng danh hiệu cao
quý này ngày 22.8.1998. Thành phố Quảng Ngãi có 40 bà mẹ ñược phong tặng
danh hiệu cao quý Bà mẹ Việt Nam Anh hùng.
*
* *
Về kinh tế, thành phố Quảng Ngãi là nơi tập trung các hoạt ñộng kinh tế, là
trung tâm kinh tế của tỉnh Quảng Ngãi xưa và nay. Tuy vậy, do hoàn cảnh là một
ñô thị phát triển muộn, nông nghiệp ở ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi trước ñây còn
chiếm một tỷ trọng ñáng kể. Hiện nay, cơ cấu kinh tế chuyển ñổi dần và các lĩnh
vực công nghiệp - tiểu thủ công nghiệp - thương mại - dịch vụ ñã chiếm một tỷ lệ
cao trong cơ cấu kinh tế.
Tốc ñộ tăng trưởng kinh tế hằng năm ở thành phố Quảng Ngãi trong giai ñoạn
2000 - 2004 là 14,67%. Cơ cấu kinh tế ở thành phố Quảng Ngãi hiện nay ñược xác
ñịnh là: công - thương - nông nghiệp.
Nghề nông
Nghề nông tuy không còn chiếm tỉ trọng cao trong kinh tế, nhưng là ngành kinh
tế lâu ñời nhất và vẫn là nguồn sống quan trọng của một bộ phận dân cư ở thành
phố Quảng Ngãi ngày nay. Nếu xét ở quá khứ chưa xa, thì nghề nông càng có vai
trò quan trọng và có nhiều ñiều ñáng chú ý. ðất ñai ở ñịa bàn thành phố ñược phù
sa sông Trà Khúc bồi ñắp hằng năm, khá màu mỡ. Ngoài việc trồng lúa, mía, nhiều
cây trồng vật nuôi khác cũng rất ñáng kể. Thời Pháp thuộc, ở gần cầu Trà Khúc có
bãi ñất trồng thí nghiệm giống lúa mới, có trại thí nghiệm nuôi tằm, có Sở Thú y ñể

chọn giống, phòng chữa bệnh trâu, bò, heo.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
10

Người nông dân ở các làng quê xưa chủ yếu trồng lúa, mía, ngô, rau, ñậu (ở ven
sông) ñể sinh sống. Người dân các làng ở thành phố xưa vốn tự hào về những ñồng
lúa rộng, ñất ñai màu mỡ, như về cánh ñồng Ba La:
Ba La chạy tới Cù Mông
Chạy quanh chạy quéo cũng về ñồng Ba La.
Lúa là cây lương thực chính. Sản lượng lúa cả năm 2005 ñạt 8.175,10 tấn, tổng
sản lượng lương thực có hạt là 11.953 tấn. Do là nơi tập trung lao ñộng phi nông
nghiệp rất lớn nên bình quân lương thực ñầu người chỉ ñạt 97kg, ñất nông nghiệp
chỉ có 1.714,9ha. Trong sản lượng lương thực, ngô 3.549,4 tấn (chiếm gần 1/3).
Cây mía vẫn ñược duy trì ở mức thấp với chỉ 100ha. Cây lạc có 130ha với sản
lượng 305,10 tấn, rau 24.850,10 tấn (trong ñó xã Nghĩa Dũng 13.060 tấn, Nghĩa
Dõng 6.252,20 tấn). Trong ñiều kiện một thành phố ñang ñô thị hóa, thì diện tích
ñất nông nghiệp ngày càng thu hẹp, thời ñiểm năm 2005, diện tích ñất nông nghiệp
còn 1.662,78ha, trừ 570,58ha ñất trồng cây lâu năm, chỉ còn gần 1.100ha ñất trồng
cây hàng năm. Trong số ấy, các phường ở khu vực trung tâm là Lê Hồng Phong,
Trần Phú, Trần Hưng ðạo, Nguyễn Nghiêm có diện tích không ñáng kể, mỗi xã,
phường còn lại có từ 150 - 400ha.
Các vật nuôi chính là trâu, bò, heo, gà. Tuy vậy, với ñiều kiện ñất canh tác chật
hẹp, chăn nuôi cũng khó phát triển. Tính ở thời ñiểm năm 2005, thành phố chỉ có
212 con trâu, 6.910 con bò, 27.015 con lợn. Về gia cầm có số lượng tương ñối
nhiều, gà 61.600 con, vịt 10.400 con. Trong nông nghiệp, việc làm thuỷ lợi từ xưa
ñã khá nổi bật với các bờ xe nước ở dọc hữu ngạn sông Trà Khúc, với việc ñào
kênh Tư Nghĩa (nối sông Trà Khúc với sông Bàu Giang) ở phía tây thành phố

trong kháng chiến chống Pháp, với việc ñào ñắp kênh mương Thạch Nham sau
năm 1975. Về bờ xe nước, năm 1939 ở Thu Phố từng có bờ xe nước 9 bánh, tưới
ñược 150 mẫu ruộng, số hoa lợi thu ñược 20.184 ang lúa, tiền làm xe, số lợi nhuận
ñều cao nhất trong tỉnh Quảng Ngãi
(6)
. Ở Ba La xưa từng có bờ xe ñôi. Năm 1888,
ông Võ Văn Giu quê làng Ba La xin dựng xe nước ở Chánh Lộ, cũng là bờ xe ñôi,
ñể tưới cho ñồng lúa Bàu Lân, Thông Viên, Cổ ðồng. Xe nước tiếp tục ñược dựng
ñặt hằng năm cho tới sau năm 1975 mới chấm dứt. Xưa kia, ñịa hạt thành phố
Quảng Ngãi còn khá nhiều rừng như rừng Lăng, rừng trên núi Thiên Bút, có cả thú
rừng (ở Thu Phổ vẫn còn lưu dấu chân hổ trên khu mộ cụ Bùi Tá Triều, ñời vua
Minh Mạng). Hiện nay, ở núi Ông, núi Bút ñã và ñang hình thành các lâm viên
rừng trồng. Ngoài việc làm nông, người nông dân trên ñịa bàn xưa kia còn tiến
hành ñánh bắt cá trên sông Trà như một nguồn thu nhập ñáng kể. Cho ñến nay, quá
trình ñô thị hóa khiến ñất ñai canh tác bị dần thu hẹp. Nông nghiệp chủ yếu duy trì
ở các phường xã vùng ven như phường Quảng Phú phía tây, xã Nghĩa Dũng, xã
Nghĩa Dõng ở phía ñông, phường Nghĩa Lộ, Chánh Lộ ở phía nam. Ở các xã
Nghĩa Dũng, Nghĩa Dõng, bên cạnh việc duy trì nghề nông với canh tác còn mang
ñậm dấu ấn cổ truyền (có cải tiến), người ta còn chú ý ñến phát triển công thương


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
11

nghiệp, dịch vụ, kinh tế vườn, thâm canh trồng rau xanh, trồng hoa, cây cảnh
cung cấp cho vùng nội thị một lượng nông sản hàng hóa rất ñáng kể.
Tính ñến năm 2005, trong tổng số 47.561 lao ñộng ở thành phố Quảng Ngãi, lao
ñộng nông nghiệp chiếm 5.100 người, tuy tỷ lệ chỉ trên 10%, nhưng về số lượng
vẫn khá lớn.

Tiểu thủ công nghiệp
Trong hoạt ñộng kinh tế xưa kia, ở ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi hoạt ñộng
kinh tế tiểu thủ công nghiệp cũng khá ñáng kể. Tập ðịa dư tỉnh Quảng Ngãi của
Nguyễn ðóa và Nguyễn ðạt Nhơn viết năm 1939 ghi nhận nghề làm ñường cát,
ñường phèn ở Vạn Tượng, Chánh Lộ, nghề dệt ở Chánh Lộ, nghề mộc ở tỉnh lỵ
"Tại tỉnh lỵ có vài ba cửa hàng ñóng bàn ghế theo kiểu tân thời, ñánh xia bóng
nhoáng trông rất ñẹp" (trang 20). Nhưng nổi tiếng nhất là các nghề làm ñường
muỗng và các nghề phổ biến khác, sản xuất các loại ñường kẹo ñặc sản như ñường
phèn, ñường phổi ở Ba La, Vạn Tượng, các món ăn ñặc sắc như cá bống sông Trà,
don Vạn Tượng.
Anh ñi anh nhớ quê nhà
Nhớ con cá bống sông Trà kho tiêu.
(ca dao)
Con gái còn son không bằng tô don Vạn Tượng.
(ngạn ngữ)
Trải qua thời gian, các nghề thủ công truyền thống ở thành phố Quảng Ngãi vẫn
ñược duy trì, ñồng thời các nghề mới hình thành, thịnh hành như các nghề may
mặc, nhôm sắt, ñồ gỗ phổ biến trong phạm vi gia ñình, nhưng cũng ñã có nhiều
cơ sở trở thành doanh nghiệp. ðặc biệt, nghề chế biến món bò khô Quảng Ngãi ñã
nổi tiếng không chỉ ở thị trường trong tỉnh mà sản phẩm của nó còn lan ra nhiều
vùng trong nước.
ðiều ñáng lưu ý là các ngành nghề thủ công cổ truyền chế biến ñường kẹo ñặc
sản như kẹo gương, ñường phèn, ñường phổi, mạch nha từ vùng ven và các vùng
quê trong tỉnh Quảng Ngãi có xu hướng hội tụ về thành phố Quảng Ngãi, trong khi
ở quê gốc chỉ hoạt ñộng cầm chừng hoặc gần như không còn. Môi trường thành
phố Quảng Ngãi có thể là mảnh ñất tốt ñể các nghề này duy trì và phát triển trong
ñiều kiện mới. Hiện trên ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi có nhiều cơ sở chế biến và
nhiều cửa hàng bán các món ñặc sản như bánh nổ, bánh in, bò khô, các loại ñường
phèn, ñường phổi, kẹo gương, mạch nha, cá bống sông Trà khá thịnh ñạt. ðây
cũng chính là một ñiều kiện ñể thành phố ña dạng hóa các ngành nghề.



Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
12

Công nghiệp
Mặc dù là ngành sản xuất hình thành muộn nhưng công nghiệp ở thành phố
Quảng Ngãi có sự phát triển nhanh và rõ nét nhất. Trước kia, cơ sở công nghiệp ở
thành phố Quảng Ngãi hầu như không có. ðến thời chính quyền Sài Gòn quản lý,
cơ sở công nghiệp ñáng kể duy nhất xuất hiện là Nhà máy ñường Thu Phổ, Công ty
ðường Quảng Ngãi, xây dựng ở chân núi Ông. Từ năm 1975, các ngành nghề công
nhiệp mới dần hình thành và khu công nghiệp Quảng Phú ở phía tây thành phố
ñược thành lập. ðây là một trong ba khu công nghiệp tập trung do tỉnh Quảng Ngãi
ñầu tư xây dựng. Tính ñến năm 2005, khu công nghiệp này có 8 doanh nghiệp nhà
nước với số lao ñộng trên 6.000 người. Khu công nghiệp Quảng Phú chủ yếu là
công nghiệp chế biến thực phẩm như ñường, kẹo, sữa, nước uống, hải sản ñông
lạnh Thành phố Quảng Ngãi cũng xúc tiến ñể hình thành hai cụm công nghiệp
tập trung là cụm công nghiệp Thiên Bút với diện tích 50ha và cụm công nghiệp
Yên Phú diện tích 30ha. Thống kê cho thấy ñến hết năm 2005, thành phố Quảng
Ngãi có 1.704 cơ sở sản xuất công nghiệp, trong ñó có 5 doanh nghiệp nhà nước
do Trung ương quản lý, 4 doanh nghiệp nhà nước do ñịa phương quản lý, 1.649
doanh nghiệp cá thể, 46 doanh nghiệp tư nhân, tổng số cơ sở tăng 2.000 so với năm
2000. Lao ñộng sản xuất công nghiệp cá thể là 6.300 người. Giá trị sản xuất công
nghiệp trên ñịa bàn thành phố theo giá hiện hành năm 2005 là 2.250.270 triệu
ñồng, chiếm trên 2/3 giá trị sản xuất công nghiệp trên ñịa bàn toàn tỉnh và tăng
khoảng 3/5 so với chính thành phố năm 2000 (934.850 triệu ñồng)
(7).

Thương mại, dịch vụ, du lịch

Hoạt ñộng thương mại, dịch vụ, du lịch ngày càng chiếm vị trí nổi bật ở thành
phố Quảng Ngãi. Xưa ở ñịa bàn các làng quê nơi ñây ñều có chợ: chợ Ông Bố
(phía tây), chợ Ba La (phía ñông), chợ Gò Quán (phía nam), chợ Phú Mỹ Hạ và
lớn nhất là chợ Chánh Lộ, sau trở thành chợ tỉnh, nơi hội tụ việc mua bán của toàn
tỉnh. Sách L’ Annam en 1906 chép "Chợ tỉnh (Chánh Lộ xã) cung cấp ñược khá tốt
và có tầm quan trọng ñến các vùng lân cận của thành". ðến năm 1933, các tác giả
Quảng Ngãi tỉnh chí có ghi chép về số thuế của chợ tỉnh là 1.353,6 ñồng (tiền
ðông Dương), cao vượt trội so với các chợ khác trong tỉnh. Sách ðịa dư tỉnh
Quảng Ngãi của Nguyễn ðóa và Nguyễn ðạt Nhơn xuất bản năm 1939 mô tả về
không khí buôn bán ở ñây: "Thành phố Quảng Ngãi cũng là nơi hội hiệp các công
sở lớn như Tòa sứ, dinh Quan Tuần, ñồn Khố xanh dân cư trù mật khoảng trên
3.000 người. Con ñường cửa Tây phố xá ñông ñúc, buôn bán ñồ tạp hóa, quang
cảnh ngày ñêm có vẻ náo nhiệt". Các nhà buôn ở thành phố hồi này phần lớn là
Hoa kiều, Ấn kiều. Trong số các hiệu buôn của người Việt nổi tiếng có các hiệu
Quảng ðông An, Quảng Hòa Tế, Mỹ ðông An, Lợi An, Phạm Hoè Phía bắc tỉnh
thành có bến Tam Thương, có sông ðào ñể ghe thuyền vào ra buôn bán (sông ðào
ñược ñào từ năm 1938). Chợ tỉnh xưa xây dựng ở phía tây tỉnh thành, giữa vùng
sầm uất nhất ở nội thị, sau này mở rộng ra ñến phố Nguyễn Nghiêm ở phía nam.
Ngoài chợ, việc buôn bán, làm dịch vụ rải rác ở khắp các phố phường. Xưa trong
thời Pháp thuộc ở ñô thị Quảng Ngãi, dịch vụ mới manh nha phát triển như dịch vụ


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
13

xe kéo, xe ngựa, cắt tóc, may mặc. Cho ñến nay, các dịch vụ trở nên ña dạng hơn
nhiều và ngày càng tiếp cận với nhu cầu nhiều mặt của cuộc sống hiện ñại. ðặc
biệt sự phát triển của ngành dịch vụ ăn uống, giải trí, nhà nghỉ, khách sạn. Thành
phố Quảng Ngãi vẫn là ñiểm ñầu mối dẫn ñến các ñiểm tham quan - du lịch trong

tỉnh: ñi Sa Cần - Dung Quất, ñi dầu mối Thạch Nham, ñi Thiên Ấn - Sơn Mỹ - Mỹ
Khê - Ba Làng An, ñi Phú Thọ - Cổ Luỹ, ñi Nhà lưu niệm Phạm Văn ðồng, ñi Bảo
tàng Khởi nghĩa Ba Tơ ñều trong khoảng vài ba mươi ñến 60km. Năm 2005, có
7.214 cơ sở kinh doanh thương mại - dịch vụ với 12.146 lao ñộng.
Thành phố Quảng Ngãi có Quốc lộ 1 và ñường sắt Bắc - Nam chạy qua. Ga
Quảng Ngãi là ga chính trong tỉnh, phục vụ hành khách ñi ra Bắc, vào Nam.
ðường sắt ñược xây dựng từ thời Pháp thuộc, ga Quảng Ngãi hoàn thành từ năm
1935, bấy giờ quen gọi là ga Ông Bố (gần chợ Ông Bố). Quốc lộ 1 ñoạn qua thành
phố Quảng Ngãi có tên là ñường Quang Trung, sau này xây ñường cao tốc ở phía
ñông gọi là ñường tránh ñông, có cầu Trà Khúc II xây dựng từ năm 2004. Từ thành
phố Quảng Ngãi theo Quốc lộ 1 có thể vào Nam ra Bắc rất thuận tiện. Thời ñường
bộ chưa phát triển, ñường thuỷ vẫn ñóng vai trò quan trọng ở thành phố Quảng
Ngãi, với ñò ngang Trà Khúc nối ñường Thiên Lý, ñò dọc từ bến Tam Thương lên
nguồn xuống biển. Về ñường không, thời Pháp thuộc (năm 1920), có một chiếc
máy bay ñáp thử xuống xã Thu Phố (nay thuộc xã Quảng Phú), nơi mà sau này,
trong thời kỳ ñất nước bị chia cắt, chính quyền Sài Gòn ñã xây dựng sân bay. Sân
bay Quảng Ngãi thời kỳ này khá nhộn nhịp, nhưng kể từ sau năm 1975 ñã ngưng
hoạt ñộng. Hoạt ñộng giao thông - vận tải ở thành phố Quảng Ngãi ngày nay chủ
yếu dựa vào hệ thống ñường sắt và ñường bộ.
Các dịch vụ, cơ sở hạ tầng khác
Thời phong kiến, ñường Thiên Lý Bắc - Nam ñi qua thành phố Quảng Ngãi,
nhưng ở ñây không có dịch trạm. Thời Pháp thuộc, thực dân thiết lập "Nhà dây
thép" trong nội thành Quảng Ngãi. ðến thời chính quyền Sài Gòn quản lý, Nhà
Bưu ñiện tỉnh ñược xây dựng ở vị trí ngày nay (ñường Phan ðình Phùng), Bưu
ñiện thành phố (nằm ở ñường Quang Trung), có hệ thống phục vụ thông tin khá tốt
trên ñịa hạt thành phố và trong toàn tỉnh. Số ñiện thoại thuê bao trên ñịa bàn thành
phố ñạt 18.588 máy vào năm 2005.
Nhà máy ñiện trước kia, sau này là ðiện lực Quảng Ngãi có trụ sở trên ñường
Trần Hưng ðạo. Nguồn ñiện mới manh nha từ trước 1945, ñến sau 1954 mới có sự
phát triển nhất ñịnh nhưng còn rất hạn chế. ðến thời kỳ ñất nước thống nhất, khi có

ñiện lưới quốc gia, mới hoàn toàn phủ ñiện trên toàn thành phố. Mạng lưới ñiện ở
thành phố Quảng Ngãi dần dần ñược cải tạo, nâng cấp ñể ñảm bảo về kỹ thuật, an
toàn, tiết kiệm.
Lĩnh vực tài chính, từ thời Pháp thuộc ở ñịa hạt thành phố Quảng Ngãi cũng ñã
có ngân hàng cho vay nhưng còn nhỏ nhoi, không ñáng kể. Hệ thống tài chính,
ngân hàng của tỉnh ñặt ở thành phố Quảng Ngãi trải qua thời gian, ñến nay ñã phát
triển mạnh, bao gồm: Ngân hàng Nhà nước nằm trên ñường Nguyễn Thuỵ; Ngân


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang
14

hàng Công thương, Ngân hàng ðầu tư và phát triển, Kho bạc Nhà nước ñều nằm
trên ñường Hùng Vương - trục chính của thành phố; Ngân hàng Nông nghiệp,
Ngân hàng Phục vụ người nghèo nằm trên ñường Trần Hưng ðạo - gần sát Ngã
Năm cũ. Sự kinh doanh tài chính ñã phát triển khá tốt.
Thành phố Quảng Ngãi là nơi tập trung các hoạt ñộng kinh tế của toàn tỉnh, là
ñầu tàu thúc ñẩy sự phát triển kinh tế trong toàn tỉnh Quảng Ngãi. Thành phố ñang
trong quá trình "lột xác", ñô thị hóa ñể ñáp ứng yêu cầu phát triển chung.
*
* *
Về văn hóa, thành phố Quảng Ngãi là trung tâm văn hóa của tỉnh Quảng Ngãi
xưa nay, còn lưu giữ nhiều giá trị văn hóa cổ truyền quý báu.
Khuôn viên Bệnh viện ða khoa tỉnh (ñường Hùng Vương) vốn là nền tháp
Chánh Lộ, một tháp có tầm quan trọng trong hệ thống ñền tháp Chăm, với phong
cách ñộc ñáo, gọi là phong cách Chánh Lộ. Từ thời Pháp thuộc, các nhà khảo cổ
học ñã tìm thấy ở ñây nhiều tượng ñá ñộc ñáo, phần lớn ñưa về lưu giữ ở Bảo tàng
ðiêu khắc Chăm (thành phố ðà Nẵng) và sau này trong khi ñào móng, các hiện vật
khác cũng xuất lộ, như các sư tử ñá, tấm lanhtô ñá có khắc văn bia bằng tiếng

Chăm ñược ñưa về Bảo tàng tổng hợp Quảng Ngãi.
Trải năm, sáu thế kỷ trên mảnh ñất này, văn hóa Việt cũng lưu lại nhiều di tích
quý giá. ðền Bùi Tá Hán nguyên xây dựng năm 1909 ở núi Phước Lãnh (từ ngày
có ñền gọi là núi Ông hay núi Trấn Công), rộng rãi bề thế. Sau năm 1962, chính
quyền Sài Gòn xây dựng Nhà máy ðường Quảng Ngãi ở ñây, ñền phải dời về
Rừng Lăng, cách nửa cây số về hướng tây. Tại ñây vốn có mộ Bùi Tá Hán, có bia
mộ do 4 nhà nho nổi tiếng ở Quảng Ngãi ñứng ra xây dựng từ năm 1849. ðền thờ
còn lưu giữ ñược nhiều hiện vật quý như tượng Bùi Tá Hán và tượng Xích Y hầu,
23 bản sắc phong của các triều vua phong cho Bùi Tá Hán và con trai là Bùi Tá
Thế
(8)
. Thuở xưa, ở các làng xã ñều có ñình làng, nổi tiếng nhất là ñình Chánh Lộ
và ñình Ba La. ðình Chánh Lộ ñược xây dựng rất quy mô, bề thế, nằm ở góc ñông
bắc của ngã tư chính. Năm 1936, sau dụ của vua Bảo ðại về việc thiết lập ñô thị
trung tâm Quảng Ngãi, một số kẻ buôn bán câu kết với viên Công sứ Pháp ñương
nhiệm ñịnh xóa sổ ñình, nhập vào ñô thị Quảng Ngãi. Nhưng dân làng Chánh Lộ
ñã ñấu tranh quyết liệt ñể bảo vệ ñình. Sau Cách mạng tháng Tám 1945, ñình
Chánh Lộ là nơi triển lãm tranh ảnh của tỉnh Lê Trung ðình. ðình Ba La làm bằng
gỗ mít, rất rộng (Rộng thình thình như cái ñình Ba La - ngạn ngữ), sau Cách mạng
tháng Tám cũng ñược tận dụng cho việc công. ðến năm 1947, thực hiện tiêu thổ
kháng chiến, cả hai ñình này cùng với nhiều ñình khác bị dỡ bỏ. Ngoài ra, còn có
thể kể về ñình làng Thu Phố, ở phía tây ñường sắt hiện nay. ðình này có thể ñược
dựng khá muộn, khoảng năm Canh Ngọ (1810 hoặc 1870), quanh có la thành, có
bình phong, bên trái là nhà hội, bên phải là hưởng ẩm, toàn nhà tranh. ðình gần
chợ ông Bố, mặt quay hướng tây, ñược tu bổ vào năm Khải ðịnh thứ nhất (1916),
nay không còn.


Ñòa chí Quaûng Ngaõi
Trang

15

Di tích thành quách thì có thành Quảng Ngãi, nay chỉ còn lại một ít dấu vết như
bờ thành, hào thành. Ở khoảng giữa phường Chánh Lộ tại xóm Tư Văn có văn
miếu huyện Chương Nghĩa. Văn miếu ñược xây dựng từ năm Tự ðức thứ 8
(1855), do văn thân trong huyện quyên tiền cất dựng. Văn miếu có bình ñồ vuông,
mỗi cạnh khoảng 10m, có xây thành bao quanh, trước cổng miếu có ghi 4 chữ
"Văn kỳ tại tư" (文 其 在 斯) lấy từ sách Luận ngữ - có nghĩa là ñây có thể là ñất
văn vậy. Bên trong có xây nhà bia, có tấm bia ñá non nước, mặt trước cũng ghi bốn
chữ "Văn kỳ tại tư", mặt sau ghi niên ñại dựng bia là năm Thành Thái thứ 9
(1898).
Thành phố Quảng Ngãi vốn bao gồm nhiều làng quê trù phú, ở ñây cũng còn lưu
lại nhiều kiến trúc nhà rường, rất tiêu biểu cho nền kiến trúc của người Việt ở
Quảng Ngãi. Xét về di sản kiến trúc thì ở thành phố di sản kiến trúc Pháp không
ñáng kể, di sản kiến trúc ñình không còn, nên di sản kiến trúc nhà rường còn tồn tại
thật sự là di sản quý, rất ñáng ñể bảo tồn. Văn hóa làng xã vẫn còn dấu ấn ñậm nét,
nhất là vùng ven, gồm các xã phía ñông và các thôn ở phía tây thành phố như
Nghĩa Dũng, Quảng Phú. Các tập tục, lễ hội, tín ngưỡng của cư dân nơi ñây không
khác mấy với các làng quê khác trong tỉnh Quảng Ngãi. Trong di sản văn hóa phi
vật thể trên ñịa hạt thành phố Quảng Ngãi ngày nay, ñáng chú ý có các tri thức,
kinh nghiệm của các làng nghề ñường kẹo ñặc sản, các món ăn ñặc sản: ñường
phèn, ñường phổi, kẹo gương, cá bống sông Trà kho tiêu, cá thài bai, lịch
Trong quá trình ñấu tranh chống ngoại xâm, ñịa bàn thành phố Quảng Ngãi cũng
ñể lại nhiều di tích quý báu như di tích Nhà lao Quảng Ngãi thời Pháp thuộc, di
tích 4 dũng sĩ Nghĩa Dũng, di tích 68 liệt sĩ Xuân Mậu Thân
Từ sau Cách mạng tháng Tám 1945, nền văn hóa cách mạng ñã từng bước hình
thành ở thành phố Quảng Ngãi, với các hoạt ñộng xây dựng ñời sống mới, bãi bỏ
các tập tục lạc hậu, xây dựng phong trào văn hóa văn nghệ. Văn hóa ñô thị bắt ñầu
manh nha, trong khi yếu tố văn hóa làng xã vẫn tiếp tục duy trì. Cũng từ sau Cách
mạng tháng Tám 1945, thành phố Quảng Ngãi là một trong những nơi sản sinh các

văn nghệ sĩ có tên tuổi trong nước như họa sĩ ðường Ngọc Cảnh, Nghệ sĩ nhân dân
Trà Giang, Nghệ sĩ nhân dân Lệ Thi, Nghệ sĩ ưu tú Văn Khánh, Giáo sư Tiến sĩ
Lâm Tô Lộc, nhà thơ Nguyễn Viết Lãm
(9)
. Dưới sự quản lý của chính quyền Sài
Gòn, thị xã Quảng Ngãi còn tiếp thu văn hóa du nhập từ các nước tư bản, trong ñó
không ít các sản phẩm ñộc hại, lai căng. Từ sau 1975, thị xã Quảng Ngãi lại tiếp
tục xây dựng văn hóa mới theo hướng dân tộc, hiện ñại. Việc xây dựng nếp sống
văn minh ñô thị, giữ gìn vệ sinh môi trường là một vấn ñề nổi cộm trong thời kỳ ñô
thị hóa và cơ sở hạ tầng chưa ñồng bộ. Bên cạnh các thiết chế văn hóa của tỉnh,
thành phố Quảng Ngãi có thư viện, có ñài truyền thanh, nằm ở ñường Quang
Trung, các xã, phường có khu sinh hoạt văn hóa. Các di tích lịch sử - văn hóa và
danh lam thắng cảnh lần lượt ñược lập hồ sơ xếp hạng, tôn tạo. Phong trào văn
nghệ, phong trào thể dục, thể thao quần chúng ở thị xã Quảng Ngãi ñược duy trì và
phát triển. Phòng Văn hóa - Thông tin - Thể dục thể thao (trụ sở ở ñường Phan Chu
Trinh) là cơ quan tham mưu cho Uỷ ban nhân dân thành phố quản lý nhà nước trên

×