Tải bản đầy đủ (.pdf) (7 trang)

Bò sát ( phần 4 ) Sự nở trứng và con non ở Bò sát (Reptilia) potx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (401.49 KB, 7 trang )

Bò sát ( phần 4 )
Sự nở trứng và con non ở Bò sát (Reptilia)
- Khi đã đến ngày nở, trước mõm của bò sát con có từ 1 - 2 răng
phôi nhỏ (răng sữa) mọc ở phía trước hàm trên. Răng phôi này dùng để
phá vở vỏ trứng để bò sát con chui ra ngoài. Sau khi con non lọt khỏi vỏ,
răng phôi hết tác dụng sẽ tiêu biến đi trong khoảng vài giờ hoặc vài ngày.
Tắc kè và thạch sùng non có 2 răng phôi to có lẽ vì trứng có vỏ cứng. Cá
sấu nước lợ có 2 răng phôi, các loài cá sấu khác và rùa có 1 răng phôi.

Ở các loài bò sát đẻ trứng thai (noãn thai sinh), con nở trong bụng mẹ, và
cựa quậy phá rách võ trứng chui ra ngoài.
Một số loài bò sát non cần phải có sự giúp sức của bò sát bố mẹ mới có
thể lọt ra khỏi vỏ được. Thằn lằn sa mạc đẻ con (Xantusia) thằn lằn con
đẻ ra còn ở trong bọc, khi đó thằn lằn mẹ phải dùng răng cắn rách màng
bọc để lôi con ra ngoài. Cá sấu Mỹ làm ổ bằng bùn, rác và trét kín lại.
Khi nghe thấy tiếng cá sấu con đã nở lục đục trong ổ, thì cá sấu mẹ phá tổ
cho con ra ngoài. Cá sấu mẹ còn biết dẫn đàn con xuống nước. Rùa
nước ngọt, đồi mồi non biết tìm thấy đường xuống nước nhờ
những tia nắng mặt trời phản chiếu xuống nước.
- Ngay từ khi mới nở, chui ra khỏi vỏ, bò sát non đã giống bố mẹ về hình
dạng. Rắn độc non mới nở có thể hoạt động ngay, bò, leo, bơi lội và tự
bắt lấy mồi ăn và có thể cắn người.
Nơi đẻ, bảo vệ và chăm sóc trứng
- Bò sát thường đẻ trứng vào trong hốc đất thiên nhiên, khe đá hoặc do
con cái đào. Vài loài thằn lằn (tắc kè, thạch sùng) đẻ trứng ở nơi kín đáo,
khe đá, hốc cây và trứng dính vào đá hay vỏ cây. Rắn cái sau khi có chửa
sắp đến ngày đẻ thường tìm đến hốc cây, khe đá, dưới đống lá rụng, bụi
cây.

Các loài bò sát sống ở nước (cá sấu, rùa ) cũng lên cạn để đẻ. Ðồi mồi
bò lên bãi cát, bới cát thành hốc, đẻ trứng vào hốc, lấp hốc lại. Các cá thể


cái cùng loài thường tìm đến một nơi để đẻ trứng, vì nơi đó có nhiệt độ,
độ ẩm thích hợp cho trứng của loài đó phát triển. Vì vậy có lúc người ta
phát hiện và thu được nhiều trứng đồi mồi, rắn, rùa ở một khu vực hẹp.
- Thời gian trứng nở thay đổi tuỳ loài, tuỳ theo nhiệt độ môi trường từ 30
- 120 ngày. Vài loài thằn lằn cần 30 ngày để trứng nở, tắc kè cần 100
ngày. Trứng rắn nở sau 66 - 85 ngày, rùa từ 30 - 60 ngày. Riêng giống
Chủy đầu (Hatteria) trứng cần 15 tháng mới nở.
- Hiện tượng chăm sóc trứng thay đổi tùy loài. Một số loài bò sát như
thạch sùng, kỳ đà sau khi đẻ trứng trong các hang hốc, không biết
chăm sóc ổ trứng mà ngay khi con mới nở cũng không biết chăm sóc và
bảo vệ con, đôi khi ăn cả con. Một số loài bò sát như cắc kè (Calotes
versicolor) biết dùng đầu để xóa sạch những vết tích của hang chứa trứng.
Vích, đồi mồi sau khi đẻ xong cũng biết xóa sạch dấu vết bằng cách dùng
cát lấp hố lại. Rùa đào hang rất tài, rùa mẹ dùng chân sau để đào, nếu gặp
đất quá cứng rùa mẹ biết đái vào đất làm cho đất mềm ra, rồi tiếp tục đào,
cho đến khi thành ổ đẻ. Lổ cửa hang thường rất nhỏ, rùa mẹ biết dùng
chân sau đưa dần trứng vào trong hang. Cá sấu (Crococylus porosus) làm
tổ bằng rác và cành cây ở bờ đầm, đẻ khoảng 25 - 60 trứng, rồi đào một
hố cách tổ 1m, nằm trong đó canh trứng, thỉnh thoảng quẩy đuôi cho
nước bắn lên tổ. Một số loài bò sát như rắn ráo, kỳ đà đã tìm đến tổ mối
để đẻ trứng. Tổ mối có đủ nhiệt độ và độ ẩm ổn định như một lò ấp trứng,
khi những con non nở ra có thể tìm ngay mối thợ và ấu trùng mối để ăn.
Một số ít loài bò sát có khả năng ấp trứng thật sự, lấy thân quấn tròn đám
trứng để ủ. Rắn hổ mang chúa (Ophiaphagus hannah) cái đẻ từ 20 - 40
trứng vào đống lá rụng, liền tìm một lớp lá khác để phủ lên trên, rồi cuộn
tròn nằm ấp phía trên. Con đực cũng hoạt động gần đó để bảo vệ trứng.
Lúc này chúng trở nên hung dữ, bất kỳ một loài động vật nào lại gần
cũng đều bị chúng chủ động tấn công. Trăn cái (Python) dùng đuôi
và cử động uốn mình của thân để vun trứng lại thành đống trứng hình
nón. Sau đó trăn cái cuốn lấy toàn bộ ổ trứng vào trong khúc thân. Ở tư

thế ấp trứng, đuôi trăn ở dưới, mình trăn cuộn lấy ổ trứng, còn đầu thì che
phủ trên. Trăn ấp trứng trong 6 tuần và chỉ rời ổ trứng trong chốc lát để đi
uống nước. Nhờ sự ấp này trăn đã tạo được nhiệt độ thích hợp và ổn định
giúp cho phôi phát triển. Ðến ngày nở, trăn con đục vỏ trứng chui đầu ra
trước. Nếu có tiếng động thì trăn con lại thụt đầu vào vỏ trứng. Cứ thập
thò như vậy sau 2 - 3 ngày, trăn con mới rời hẳn vỏ.
Thằn lằn (Emeces) biết sắp xếp lại ổ trứng khi thấy trứng vương vải, đảo
trứng và thỉnh thoảng đi phơi nắng để lấy nhiệt vào cơ thể, để ủ trứng cho
đến khi nở.
Lứa đẻ, trứng, đẻ con ở Bò sát (Reptilia)
- Trong vùng nhiệt đới mùa sinh sản của bò sát vào trước mùa mưa,
còn ở vùng ôn đới mùa này xảy ra vào đầu mùa ấm. Thời gian có chửa
kèo dài từ vài tuần đến vài tháng nhưng theo quy tắc ở các loài đẻ con dài
hơn các loài đẻ trứng. Số lứa đẻ thay đổi tuỳ vùng. Ở vùng ôn đới, bò sát
chỉ đẻ một lần trong năm.

Ở vùng hàn đới có loài phải 2 năm mới đẻ một lần. Ở vùng nhiệt đới, bò
sát đẻ từ một đến bốn lứa trong một năm. Một số loài rắn, cá sấu, kỳ đà
chi đẻ 1 lứa/1 năm. Một số thằn lằn (tắc kè, thạch sùng) và rùa (rùa mốc,
rùa mai dẹp) đẻ hai lứa/năm, mỗi lứa đẻ hai trứng. Rắn ráo đẻ 4 lúa/năm.
Các loài rùa biển (đồi mồi, vích ) và rùa sông (ba ba) đẻ ba đến bốn lứa.
- Trứng bò sát lớn hơn trứng lưỡng cư và thường có hình bầu dục. Trứng
tắc kè, thạch sùng, ba ba, đồi mồi lại có hình tròn. Trứng nhỏ nhất vào
khoảng 2 - 3mm, trứng lớn nhất là của cá sấu, kỳ đà, rùa vào khoảng 90 -
120mm. Cỡ lớn của trứng tăng theo cỡ lớn của con vật. Số lượng trứng
thay đổi tùy loài bò sát, nhìn chung bò sát ở cạn đẻ trứng ít hơn bò sát ở
nước. Trong nhóm thằn lằn như tắc kè, thạch sùng đẻ hai trứng trong một
lứa, cắc kè đẻ 6 - 10 trứng/lứa, kỳ đà 17 - 35 trứng/lứa, rắn hổ mang từ 8 -
23 trứng/lứa, cá sấu 25 - 60 trứng/lứa, ba ba 20 - 30 trứng/lứa; đồi mồi,
vích đẻ hơn 100 trứng/lứa. Vỏ trứng thường dai mềm, chỉ có vỏ trứng của

rùa cạn, thạch sùng, tắc kè, cá sấu, ba ba thì cứng do ngấm thêm calci.
- Một số loài bò sát có hiện tượng đẻ con (noãn thai sinh = đẻ trứng thai)
như rắn bông súng, rắn biển, rắn mối (Mabuya multifasciata). Trứng sau
khi được thụ tinh vẫn được giữ lại trong ống dẫn trứng. Ở đó, phôi sẽ phát
triển, lớn lên nhờ chất noãn hoàng (lòng đỏ) dự trữ của trứng. Khi đã
được hình thành, bò sát con tự cắn rách lớp màng trứng rất mỏng, chui ra
ngoài qua lổ huyệt. Số con thay đổi từ 2 - 100. Rắn biển đẻ 2 - 15 con.
Rắn da cóc đẻ 70 - 72 con.
Bằng cách đẻ con, bò sát bảo vệ được nòi giống tốt hơn, tránh được
những điều kiện bất lợi của môi trường. Hiện tượng đẻ con này ít gặp ở
vùng nhiệt đới, chỉ thường gặp ở những loài sống trong vùng có khí hậu
mát (vùng ôn đới, núi cao).
Giao hoan, giao phối và thụ tinh ở Bò sát (Reptilia)
1. Hiện tượng giao hoan
Trước khi giao phối, thường xảy ra hiện tượng giao hoan sinh dục. Hiện
tượng này giúp cho đực và cái nhận biết nhau và kích thích cá thể cái
trước khi giao phối.
Ở cắc kè (Calotes versicolor) lúc múa giao hoan, con đực đứng thẳng hai
chân sau, đầu lắc lư, miệng há ra ngậm lại nhịp nhàng, màu sắc thay đổi
nhanh chóng. Tắc kè đực vảy đuôi làm dáng trước khi giao phối. Thạch
sùng đực (Hemydactylus) chạy chung quanh con cái, thỉnh thoảng liếm
hoặc lấy mõm chạm vào thạch sùng cái để vuốt ve. Thằn lằn đực (Lacerta
agilis) khi đã tìm được thằn lằn cái, liền dùng mõm đập vào cổ, gáy, cọ
những lổ đùi vào lưng đớp đuôi, đớp háng thằn lằn cái. Rắn hổ mang
được nuôi ở các trại rắn có thời gian giao hoan sinh dục khoảng nửa giờ.
Rắn đực và cái bò song song với nhau trước khi giao phối. Một số loài
rùa đầm đực có tập tính giao hoan bằng cách lắc lư đầu, cắn cào rùa cái.

Hoạt động giao phối của rùa (theo Hickman)


Hoạt động giao phối ở Rắn Coronella austriaca
2. Sự giao phối
Bò sát đực có cơ quan giao phối là dương hành để đưa tinh trùng vào
huyệt của cá thể cái. Sự thụ tinh được thực hiện ở bên trong ống dẫn
trứng. Thằn lằn đực (nhông, thạch sùng) thường dùng răng ghìm thạch
sùng cái để giao phối. Một số loài nhông khác, con đực không cắn nhưng
dùng chân trước giữ phần thân trước của nhông cái hoặc bám hai bên
sườn, hoặc leo lên lưng của nhông cái. Con đực có thể giao phối với
nhiều con cái, trái lại con cái chỉ giao phối một lần. Thời gian giao phối
có thể kèo dài từ nửa giờ đến vài giờ hay hơn nữa. Khi giao phối, rùa cạn
đực leo lên mai lưng của rùa cái. Ðể đứng được vững trên lưng rùa cái,
rùa đực dùng vuốt bám chặt vào bờ mai trước của rùa cái và cắn vào đầu
của rùa cái. Khi chịu đực, rùa cái rướn mình lên khỏi mặt đất, đuôi
duỗi thẳng. Rùa đực đưa dương hành vào huyệt con cái.
Rùa đầm (Emys) giao phối trong nước, rùa đực leo lên lưng của rùa cái.
Nếu rùa cái chưa chịu thì sẽ bị rùa đực cắn hoặc dìm xuống bùn cho đến
khi nào chịu mới thôi.
Cá sấu đực dùng chân trước bám chặc vào cổ cá sấu cái. Sau đó nó vặn
thân sang một bên, xoay xuống phía dưới thân của cá sấu cái để giao
phối.
Thông thường ở bò sát, con đực đóng vai trò chủ động và tích cực. Ngược
lại ỏ một số ít loài như nhông (Agama agama). Trong mùa sinh sản nhiều
cá thể cái vây lấy một cá thể đực. Con nào cũng muốn cho cá thể đực chú
ý, chúng chạy quanh và chìa lỗ huyệt cho con đực.
3. Thụ tinh
Ở rắn, sau khi giao phối, tinh trùng nằm trong ống dẫn trứng của con cái
trong nhiều tháng đến vài năm. (thí nghiệm cho thấy sau ba đến bốn năm,
con cái vẫn đẻ trứng, trứng được thụ tinh và nở thành con). Rắn lục
châu Phi cái (Causus rhombeatus) sau khi giao phối được nuôi cách ly
khỏi rắn đực đã đẻ 7 ổ trứng và tỷ lệ thụ tinh vẫn cao. Sau khi giao phối,

tinh trùng sống trong ống dẫn trứng của rắn cái và chờ trứng rụng. Ở rắn
sống vùng ôn đới sau khi giao phối độ hai tháng, rắn cái mới rụng trứng.

×