Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

Lịch sử học thuyết kinh tế docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (258.67 KB, 23 trang )

Keynes(1884-1946) là một nhà kinh tế họcngười Anh. Thành phố nổi
tiếng là "lí thuyết chung về việc làm năng suấtvà tiền tệ" (1936) đặc
điểm chủ yếu của học thuyết Keynes.
- Kịch liệt phê phán c/s kinh tế của chủ nghĩa bảothủ. Ông không
đồng ý với quan điểm của trường phái "cổ điển và tân cổđiển" về sự
cân bằng kinh tế dựa trên cơ sở tự điều tiết của thị trường.Theo ông,
muốn có cân bằng Nhà nước phải can thiệp vào kinh tế.
- Vấn đề quan trọng nhất, nguy hiểm nhất là khốilượng thất nghiệp
và việc làm. Vị trí trung tâm trong học thuyết của ông là líthuyết
"việc làm". Trong đó kể đến lí thuyết kinh tế vĩ mô, về hệthống điều
tiết của đường Nhà nước, ông biểu hiện lợi ích và là công trình
củachủ nghĩa tư bản Nhà nước.
- Theo ông, việc phân tích phải bắt nguồn từ nhữngtổng lượng lớn để
nghiên cứu mối hệ giữa các tổng lượng và khuyênh hướng
chuyểnbiến của chúng để tìm ra khuynh hướng, công cụ tác động
vào những khuynh hướngviệc làm luôn thay đổi tổng lượng.
Mô hìnhkinh tế của ông gồm ba đại lượng:
+ Đại lượng xuất phát : không biến đổi hoặc biếnđổi chậm. Đó là
những nguồn v/c tlsx, mức độ trang bị kĩ thuật , trình độc huyên
môn hoá của chủ nghĩa, cơ cấu của chế độ xã hội .
+ Đại lượng khả biến độc lập: là những khuynhhướng tâm lí (tiết
kiệm, tiêu dùng, đầu tư )nhóm này là cơ sở hoạt động củamô hình,
là đòn bẩy cho sự họat động của các tổ chức kinh tế.
+Đại lượng khả biến phụ thuộc : cụ thể hoá tìnhtrạng của nền kinh
tế (số lượng quốc gia, thu nhập quốc dân) => R=C+S
Q= C+I => I=S
R=Q
- Lí thuyết của Keynesđánh giá cao vai trò củatiêu dùng và trao đổi,
coi tác dụng và trao đổi là nhiệm vụ số một mà nhà kinhtế học phải
giải quyết. Theo ông,cùng với sự tăng lên của việc làm thì cũng cósự
tăng lên của thu nhập và do đó có sự tăng lên của tiêu dùng và do


cầu cóhiệu quả giảm xuống.Đây là nguyên nhân gây ra khủng hoảng,
thất nghiệp,trì truệtrong nền kinh tế tư bản chủ nghĩa. Vì thế, để đẩy
mạnh sản xuất bảo đảm cânđối cung cầu thì phải nâng cầu tác dụng
lên, tìm biện pháp kích thích cầu cóhiệu quả chính vì thế lí thuyết của
Keynes còn được gọi là lí thuyết trọng cầu.
- Tuy nhiên phương pháp luận của Keynes là siêuhình, ông cho rằng
lí thuyết này đúng với mọi chế độ xã hội.
* Lí thuyết về sự can thiệp của Nhà nước vào kinhtế của Keynes.
- Đầu tư Nhà nước. Sự tăng giá của Nhà nước vàokinh tế sẽ làm tăng
đầu tư tư nhân cũng như tăng tiêu dùng của Nhà nước lên. Vìvậy,
làm cho cầu có hiệu quả tiến sát với đường biến đổi của thu nhập.
Nhờ vậymà tăng C, tăng Y chống khủng hoảng và thất nghiệp.
- Sử dụng hệ thống tài chính
- Tín dụng và lưu thông tiền tệ.
+ Kích thích lòng tin, tính lạc quan và tích cựcđầu tư của nhà kinh
doanh. Lạm phát là biện pháp hữu hiệu để kích thích thịtrường mà
không gây ra nguy hiểm(có kiểm soát) để tăng giá cả.
+ Để bù đắp thiếu hụt ngân sách Nhà nước-) chủtrương in thêm tiền
để cấp phát cho ngân sách hoạt động, mở rộng đầu tư Nhànước và
đảm bảo chi tiêu cho cổ phần.
+ Sử dụng công cụ thuế để điều tiết nền kinh tế :tăng thuế để điều
tiết bớt một phần tiết kiệm từ thu nhập của người lao động ,đưa vào
ngân sách để Nhà nước mở rộng đầu tư, giảm thuế với nhà đầu tư
để tăngđầu tư.
- Tạo việc làm, mở nhiều hình thức đầu tư để giảiquyết việc làm,
tăng thu nhập, chống khủng hoảng, có thể với nghề ăn bám nhưsản
xuất vũ khí, chạy đua vũ trang.
- Khuyến khích tiêu dùng, khuyên khích tiêu dùngcánhân đối vớinhà
tư sản, tầng lớp giàu có và người nghèo
* Hạn chế của lí thuyếtKeynes:

- Trong một thời gian dài, lí thuyết Keynes được vận dụng rộng rãi,
tuy nhiênnó cũng thể hiện số hạn chế:
+ Mục đích của lí thuyết Keynes là chống khủng hoảng và thất
nghiệp. Song,trong những năm thực hiện lí thuyết này thì cứ 4 năm
lại có một lần chấn độngkinh tế.
+Nạn thất nghiệp ở các nước tư bản không được khắc phục mà có
xu hướng giatăng. Tư tưởng "Lạm phát có điều tiết" của Keynes góp
phần làm tăngsự trầm trọng của lạm phát, một căn bệnh nan giải
của nền kinh tế hiện đại.
+ Công cụ lãi suất điều tiết đầu tư cũng không có hiệu quả và nhiều
khi còn cótác động ngược lại.
+ Nắm được nhu cầu xã hội hoá đòi hỏi sự can thiệp Nhà nước vào
kinh tế, Keynesđưa ra lí thuyết chủ nghĩa tư bản được điều tiết.
Song, khi đánh giá cao vaitrò Nhà nước, ông lại bỏ qua vai trò của tư
tưởng tự do của bàn tay vô hình,của cân bằng tổng quát .
=> Điều đó làm gia tăng xu hướng phê phán lí thuyết kinh tế
Keynes.
Trách 2
Vào những năm 30 của thế kỷ 20,
khủng hoảng kinh tế, thất nghiệp diễn
ra thường xuyên và nghiêm trọng tại
các nền kinh tế Tây Âu và Hoa Kỳ.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới
1929-1933 cho thấy học thuyết "tự
điều tiết" của trường phái cổ điển và cổ
điển mới thiếu xác đáng. Lý thuyết "bàn tay vô hình" của A. Smith,
học thuyết "cân bằng tổng quát" của L. Walras cũng không phát huy
được hiệu quả và bảo đảm nền kinh tế phát triển khỏe mạnh. Đồng
thời, sự phát triển nhanh chóng của lực lượng sản xuất đòi hỏi Nhà
nước can thiệp nhiều hơn vào nền kinh tế. Đây chính là các cơ sở

hình thành và phát triển lý thuyết kinh tế của John Maynard Keynes.
John Maynard Keynes (1884-1946) là nhà kinh tế học người Anh,
giáo sư Đại học tổng hợp Cambridge, chuyên gia trong lĩnh vực tài
chính tín dụng và lưu thông tiền tệ, cố vấn ngân khố quốc gia, thành
viên Ban giám đốc ngân hàng Anh, chủ bút một tạp chí kinh tế.
Tác phẩm nổi tiếng nhất của J.M Keynes là "Lý thuyết chung về việc
làm, lãi suất và tiền tệ" (1936). Ông kịch liệt phê phán chính sách
kinh tế của chủ nghĩa bảo thủ. Tính chất không ổn định của nền kinh
tế, tỷ lệ thất nghiệp ngày càng tăng lên là điều khiến Keynes lo lắng.
Song, ông cho rằng, khủng hoảng và thất nghiệp không phải hiện
tượng nội sinh của nền kinh tế, mà do chính sách kinh tế lỗi thời, bảo
thủ và thiếu sự can thiệp của Nhà nước gây ra. Ông không đồng ý
với quan điểm của trường phái kinh tế cổ điển và cổ điển mới về sự
cân bằng kinh tế dựa trên cơ sở tự điều tiết của thị trường. Theo
Keynes, muốn có cân bằng, Nhà nước phải can thiệp vào nền kinh
tế.
Vấn đề quan trọng nhất, nguy hiểm nhất với nền kinh tế là thất
nghiệp và việc làm. Vì vậy, vị trí trung tâm trong lý thuyết Keynes là
"việc làm." Lý thuyết kinh tế của J.M. Keynes đã mở ra một giai đoạn
mới trong tiến trình phát triển lý luận kinh tế (cả về chức năng tư
tưởng lẫn thực tiễn).
Đặc trưng nổi bật của học thuyết Keynes là đưa ra phương pháp
phân tích vĩ mô. Theo ông, việc phân tích kinh tế phải xuất phát từ
các tổng lượng lớn để nghiên cứu mối liên hệ giữa các tổng lượng và
khuynh hướng biến chuyển của chúng để tìm ra công cụ, tác động và
khuynh hướng, làm thay đổi tổng lượng. J.M Keynes đưa ra mô hình
kinh tế vĩ mô với ba đại lượng:
1) Đại lượng xuất phát. Đại lượng này được coi là không thay đổi
hoặc thay đổi chậm. Đó là các nguồn vật chất như tư liệu sản xuất,
số lượng sức lao động, mức độ trang bị kỹ thuật của sản xuất, trình

độ chuyên môn hóa của người lao động, cơ cấu của thể chế kinh tế.
2) Đại lượng khả biến độc lập. Đó là những khuynh hướng tâm lý
như khuynh hướng tiêu dùng, khuynh hướng tiết kiệm, ưa chuộng
tiền mặt Nhóm này là cơ sở hoạt động của mô hình, là đòn bẩy
đảm bảo cho sự hoạt động của tổ chức kinh tế.
3) Đại lượng khả biến phụ thuộc. Đại lượng này cụ thể hóa tình trạng
nền kinh tế như khối lượng việc làm, thu nhập quốc dân tính bằng
đơn vị tiền công. Đó là các tiêu chí quan trọng cấu thành nền kinh tế.
Các đại lượng này thay đổi theo sự tác động của các biến cố độc lập.
Giữa các đại lượng khả biến độc lập và khả biến phụ thuộc có mỗi
liên hệ với nhau. Nếu ký hiệu C là tiêu dùng, I là đầu tư, S là tiết
kiệm, R là thu nhập và Q là giá trị sản lượng hiện tại thì:
R = Q = C + I (1)
S = R - C (2)
Từ hai phương trình (1) và (2) suy ra đầu tư bằng tiết kiệm (I = S).
J. M. Keynes cho rằng việc điều tiết vĩ mô nhằm giải quyết việc làm,
tăng thu nhập đòi hỏi phải khuyến khích tăng đầu tư và giảm tiết
kiệm. Có như vậy, mới giải quyết được tình trạng khủng hoảng và
thất nghiệp.
Cũng như các đại biểu của trường phái cổ điển mới, phương pháp
nghiên cứu của J. M. Keynes dựa trên cơ sở tâm lý chủ quan. Song,
chỗ khác nhau là, trước đây các nhà kinh tế học của trường phái cổ
điển mới dựa vào tâm lý cá biệt, còn Keynes dựa vào tâm lý xã hội.
Trong lý thuyết của ông, phạm trù khuynh hướng tiêu dùng, tiết kiệm
được xem là phạm trù tâm lý chung của toàn xã hội.
Lý thuyết Keynes đánh giá cao vai trò của tiêu dùng và trao đổi.
Keynes coi tiêu dùng và trao đổi là nhiệm vụ số một mà kinh tế học
phải giải quyết. Theo ông, cùng với sự tăng lên của việc làm, thì cũng
phải có sự tăng lên của thu nhập, do đó, có sự tăng lên của tiêu
dùng. Nhưng mức tăng tiêu dùng chậm hơn mức tăng thu nhập, nên

cầu tiêu dùng, và do dó cầu có hiệu quả, giảm xuống. Đây là nguyên
nhân gây ra khủng hoảng, thất nghiệp, trì trệ trong nền kinh tế. Vì
vậy, để đẩy mạnh sản xuất, bảo đảm cân đối cung-cầu thì cần phải
nâng cầu tiêu dùng, tìm biện pháp kích thích cầu có hiệu quả. Lý
thuyết Keynes bởi vậy còn có tên gọi "lý thuyết trọng cầu."
Quan điểm của M. Fiedman: Có thể coi đây là sự phát triển
quan điểm của J.M. Keynes và gồm hai phần chính:
2 Giống quan điểm của Keynes: về thành phần và các nhân
tố ảnh hưởng đến cầu tiền tệ
3 Khác quan điểm của Keynes: cầu tiền tệ còn phụ thuộc
vào lợi tức kỳ vọng của các tài sản liên quan đến tiền (cổ
phiếu, trái phiếu, bất động sản) và tỷ lệ lạm phát. Và do vậy
hàm cầu tiền tệ của M. Friedman là:
(Y+ , P, f , i-, ia, ib, is, Z )δMd =
Trong đó: ia, ib, is lần lượt là lợi tức kỳ vọng khi đầu tư vào
bất động sản, trái phiếu và cổ phiếu.
Tình hình suy thoái nghiêm trọng vào những năm 1930 là
thời kỳ có những thay đổi lớn cả về nền kinh tế lẫn lý thuyết
kinh tế. Trong suốt thời gian đó, những cơ chế cũ vốn điều
hoà nền kinh tế, đặc biệt là chu kỳ kinh tế, nhưng nay chúng
lại phải chịu sức ép lớn từ những thuyết kinh tế mới và
những phương pháp điều hành mới, và sau cùng bị thay thế
bởi những thuyết và phương pháp mới này. Kinh tế học cổ
điển với quan điểm để mặc tư nhân kinh doanh (theo họ thị
trường sẽ tự điều tiết nếu thấy cần thiết) và kinh tế học tân
cổ điển với quan điểm là một vài loại thị trường đặc biệt sẽ
tự động điều tiết, cả hai đều đã không còn phù hợp với tình
hình xã hội hiện tại nữa và phải nhường lại cho kinh tế học
vĩ mô "Keynes" với trọng tâm chính là nêu bật vai trò tăng
trưởng tiền lương (để tăng tổng cầu) và vai trò của nhà nước

trong việc quản lý nền kinh tế.
Chu kỳ kinh tế hay cơ chế quản lý cũ chưa hoàn toàn mất đi
vào những năm 1930. Nhưng nền kinh tế suy kém do giai
đoạn suy sụp tài chính lớn vào năm 1929 bắt nguồn từ cơn
khủng hoảng kinh tế, chu kỳ này đã đi xuống và không phát
triển lên được nữa. Và nó vẫn giữ nguyên như thế. Suy sụp
tài chính này đã làm cho nền kinh tế suy thoái, và vẫn chưa
có biện pháp nào phục hồi.
Những nhà kinh tế cổ điển thời đó chỉ có thể đưa ra những
giải pháp lỗi thời không hiệu quả. Những nhà kinh tế như
Lionel Robbins tiếp tục kiến nghị giải pháp giảm lương khi
lao động gia tăng. Nhưng những cơ chế thị trường - bao gồm
cả những cơ chế của thị trường lao động - mà những nhà
kinh tế rất tin tưởng nay đã không còn hoạt động nữa. Họ
thi hành biện pháp giảm lương, nhưng thay vì nền kinh tế
phục hồi và phát triển thì nó càng bị khủng hoảng trầm
trọng hơn.
Điều này không chỉ đúng với nền kinh tế của Mỹ mà còn đối
với nhiều nước khác nữa, nó cũng đúng với các mối quan hệ
kinh tế giữa chúng với nhau. Sự sụp đổ của các cơ chế tăng
trưởng nội tại là bắt nguồn từ sự sụp đổ của các cơ chế điều
chỉnh kinh tế thế giới. Thay vì có thể giúp giải quyết được
những vấn đề suy thoái thì chế độ kim bảng vị lại làm cho
tình trạng suy thoái từ nước này sang nước khác diễn ra
nhanh hơn. Tình trạng thâm hụt mậu dịch đã làm nổi bật lên
mối quan hệ mâu thuẫn giữa một bên là việc phát hành tiền
(mức cung tiền) (do phải xuất vàng trả cho phần nhập siêu)
và một bên là áp lực hạ giá (bao gồm cả tiền lương), từ đó
mâu thuẫn này càng làm cho nhà sản xuất cắt giảm sản
lượng và công nhân. Nạn thất nghiệp gia tăng vùn vụt.

Trong tình hình khủng hoảng trầm trọng này, bởi không một
ai muốn chấp nhận quy tắc của chế độ kim bảng vị nên cơ
chế này đã bị bãi bỏ. Kết quả là để bảo vệ nền kinh tế nước
mình khỏi cuộc đại khủng hoảng, các nước nhanh chóng ban
hành chính sách cấm vận mậu dịch tự do, chính sách thuế
quan, hạn ngạch, nhằm bảo vệ quyền lợi sản xuất cũng như
lao động trong nước. Giai cấp tư sản các nước đều muốn bảo
vệ thị trường của họ khỏi sự cạnh tranh của nước ngoài và
họ thiết lập nên hàng rào ngăn nhập khẩu và công nhân của
họ cho đây là một giải pháp hữu hiệu có thể giúp họ bảo vệ
được việc làm của mình. Kết quả là dấy lên hàng loạt biện
pháp bảo hộ mang tính cạnh tranh với nhau giữa các quốc
gia bằng cách thiết lập ngày càng nhiều vành đai chắn hàng
nhập khẩu.
Hậu quả là ngành mậu dịch quốc tế bị suy giảm nghiêm
trọng, làm đóng băng thị trường hàng xuất, làm cho thị
trường lao động và đầu ra sản phẩm ngày càng tệ hại hơn.
Đối với nước Mỹ là một nước có thị trường nội địa rất rộng
lớn thì vấn đề này cũng đủ nghiêm trọng rồi. Còn đối với các
nước Đông Âu, giai cấp tư bản lại càng lệ thuộc vào thị
trường ngoài nước, cho nên tình hình này thật sự tệ hại đối
với họ. Sự suy sụp ngành mậu dịch quốc tế là nhân tố chính
gây ra cuộc đại suy thoái một hiện tượng mang tính toàn
cầu và cũng là nguyên nhân làm kéo dài cuộc khủng hoảng
và khiến nó trở nên nghiêm trọng hơn. Nó dẫn đến việc bãi
bỏ chế độ kim bảng vị.
Để hiểu vì sao mà sau suy thoái, kinh tế lại không phục hồi
và tăng trưởng, ta có thể bắt đầu xét đến mối quan hệ giữa
tiền lương và lợi nhuận, giữa tiêu thụ và thặng dư sẵn có.
Vào thời kỳ trước đó, khi chu kỳ kinh tế giảm và nhiều người

bị thất nghiệp, trong tình hình như vậy thì hầu như những ai
đang có việc đều chấp nhận mức lương thấp, từ mức lương
thấp này, giai cấp tư sản có thể hạ chi phí, tăng cao lợi
nhuận, cũng như giúp họ có nhiều kỳ vọng lạc quan hơn và
mở rộng đầu tư. Thế trong cuộc đại suy thoái này tỷ lệ thất
nghiệp cũng rất cao, mức lương lại giảm - nhưng điều này lại
không đủ kích thích mở rộng đầu tư. Tại sao như vậy? Nếu
bạn trở lại lịch sử thực tiễn một tí, thì bạn sẽ hiểu ngay. Đây
chính là giai đoạn mà công nhân huởng ứng thành lập công
đoàn theo mô hình của Taylor-Ford. Họ đấu tranh từ nhận
thức công nhân, từ sự đồng lòng tập thể, đòi tăng lương và
phúc lợi xã hội từ nhà nước - còn gọi là thù lao thất nghiệp.
Frederick Taylor chịu trách nhiệm phân chia công việc của
người công nhân thành những loại công việc đơn giản và
không đòi hỏi kỹ năng tay nghề, còn Henry Ford thì chịu
trách nhiệm tổ chức những công việc đó thành một dây
chuyền sản xuất, những công này thường làm cho công
nhân thấy nhàm chán, bị hạn chế, cảm thấy đây là một công
việc đơn điệu và chỉ là một phần nhỏ trong tổng thể cả dây
chuyền (có một bộ phim nói về loại công việc thế này ảnh
hưởng đến công nhân - bộ Modern Time do Charlie Chapline
thủ diễn, bạn không nên bỏ qua)
Khi áp dụng loại hình công việc này đã dẫn đến cả lực lượng
lao động suy giảm tay nghề và tạo lợi thế cho những công
đoàn thủ công lớp già - những công đoàn chủ yếu dựa vào
tay nghề là chính. Điều này có nghĩa là những công đoàn thủ
công thuộc Liên Đoàn Lao Động của Mỹ này (AFL - American
Federation of Labor) không còn thích hợp với thế hệ công
nhân sản xuất mới nữa. "Những người công nhân sản xuất
hàng loạt" - người ta vẫn thường gọi họ như thế - đã phát

triển thành công đoàn công nghiệp rộng lớn, đây là những
công đoàn được tổ chức theo nhóm những ai có cùng ngành
sản xuất.
Do đó, vào thập kỷ 30, chúng ta thấy nhiều công đoàn được
hình thành như Liên Hiệp Công Nhân Ngành Ôtô (UAW -
United Automobile Workers), Liên Hiệp Công Nhân Ngành
Mỏ (UMW - United Mine Workers), và vân vân… đây là
những công đoàn này liên kết lại thành Hội Công Đoàn (CIO
- Congress of Industrial Unions).
Những cuộc đấu tranh dẫn đến sự hình thành các tổ chức
công đoàn này đã vướng phải sự đối kháng mạnh mẽ từ
những nhà kinh doanh. Công nhân họ đã chống trả lại, thế là
bạo động đối chọi với bạo động, và làn sóng chống đối vào
thập kỷ 30 đã làm hạn chế tình trạng giảm lương trong giai
đoạn thất nghiệp xảy ra. (Những bộ phim nói về sự ra đời
của những kẻ đánh thuê (the Teamsters) như bộ Fist - do
Sylvester Stallone thủ diễn và gần đây là bộ Hoffa của Jack
Nickolson, những bộ phim này khá hay một phần do có nói
về vấn đề dùng vũ lực trong kinh doanh và cách làm đó đã
khiến cho công nhân phải chống trả lại, và đôi khi công nhân
cũng dùng bạo lực chống lại, họ làm giống như những gì mà
chủ của họ làm với họ, cũng có nghĩa là phía người chủ lợi
dụng sức mạnh của Pinkertons, còn phía công nhân dựa vào
lợi thế đám đông của mình. Do vậy, điều này cho ta một cái
nhìn sơ lượt về lịch sử và hiểu rõ hơn về mối liên hệ đáng
tiếc giữa một số công đoàn và những tổ chức tội phạm.
Trong bộ phim Matewan gần đây của John Sayles cũng có đề
cặp đến tình trạng bạo động mà công nhân gặp phải trong
suốt thời kỳ này, đây là trường hợp của những mỏ than
Appalachia.)

Những xung đột này đã làm cho mức lương giảm trầm trọng.
Nói cách khác, mức lương cũng có thể gia tăng nhưng thậm
chí trong trường hợp tỷ lệ thất nghiệp rất cao, thì mức lương
này cho dù có giảm tới đâu cũng không thể khôi phục lại lợi
nhuận. Do đó ta không thể dùng những chiến lượt kinh tế lỗi
thời trong tình trạng kinh tế suy sụp như thế này để giải
quyết các vấn đề giữa kinh doanh và công nhân cũng như để
đạt được mức tiêu thụ thặng dư.
Nhắc lại một lần nữa , đây là một thời kỳ lịch sử có ý nghĩa.
Đây chính là lúc viễn cảnh cả hệ thống kinh tế xã hội tương
lai vẫn còn là một ẩn số. Những giải pháp cổ hủ không thể
áp dụng được nữa và do đó phải tìm những giải pháp mới
nếu không nền kinh tế-xã hội có thể suy sụp hoặc có thể xãy
ra một cuộc cách mạng. Đây là giai đoạn khủng hoảng tại
Mỹ và tình trạng này cũng diễn ra tương tự ở nhiều khu vực
khác trên thế giới.
Giai đoạn khủng hoảng này đã bắt đầu từ một thập kỷ trước
đó. Ở Liên Xô (cũ) vào năm 1917 sau cuộc nội chiến cũng
như những biến động kinh tế-xã hội trầm trọng thì đã nổ ra
một cuộc cách mạng. Ở Đông Âu cũng đã có một thời kỳ
khủng hoảng có lẽ là nghiêm trọng nhất, mà những biến
động của cuộc khủng hoảng này có liên đới với Cách Mạng
Đức năm 1918-1919.
Tuỳ vào tình hình chính trị kinh tế, lịch sử của mỗi nước mà
các nhà lãnh đạo của các nước đã có những giải pháp khác
nhau để đối phó với thử thách này. Stalin cố gắng giải quyết
vấn đề gia tăng thặng dư thông qua lực lượng lao động bị ép
buộc của Gulag, dùng lực lượng quân đội đàn áp, thi hành
chính sách tập thể hoá nông dân (thu gom hoa màu của họ).
Vào khoảng giữa cuộc khủng hoảng nổ ra tại nước Cộng Hoà

Weimar, thì Hitler đã lên nắm quyền và giải quyết các vấn
đề như cuộc nổi loạn của công nhân và vấn đề tích luỹ tư
bản bằng cách thành lập nên Đế Chế Phát Xít, Chủ Nghĩa
Nghiệp Đoàn, và những lực lượng lao động. Ở Mỹ và những
nước phương tây khác, thì giải pháp của họ xuất hiện khá
chậm, đó là chính sách kinh tế-xã hội mới của Franklin
Roosevelt mà ngày nay chúng ta gọi là chủ nghĩa Keynes -
John Maynard Keynes (1883-1946) ông là một kinh tế gia
người Anh, ông đã đưa ra những lý thuyết cũng như lập luận
của mình về những vấn đề phân tích và chính sách hoàn
toàn mới. Đây là một giải pháp mang lại hiệu quả cao nhất.
Năm 1945, chiến tranh đã dẹp trừ Đức Quốc Xã. Năm 1953,
Stalin mất, Liên Xô lại bắt đầu một quá trình kéo dài và
không hiệu quả khi cải sửa lại giải pháp của họ một giải
pháp thất bại do Gorbachev kết thúc.
Joseph Schumpeter: Phát Triển Kinh Tế và Khủng
Hoảng Kinh Tế
Joseph Schumpeter (1883-1950) là người đưa ra giải pháp
cho thời thế này. Dù được đào tạo bài bản theo Carl Menger
và học trò của ông Eugen von Bohm-Bawerk, Schumpeter
vẫn đi theo hướng riêng của mình, làm việc cho cả chính phủ
và trong học viện.
Hệ Thống Thể Chế: Kỹ Thuật và Thể Chế
Thorstein Veblen (1857-1929) là một kinh tế gia gốc nông
dân, là người NaUy-Mỹ, là một trong những nhà phê phán
chủ nghĩa tư bản, phê bình kinh tế, bình luận thời cuộc (thời
của ông) rất uyên bác và sắc sảo. Những bài viết của ông
vào đầu thế kỷ này cũng như trước đó một thập kỷ và cả hai
thập kỷ sau đó đều là những bài phê bình rất sắc sảo nhắm
vào vấn đề tham vọng và quyền lực và làm sáng tỏ những

vấn đề mà các giáo sư kinh tế lớn đã lờ đi. Hơn thế nữa, ông
đặc biệt tinh thông tiếng bản xứ của mình, có thể hiểu và sử
dụng ngôn từ một cách chính xác. Tài năng của ông có được
không chỉ bằng trí thông minh của bản thân mà còn bắt đầu
từ cả một kho kiến thức lịch sử nhân loại rộng lớn và những
tri thức về nhiều nền văn hoá đa dạng của các quốc gia,
chúng đã cung cấp cho ông một cái nhìn tổng thể về chủ
nghĩa tư bản hiện đại.
Giữa Veblen và Marx có nhiều điểm tương đồng, nhưng giữa
họ cũng có một số khác biệt đáng kể; Veblen không phải là
người theo chủ nghĩa Marx. Chúng ta có thể thấy cả sự
giống và khác giữa họ trong chính những tác phẩm của họ.
Như chúng ta đã biết, Marx phân biệt giữa đặc tính xa
lánh[1] công việc của công nhân dưới chế độ tư bản và năng
lực làm việc của họ khi xã hội thoát khỏi sự thống trị của tư
bản - ngay cả trong quá khứ hay tương lai. Trong quyển
"Tay Nghề Công Nhân Và Sự Chán Ghét Công Việc Của Họ"
(1899), Veblen bắt đầu nói từ mối ác cảm đối với công việc
vốn rất phổ biến trong những người công nhân mà ông cho
rằng nó đã xãy ra vào đầu thế kỷ này ở Mỹ. Công nhân chán
ghét công việc của họ và những giai cấp bề trên thì tự cho
mình là những người thống trị và ép buộc họ phải làm việc -
dù cho có sự mâu thuẫn giữa họ như thế nào đi nửa. Nhưng
trong khi Marx nhận thấy rằng sự chán ghét đó bắt nguồn từ
đặc tính xa lánh công việc thì Veblen cho rằng theo cảm
nhận của ông, thì chính "bản năng tay nghề" của công nhân
xuyên suốt trong lịch sử nhân loại đã bị thay thế bởi tính
thực dụng nhằm giúp họ có thể bình ổn cuộc sống. Trong
thời tư bản đầy tính cạnh tranh nhau thì bằng chứng cho
tính thực dụng đó được thể hiện bằng tiền bạc thay vì như

ngày xưa là những chiến lợi phẩm, xương sọ hay cờ chiếm
được từ kẻ địch bại trận, nhưng những gì đáng tự hào là
những gì đạt được chứ không phải là năng xuất. Trong khi
chúng ta có thể thấy sự tương đồng giữa đặc tính "ham
muốn lao động của công nhân" của Marx và đặc tính "bản
năng tay nghề" theo như Veblen định nghĩa, thì Veblen quan
tâm hơn về những tính cách không tốt khi đạt được quyền
lực và làm thế nào mà những người công nhân cố tranh đua
để có được quyền lực, hơn là quan tâm về những tính cách
quý báu như biết nhịn nhục khi bị bốc lột.
Đối Veblen, thông qua kích thích sự ganh đua với nhau, thì
chìa khoá để ổn định hệ thống xã hội chính là quyền lực kinh
tế đối với những công nhân làm việc với đồng lương thấp, từ
đó họ có khuynh hướng chống lại bốc lột.Veblen cho rằng,
qua sự tiêu thụ phô trương và đưa ra những mặt thuận lợi
của việc không chịu làm việc, "giai cấp nhàn hạ" càng kích
thích nhu cầu hơn là sự giận dữ. Trong chương 4 quyển Lý
thuyết về Giai Cấp Nhàn Hạ, Veblen có giải thích quan điểm
của mình về cái mà ông gọi là "sự tiêu thụ gây chú ý"[2].
Hãy nhìn lại thực tiễn từ lịch sử từ thời tiền tư sản, ông
cho rằng sự khoa trương cũng như những nổ lực cạnh tranh
nhau diễn ra xuyên suốt trong hệ thống giữa các giai cấp xã
hội:
"Trong một xã hội hiện đại thì giới tuyến giữa các giai cấp
của nó phát triển khá mơ hồ và ngắn ngủi, và dù bất cứ nơi
nào tồn tại điều này, định chuẩn về danh vọng do tầng lớp
quý tộc đưa ra có khuynh hướng mở rộng những ảnh hưởng
mang tính cưỡng ép nhưng không đáng kể lắm của nó đối
với những giai cấp thấp nhất thông qua hệ thống cấu trúc xã
hội. Kết quả là những thành viên của từng giai cấp đều thừa

nhận tư tưởng này của họ, một tư tưởng quy định ra những
nguyên tắc cho đời sống của xã hội hiện hành của giai cấp
thấp đối với giai cấp cao hơn, và hướng họ sống theo cái tư
tưởng đó. Nhưng trong truờng hợp họ thất bại, họ đã phải
đau khổ vì mất đi cái danh vọng của họ và cả lòng tự trọng
của mình, họ phải thay đổi sao cho phù hợp với những quy
tắc xã hội, ít nhất cũng là về mặt hình thức.
Cơ sở tạo ra danh vọng trong bất kỳ một xã hội công nghiệp
có tổ chức cao nào đi chăng nữa chính là sức mạnh về tiền
tài; và những phương tiện để phô bày sức mạnh ấy, và qua
đó đạt được danh vọng, chính là sự nhàn rỗi và tiêu thụ
hàng hoá đáng gây chú ý."
Mặc dù Veblen nhạo báng kinh miệt tầng lớp tư sản (và
những ai cố tranh đua với họ), nhưng sau cùng ông cũng
cảm thương cho họ. Bởi do ông xem họ như những kẽ ăn
bám chỉ được cái vẻ hào nhoáng bên ngoài nhưng rất vô
dụng, những kẽ chỉ biết thu lợi từ những công việc của người
khác và rốt cuộc gì thì vị trí ưu tiên của họ trong xã hội cũng
sẽ bị người khác thay thế. Và ai sẽ thay thế họ? Câu trả lời
là: không phải là giai cấp lao động theo chủ nghĩa Marx, mà
chính là những người mà những giá trị và hành vi của họ
được thay đổi cho phù hợp để trở thành một lực lượng cơ
bản điều hành và có trách nhiệm với sự phát triển của xã
hội: "quy trình máy móc". Trong chương 4 quyển "Lý Thuyết
về Doanh Nghiệp" (1904), Veblen có giải thích rõ về "quy
trình" này và ông cho nó là ngành cơ học rất đơn giản:
"Bất cứ nơi nào mà sự khéo tay, những phương pháp dựa
vào thực nghiệm, hay những tình huống ngẫu nhiên được
thay thế bằng một quy trình hợp lý dựa trên hệ thống kiến
thức của công nhân, thì nơi đó ta có thể tìm thấy ngành cơ

khí, thậm chí nơi đó thiếu vắng cả những sáng chế máy móc
phức tạp tinh vi. Nó chính là vấn đề về đặc điểm của loại
quy trình này chứ không phải là vấn đề phức tạp khi cần
phải sáng chế ra máy mới. Những ngành hoá học, trồng trọt,
chăn nuôi đều áp dụng những phương pháp đặc trưng hiện
đại và đều có mối quan hệ với thị trường, tất cả chúng đều
có liên quan đến ngành cơ khí hiện đại"
Do vậy, về lâu dài, những người sắp thay thế những nhà tư
bản sẽ là "những công trình sư, kỹ sư cơ khí, nhà hàng hải,
nhà khoáng vật học, thợ điện" và vân vân…
Tuy nhiên, về ngắn hạn, những tham vọng lợi nhuận của
những nhà tư bản thông qua bốc lột và cạnh tranh càng kích
thích quyền lực thống trị của những lực lượng lỗi thời như
chủ nghĩa đế quốc và chiến tranh. Trong chương cuối quyển
Lý Thuyết về Doanh Nghiệp, ông có viết: "những chính sách
hiện đại mang tính hiếu chiến là mang đến hòa bình cho con
người, miễn là họ biết mưu cầu kinh doanh một cách có thứ
tự." Ông nói rằng "những mưu cầu đó không chỉ mang lại lợi
nhuận, mà còn giúp hiệu chỉnh lại 'tình trạng náo động trong
xã hội' cũng như sự xáo trộn trong cuộc sống văn minh
này". Phân tích của Veblen về động lực phục hồi chủ nghĩa ái
quốc hiếu chiến và sự thay thế quyền tự do công dân sẽ
mang đến những lợi ích cho những ai đã và đang theo những
chính sách cải cách trong nước và nước ngoài của Mỹ trước
ngày 11 tháng 9 năm 2001. Ông cho rằng vấn đề duy nhất
của những nổ lực này là những mặt về văn hoá của những
hình thái cổ xưa từ thời ăn lông ở lỗ không nhất quán với
nhau - không chỉ với nhu cầu về "quy trình máy móc"[3]
(một quy trình ngày càng tỏ ra quan trọng đối với sự phát
triển của chủ nghĩa tư bản) mà còn với nhu cầu kinh doanh.

"Những tính cách thô lỗ man rợ của lòng trung thành và chủ
nghĩa ái quốc diễn ra xuyên suốt trong những triều đại bốc
lột con người và củng cố quyền lực, và những tính cách từ
thời xa xưa này không mất đi. Trong những xã hội hiện đại
ngày nay, những ai mà trái tim của họ vẫn đập cùng nhịp
với thị trường thới giới, thì họ thể hiện lòng nhiệt thành của
mình bằng cách mở rộng ngành thương mại dưới tư cách là
những nhà doanh nghiệp quốc dân. Nhưng một khi chính
sách kinh doanh mang tính hiếu chiến được thiết lập ra vì
mục đích kinh doanh, thì lòng trung thành dần chuyển từ
những ích lợi kinh tế sang ích lợi của triều đại và sự hiếu
chiến đó, ví dụ từ những bằng chứng lịch sử như chủ nghĩa
đế quốc Đức và Anh. Hậu quả sau cùng là làm hồi sinh lại sự
oán hận của những người yêu nước xa xưa và lòng trung
thành đối với triều đại mà bỏ qua những ích lợi về kinh tế.
Điều này dễ dàng thực hiện khi những người kinh doanh chịu
hi sinh phần lợi nhuận của mình cho nhu cầu về đời sống
chính trị cao hơn này"
Do vậy, Veblen nhận thấy rằng kinh doanh bị tấn công dồn
dập bởi cả hai, một bên là cải cách "những quy trình máy
móc" không ngừng, quy trình mà dẫn đến sự sụp đổ của
những nhà tư bản và được thay thế bằng đội ngũ những cá
nhân ưu tú như các nhà khoa học (điển hình như Saint-
Simon), còn một bên là những hành vi suy thoái có từ thời
xa xưa đuợc giữ lại từ xưa để đat được những mục tiêu riêng
của nó. Trong những bài viết sau này của ông, cũng giống
như Heilbroner đã từng đề cập, Veblen cho rằng khoa học và
kỹ thuật và những người phụ trách chúng rốt cuộc rồi cũng
sẽ chiến thắng.
KEYNES:

Kinh tế học Keynes cho rằng trong ngắn hạn, người lao động ít điều kiện tìm được việc làm nên ít điều kiện
mặc cả tiền công. Do đó, trong ngắn hạn, lượng lao động cân bằng là lượng do nhà sản xuất quy định.
Người lao động phải chấp nhận lượng đó bất kể mức tiền công ra sao. Nói cách khác, trong ngắn hạn,
lượng cung lao động không phản ứng với mức tiền công thực tế. Và mức lương này là mức lương do nhà
sản xuất quy định mà người lao động phải chấp nhận.
Đưa lý thuyết vào thực tế thị trường lao động tại Việt Nam trong thời gian qua, tồn tại hiện tượng "cái gì
cũng tăng, chỉ có lương là không tăng". Quá trình nâng lương diễn ra chậm chạp. Nói là nâng lương nhưng
kỳ thực là bù trượt giá trong thời đại lạm phát hiện nay.
Tuy nhiên, cũng theo nhà kinh tế học Keynes, hiện tượng này cũng chỉ diễn ra trong ngắn hạn. Về trung dài
hạn, khi thị trường nguồn nhân lực thật sự hình thành thì người lao động được trả công đúng giá trị sức lao
động của mình, vì sức lao động được phân phối theo cơ chế thị trường. Các nhân tố tham gia thị trường
đều có tư cách như nhau.
Những tháng đầu năm 2008 đến nay, có hiện tượng thiếu hụt cung lao động tại các thành phố lớn, đặc biệt
là tại các nhà máy do công nhân quay về làm việc tại chính địa phương họ, còn cán bộ công chức nghỉ việc
chuyển sang làm việc tại khu kinh tế ngoài quốc doanh, ngoài ra còn có nhiều cuộc đình công. Do đó, các
chủ doanh nghiệp, nhà sản xuất đã tự điều chỉnh nâng lương cho người lao động. Đây là một dấu hiệu
đáng mừng cho thấy thị trường lao động đang theo đúng quy luật.
Hy vọng rằng thị trường lao động ở Việt Nam sẽ đi theo đúng quy luật Keynes để đời sống người lao động
được cải thiện hơn.
Nói về kinh tế (và cả chính trị) trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, thì phải nói đến hai nhà kinh tế được
xem là lớn nhất của thế kỷ 20: John Maynard Keynes (1883-1946) và Milton Friedman (1912-2006).
Keynes được công nhận là một nhà kinh tế lỗi lạc vì đã hình thành và
kết hợp những lý thuyết kinh tế trong đời sống linh hoạt về ngoại giao,
tài chánh, ký giả và nghệ thuật của mình . Năm 1944, ông dẫn đầu
phái đoàn Anh Quốc đến thăm dự hội nghị quốc tế tại Bretton Woods,
New Hamsphire để hình thành các yếu tố nền tảng cho tiền tệ quốc tế
và hệ thống tài chánh sau Đệ nhị Thế chiến, kể cả Ngân hàng Thế giới
(World Bank) và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF). Ông nổi tiếng qua tác
phẩm nghiên cứu để lại nhiều giá trị và tranh luận sau này, được xuất
bản năm 1936 với tựa đề Lý thuyết tổng quát về công ăn việc làm, lãi

và tiền, gọi tắt là The General Theory. Trong đó, cũng như bao nhiêu
nhà kinh tế khác cùng thời, Keynes cố gắng tìm hiểu và giải thích
nguyên nhân nào gây ra sự trì trệ kinh tế toàn cầu vào thập niên
1930s (the Great Depression). Ông nhấn mạnh các yếu tố đưa đến sự
trì trệ, đặc biệt tổng chi của quốc gia hơi thấp để tạo công ăn việc làm
đầy đủ trong thời gian này. Ông đề nghị gia tăng chi tiêu của chính phủ là cách hữu hiệu nhất để gia tăng
tổng chi tiêu và phục hồi công ăn việc làm trên toàn nước. Kể từ khi lý thuyết Keynes đưa ra, kinh tế không
còn được nhìn như trước, mà được phân loại thành kinh tế vĩ mô (macro-economics) và kinh tế vi mô
(micro-economics). Đặc điểm của trường phái kinh tế Keynes là nhấn mạnh vai trò của chính phủ: Chính
phủ phải bảo đảm mức tổng cầu (aggregate demand) của nền kinh tế quốc gia đủ cao để tránh tình trạng
suy thoái; chính phủ phải có sẵn chính sách tiền tệ và tài chánh để có thể dùng khi cần trong việc thay đổi
mức tổng cầu. Nói chung, chính phủ nên chủ động sử dụng các chính sách này để duy trì mức tổng cầu
hầu giữ nền kinh tế ở nguyên mức sản lượng đúng với tiềm năng của nó.
Milton Friedman
Nhà kinh tế thứ hai của thế kỷ là Milton Friedman, người được giải Nobel
kinh tế năm 1976, vừa mới qua đời ngày 16 tháng 11 vừa qua. Tuy
Friedman là người mạnh mẽ nhất chống đối lại các thuyết của Keynes, ông
đã từng tuyên bố một câu để đời: "Chúng ta bây giờ đều thuộc trường phái
Keynes(ian)". Nói cách khác, Friedman ghi nhận những đóng góp nền tảng của Keynes trong kinh tế, nhất
là hiệu quả ứng dụng của nó trong việc lãnh đạo và quản lý nền kinh tế quốc gia, nhưng không phải những
gì Keynes đưa ra đều đúng. Nó chỉ hợp lý vào thập niên 1950s và 1960s, nhưng đến thập niên 1970s và
1980s, khi nạn lạm phát hoành hành khắp thế giới (the Great Inflation), đặc biệt do khủng hoảng dầu lửa ,
làm vật giá leo thang, thì lý thuyết kinh tế vĩ mô của trường phái Keynes không còn hoàn toàn thích hợp để
giải thích và giải quyết các vấn đề kinh tế lớn đang xuất hiện. Friedman là người đứng đầu trường phái "tiền
tệ" (Monetarists), mạnh mẽ chỉ trích một số luận điểm căn bản của trường phái Keynes, đặc biệt 2 ý kiến
chính là: 1) nền kinh tế có thể tự nhiên rơi vào trạng thái cân bằng là sản lượng thấp - thất nghiệp cao (low
output - high unemployment); 2) vai trò của chính phủ là tạo môi trường để trường hợp này không xảy ra.
Phái tiền tệ, tức Friedman, quay ngược luận điểm này lại để biện luận. Phái này cho rằng lý do của sự suy
thoái kinh tế là do chính sách tồi tệ của chính phủ, chứ không phải tự nhiên nó xảy ra. Thí dụ, đối với sự trì
trệ kinh tế của thập niên 1930s, nó xảy ra vì chính sách tiền tệ sai lầm của chính phủ. Mà nếu chính sách

nghèo nàn này là nguyên nhân của sự suy thoái kinh tế, thì tại sao chúng ta lại tin vào sự quản lý kinh tế
của chính phủ?
Từ những tiền đề khác nhau, hai trường phái đi đến những kết luận khác nhau, đặc biệt là vai trò của chính
phủ trong nền kinh tế quốc gia. Vậy tiếp theo sẽ là những trường phái nào trong quá trình hội nhập kinh tế
quốc tế và toàn cầu hóa mang tính chủ đạo. Phải chăng sẽ là nhưng tư tưởng kết hợp bàn tay hữu hình
cũng như vô hình trong điều tiết nền kinh tế, nắm giữ những “đỉnh cao chỉ huy” và liệu sẽ có một nền kinh tế
trên quy mô toàn cầu, hay vẫn là những phân cực?
Trước hết, cuốn sách minh chứng rằng Friedman đặc biệt sốt sắng đẩy những ý tưởng về thị trường tự do
tới giới hạn tận cùng của lý luận. Ý tưởng cho rằng thị trường là cách phân phối hiệu quả hàng hóa khan
hiếm, hoặc đề xuất cho rằng những biện pháp kiểm soát giá vừa tạo ra thiếu hụt vừa không hiệu quả chẳng
có gì mới. Nhưng nhiều nhà kinh tế, do e ngại phản ứng dữ dội chống lại việc tăng đột ngột tiền thuê nhà
(mà Friedman và Stigler dự đoán sẽ vào khoảng 30% trên toàn quốc), đã đề xuất một dạng chuyển tiếp từ
từ trước khi bãi bỏ kiểm soát. Friedman và Stigler thì gạt bỏ tất cả những sự lo lắng như vậy.
Trong những thập kỷ tiếp theo, tính cách không khoan nhượng này đã trở thành thương hiệu của Friedman.
Hết lần này đến lần khác, ông kêu gọi những giải pháp thị trường cho các vấn đề - giáo dục, sức khỏe ,
buôn bán dược phẩm bất hợp pháp – mà hầu hết mọi người đều nghĩ rằng cần sự can thiệp nhiều hơn của
chính phủ. Vài ý tưởng của ông đã nhận được sự chấp nhận rộng rãi, như thay thế các luật lệ cứng nhắc về
ô nhiễm bằng một hệ thống giấy phép ô nhiễm mà các công ty tự do mua bán. Một số khác, như các phiếu
học phí trường học, được ủng hộ rộng rãi bởi các phong trào bảo thủ nhưng không thành công về mặt
chính trị. Và một vài đề xuất của ông, như việc loại bỏ các thủ tục cấp giấy phép (hành nghề) cho bác sĩ và
giải tán Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm (FDA) bị xem là kỳ quặc ngay cả với hầu hết những người
thủ cựu nhất.
Thứ hai, cuốn sách này đã cho thấy Friedman là một nhà tuyên truyền giỏi như thế nào. Nó được viết hay
và sắc sảo. Không có biệt ngữ; những luận điểm được thể hiện với những ví dụ được lựa chọn khôn khéo
từ thế giới thực, từ sự phục hồi nhanh chóng của San Francisco sau trận động đất năm 1906, từ tình cảnh
khốn khổ của một cựu chiến binh năm 1946, tìm kiếm vô vọng một nơi tử tế để sống sau khi vừa xuất ngũ.
Cùng một phong cách, được làm nổi bật bằng video, sau này là dấu ấn của chuỗi chương trình truyền hình
nổi tiếng Tự do lựa chọn năm 1980 của Friedman.
Rất có thể chính sách laissez-faire (tự do kinh doanh toàn diện) vẫn lan rộng khắp thế giới, khởi đầu từ
những năm 1970, dù không có Milton Friedman. Nhưng cuộc vận động rất hiệu quả và bền bỉ của ông, đại

diện cho [quan điểm] thị trường tự do chắc chắn đã giúp thúc đẩy quá trình này, cả ở Mỹ và trên thế giới. Ở
bất kỳ phương diện nào - chủ nghĩa bảo hộ đối đầu với tự do thương mại; các quy định đối đầu với sự bãi
bỏ quy định, tiền lương thiết lập qua sự thương lượng tập thể giữa công đoàn và người sử dụng lao động
và mức lương tối thiếu do chính phủ quy định đối đầu với mức lương do thị trường thiết lập - thế giới đã vận
động trên một con đường dài theo hướng mà Friedman vạch ra.Và thậm chí còn ấn tượng hơn cả những
thành quả mà ông đạt được trong việc thay đổi các chính sách thực tế, ông đã thay đổi cả những quan niệm
truyền thống: hầu hết những người có thế lực đã quay sang nghĩ theo lối tư duy của Friedman, tin như một
sự hiển nhiên rằng sự thay đổi chính sách kinh tế mà ông thúc đẩy đã có tác dụng tốt. Nhưng có đúng là
như vậy?
Xét trước hết hiệu quả kinh tế vĩ mô của kinh tế Mỹ. Chúng ta có dữ liệu thu nhập thực – là thu nhập đã
được điều chỉnh nhằm loại bỏ ảnh hưởng của lạm phát - của các gia đình Mỹ từ năm 1947 đến 2005. Trong
nửa đầu của 58 năm liên tục, từ năm 1947 đến năm 1976, Milton Friedman là một tiếng kêu trong sa mạc,
những ý tưởng của ông bị các nhà ra chính sách bỏ qua. Nhưng nền kinh tế, với tất cả những sự không
hiệu quả mà ông chỉ trích, đã cải thiện đầy ấn tượng mức sống của hầu hết người dân Mỹ: thu nhập thực
trung vị (median income) tăng gấp đôi. Ngược lại, giai đoạn từ năm 1976 là giai đoạn mà những ý kiến của
Friedman ngày càng được chấp nhận. Dù vẫn còn đó vô khối sự can thiệp của chính phủ mà ông vẫn phàn
nàn, các chính sách thị trường tự do đã trở nên phổ biến hơn trong thời gian này là điều không ai nghi ngờ.
Tuy vậy tỷ lệ tăng trưởng mức sống lại ít mạnh mẽ hơn giai đoạn trước: thu nhập thực trung vị năm 2005
chỉ cao hơn 23% so với năm 1976.
Lý do có một phần là do thế hệ hậu chiến thứ hai đã tạo ra tốc độ tăng trưởng kinh tế thấp hơn thế hệ thứ
nhất - một thực tế có thể gây ngạc nhiên với những người cho rằng khuynh hướng ngả về thị trường tự do
sản xuất ra lợi tức kinh tế lớn hơn. Nhưng nguyên nhân khác quan trọng hơn gây ra sự tăng chậm hơn về
mức sống gia đình là sự bất bình đẳng kinh tế tăng nhanh không ngờ: trong lúc thế hệ hậu chiến thứ nhất
thu nhập tăng đều khắp dân cư thì từ cuối những năm 1970 thu nhập trung vị - tức là mức thu nhập của một
gia đình điển hình, tăng chỉ bằng 1/3 tốc độ tăng thu nhập bình quân - bao gồm mức thu nhập cao vọt của
một nhóm thiểu số nhỏ tại đỉnh.
Điều này dẫn đến một vấn đề thú vị. Milton Friedman thường quả quyết với những thính giả của ông rằng
không cần phải có những thể chế đặc biệt, như lương tối thiểu và nghiệp đoàn, nhằm mục đích đảm bảo
cho những người công nhân được chia sẻ lợi nhuận từ tăng trưởng kinh tế. Vào năm 1976 ông nói với độc
giả Newsweek rằng những câu chuyện cổ tích về tai họa gây ra do những tên đại tư bản kẻ cướp là chuyện

hoang đường thuần túy :
Có lẽ không có giai đoạn nào khác trong lịch sử, ở Mỹ hoặc bất cứ nước nào khác, mà những người bình
thường tăng mức sống của anh ta lên cao như trong thời kỳ giữa Nội chiến và Thế chiến I, khi chủ nghĩa cá
nhân không kiềm chế nổi lên mạnh mẽ nhất.
(Thế còn khoảng thời gian 30 năm đáng nhớ sau Thế chiến II, cũng bao quát phần lớn sự nghiệp của
Friedman thì sao?). Ngay trong những thập kỷ sau tuyên bố đó, khi tiền lương tối thiểu bị lạm phát “bỏ rơi”
lại phía sau và ảnh hưởng các nghiệp đoàn hầu như biến mất trong khu vực tư nhân, những người làm
công Mỹ thấy vận may của họ đến chậm trễ hơn mức tăng trưởng của toàn bộ nền kinh tế nói chung.
Friedman đã quá lạc quan về sự hào phóng của bàn tay vô hình?
Nói cho công bằng, có nhiều yếu tố tác động vào cả tăng trưởng kinh tế và phân phối thu nhập, nên chúng
ta không thể đổ mọi thất vọng lên đầu các chính sách theo học thuyết Friedman. Thế nhưng, xét đến giả
định phổ biến rằng các chính sách chuyển hướng theo thị trường tự do đã làm những điều vĩ đại cho kinh tế
Mỹ và cho mức sống của những người dân Mỹ bình thường; thật đáng ngạc nhiên khi người ta không tìm
thấy các dữ liệu ủng hộ quan điểm này.
Những chất vấn tương tự về bằng chứng rõ ràng để chứng minh rằng những ý tưởng của Friedman thực
sự mang lại kết quả trong thực tế có thể còn được nêu lên, thậm chí còn lớn giọng hơn, khi xem xét khu
vực Mỹ Latin. Một thập kỷ trước, thành công của kinh tế Chilê, nơi những nhà cố vấn Augusto Pinochet từ
trường đại học Chicago sử dụng các chính sách thị trường tự do sau khi Pinochet nắm quyền vào năm
1973, thường được dẫn ra như bằng chứng rằng các chính sách mang tinh thần của Friedman đã chỉ ra
con đường dẫn đến phát triển kinh tế thành công. Nhưng cho dù những quốc gia Latin khác, từ Mexico đến
Achentina, đã bước theo sự dẫn đường của Chile trong việc tự do hóa thương mại, tư nhân hóa công
nghiệp và bãi bỏ các quy định, câu chuyện thành công của Chile đã không lặp lại.
Ngược lại, sự nhận thức của hầu hết người dân Mỹ Latin là những
chính sách “tân tự do” đó đã thất bại: Sự cất cánh kinh tế theo hứa hẹn
chưa bao giờ xảy ra, trong khi tình trạng bất bình đẳng trong thu nhập
trở nên tồi tệ hơn. Tôi không có ý đổ lỗi tất cả những điều tồi tệ ở khu
vực Mỹ Latin cho trường phái Chicago, hoặc lý tưởng hóa những gì
trước đó; nhưng có một sự đối lập mạnh mẽ giữa cảm nhận rằng
Friedman được minh oan và kết quả thực tế tại các nền kinh tế chuyển
từ chính sách can thiệp những thập kỷ đầu thời hậu chiến sang chính

sách thả lỏng kinh doanh.
Về một chủ đề được thảo luận trong phạm vi hẹp hơn, một trong những mục tiêu then chốt của Friedman là
xem xét tính chất phản tác dụng và vô ích của hầu hết các qui định (regulation) nhà nước. Trong bản cáo
phó viết về George Stigler, người đã từng cộng tác với ông, Friedman đã chọn tán dương chỉ trích quy định
trong ngành điện lực của Stigler, và lập luận của Stigler rằng những người ra quy định thường đi đến chỗ
phục vụ lợi ích của quy định đó hơn là lợi ích chung. Vậy việc bãi bỏ các quy định đã diễn ra như thế nào?
Việc bãi bỏ quy định về vận chuyển đường bộ và hàng không bắt đầu từ cuối những năm 1970 đã khởi đầu
ổn thỏa. Cả hai trường hợp bãi bỏ quy định, trong khi không làm bất cứ ai hạnh phúc, đã dẫn đến gia tăng
cạnh tranh, giá nói chung thấp hơn, và hiệu quả cao hơn. Việc bãi bỏ quy định về khí đốt tự nhiên cũng là
một thành công.
Nhưng làn sóng lớn tiếp theo về bãi bỏ quy định, trong khu vực điện lực, lại là một câu chuyện khác. Cũng
như cuộc khủng hoảng những năm 1990 ở Nhật Bản đã cho thấy rằng những lo ngại của những nhà kinh tế
theo học thuyết Keynes về tính hiệu quả của chính sách tiền tệ không phải là hoang đường, khủng hoảng
ngành điện lực California năm 2000-2001 – trong đó những công ty điện lực và những nhà kinh doanh năng
lượng đã tạo ra một sự thiếu hụt giả tạo để nâng giá lên - nhắc nhở chúng ta đến khía cạnh thực tế nằm
sau những câu chuyện cổ tích về những ông trùm tư bản chuyên chiếm đoạt và những sự chiếm đoạt của
họ. Trong khi những bang khác không trải qua sự khó khăn như California, bãi bỏ quy định về điện lực trên
đất nước đã làm cho giá cao hơn chứ không thấp hơn, với lợi nhuận lớn bất ngờ cho các công ty điện lực.
Những bang, với bất cứ nguyên nhân nào, không đi theo phong trào bãi bỏ quy định trong những năm
1990, hiện tự coi là mình may mắn. Và may mắn nhất là những thành phố không biết nhờ đâu mà không
nhận được những thông điệp về tai họa do chính phủ gây ra và ưu điểm của khu vực tư nhân, vẫn duy trì
những công ty điện lực có sở hữu công cộng. Tất cả những điều này cho thấy rằng căn cơ nguyên thủy của
quy định về điện lực - những quan sát cho thấy nếu không có quy định, các công ty điện lực sẽ có quá
nhiều sức mạnh độc quyền – vẫn đúng như thuở nào.
Chúng ta có nên kết luận rằng việc bãi bỏ các quy định là một ý tưởng tồi? Không- nó phụ thuộc vào từng
trường hợp cụ thể. Kết luận rằng bãi bỏ các quy định luôn luôn và ở bất cứ đâu là ý tưởng tồi sẽ khuyến
khích một vài lối suy nghĩ chuyên chế mà, có thể cho rằng, đó cũng là thiếu sót vĩ đại nhất của Milton
Friedman.
Trong bài điểm sách năm 1965 về cuốn Lịch sử tiền tệ của Friedman và Schwartz, James Tobin nhà kinh tế
đoạt giải Nobel của đại học Yale có nhẹ nhàng trách móc các tác giả đã đi quá xa. “Xem xét ba mệnh đề

dưới đây”, ông viết “Tiền không quan trọng. Tiền cũng quan trọng. Tiến là tất cả những gì quan trọng. Rất dễ
trượt từ mệnh đề thứ hai sang mệnh đề thứ ba.” Và ông thêm vào rằng “với sự nhiệt tình và hăm hở của
họ”, Friedman và những môn đồ của ông thường phạm phải điều đó.
Một sự tiếp nối tương tự dường như đã xảy ra trong việc Milton Friedman ủng hộ kinh tế tự do. Sau cuộc
Đại Suy thoái, có nhiều người nói rằng thị trường không thể có hiệu quả. Friedman đã có sự can đảm của
người trí thức để nói rằng thị trường có thể cũng có hiệu quả, và khả năng "làm xiếc" cùng với khả năng sắp
xếp các bằng chứng đã biến ông thành người phát ngôn giỏi nhất về tính ưu việt của thị trường tự do kể từ
Adam Smith. Nhưng ông đã quá dễ dãi xác quyết: thị trường luôn luôn hiệu quả và chỉ thị trường mới vận
hành hiệu quả. Rất khó tìm ra những trường hợp mà Friedman thừa nhận khả năng thị trường có thể sai
lầm, hay sự can thiệp của chính phủ có thể phục vụ mục đích có ích.
Chủ nghĩa độc tôn thị trường tự do của Friedman góp phần tạo ra một xu thế tri thức ở đó sự tin tưởng vào
thị trường và coi thường chính phủ lại thường dẫn đến bịa đặt bằng chứng. Các nước đang phát triển đua
nhau mở cửa thị trường vốn, bất chấp cảnh báo rằng điều này có thể đặt họ vào tình trạng khủng hoảng tài
chính; rồi khi khủng hoảng nổ ra, nhiều nhà quan sát đổ lỗi cho chính phủ của các nước này, chứ không
phải cho sự thiếu ổn định của dòng vốn quốc tế. Việc theo đuổi chính sách bãi bỏ các quy định về điện năng
bất chấp cảnh báo rõ ràng rằng điện lực độc quyền có thể là một vấn đề; trên thực tế, thậm chí khi khủng
hoảng năng lượng ở California xảy ra, hầu hết những nhà bình luận đều gạt bỏ ý kiến về hiện tượng “làm
giá” như một loại giả thuyết âm mưu. Những quan điểm bảo thủ tiếp tục cho rằng rằng thị trường tự do là
giải pháp cho cuộc khủng hoảng của ngành y tế, bất chấp vô số bằng chứng chứng minh điều ngược lại.
Điều kỳ lạ về tính độc đoán của Friedman liên quan đến các ưu việt của thị trường và các khuyết tật của
chính phủ, là trong các công trình của ông dưới tư cách nhà kinh tế của các nhà kinh tế ông chính là một
hình mẫu tiết chế. Như tôi đã chỉ ra trước đó, ông đã có những đóng góp vĩ đại vào lý thuyết kinh tế, làm nổi
bật vai trò hành vi hợp lý của cá nhân – nhưng không giống như một vài đồng nghiệp của ông, ông biết đâu
là điểm dừng. Tại sao ông không thể hiện sự tiết chế đó trong vai trò trí thức trước công luận của mình?
Câu trả lời, tôi ngờ rằng, là ông đã bị cuốn hút vào vai trò thật ra mang tính chính trị. Milton Friedman nhà
kinh tế gia vĩ đại có thể và đã chấp nhận sự mơ hồ. Nhưng Milton Friedman nhà quán quân vĩ đại của thị
trường tự do thực hiện sự mong chờ của người khác đã thuyết giáo về niềm tin chân lý, không một mảy
may hoài nghi. Và cuối cùng ông đã đóng vai trò mà những môn đồ của ông mong đợi. Kết quả là, theo thời
gian xu hướng đả phá thần tượng của ông trong thời kỳ đầu của sự nghiệp đã biến thành một thành trì
cứng nhắc bảo vệ cho cái đã trở thành một chính thống mới.

Về lâu dài, những con người vĩ đại được nhớ đến với sức mạnh chứ không phải điểm yếu của họ, và Milton
Friedman thực sự là một con người rất vĩ đại - một con người của sự can đảm trí thức, nhà tư tưởng kinh tế
quan trọng nhất của mọi thời, và có thể là người truyền bá những tư tưởng kinh tế lỗi lạc nhất đến công
chúng từ xưa đến nay. Nhưng cũng rất đúng khi lập luận rằng học thuyết Friedman, cuối cùng, đã đi quá xa,
cả về mặt học thuyết và ứng dụng thực tế. Khi Friedman bắt đầu sự nghiệp của mình như một trí thức của
công chúng, thời gian đã chín muồi cho một cuộc cải cách ngược chống lại chủ nghĩa Keynes và tất cả
những gì đi với nó. Nhưng, tôi cho rằng điều thế giới đang cần là một cuộc cải cách chống lại cuộc cải cách
ngược ấy.
Mặc dầu ông có nhiều tác phẩm viết về thuyết giá cả - học thuyết giải thích giá tác động thế nào đến thị
trường cá nhân - Friedman được coi như là người thiết lập nên chính sách tiền tệ. Thách thức Keynes và
phần lớn những lý thuyết đã được thiết lập trong thời gian đó, Friedman trưng ra bằng chứng phản lại lý
thuyến về số lượng của tiền tệ - lý thuyết này phát biểu rằng giá cả không phụ thuộcvào sức cung
tiền. Trong tác phẩm "Nghiên cứu lý thuyết về số lượng tiền tệ" (Studies in the quantity of money),
xuất bản năm 1956, Friedman nói rằng trong dài hạn, việc tăng cung tiền đẩy giá tăng lên nhưng tác
động rất ít hoặc không ảnh hưởng đến sản phẩm. Trong ngắn hạn, ông phản bác, việc tăng cung tiền
dẫn đến tăng thất nghiệp và sản phẩm, và giảm cung tiền sẽ ảnh hưởng ngược lại.
Giải pháp của Friedman cho vấn đề lạm phát và dao động trong ngắn hạn của thất nghiệp và GNP
thực được gọi là quy luật cung tiền. Nếu Cục dự trữ quốc gia yêu cầu tăng cung tiền cùng tỷ lệ với
mức tăng GNP thực, lạm phát sẽ biến mất. Chính sách tiền tệ của Friedman đã được đặt lên hàng đầu khi
năm 1963, ông và đồng tác giả Anna Schwartz tung ra tác phẩm "Lịch sử tiền tệ của Mỹ, 1867 - 1960"
(Monetary history of the United States, 1867 - 1960). Cuốn sách đã nói rằng Đại suy thoái là kết quả của
những quan điểm không đúng về chính sách tiền tệ của Cục dự trữ quốc gia. Tác giả đã đệ trình những
quan điểm trên qua một bản thảo chưa được in ra, Cục dự trữ quốc gia phản ứng lại trong nội bộ với những
quan điểm phê phán dài dòng. Sự phân hoá trong nội bộ còn thể hiện ở chỗ những thành viên của Cục điều
tra liên bang không công bố tiếp biên bản cuộc họp ra công chúng. Thêm nữa, họ còn nhờ một người chống
lại lịch sử (Elmus R. Wicker) viết một bài với hy vọng sẽ bôi xấu lịch sử tiền tệ.
Mặc dù rất nhiều nhà kinh tế học không đồng ý với ý kiến của Friedman về chính sách tiền tệ, nhưng ông
vẫn có ảnh hưởng nhất định trong nghề nghiệp. Một tiêu chuẩn để đánh giá tác phẩm là ảnh hưởng của nó
làm thay đổi trong cách đối xử của chính sách tiền tệ được viết trong cuốn "Kinh tế học" - một cuốn sách
bán chạy nhất năm đó- của một người ủng hộ học thuyết của Keynes là Paul Samuelson. Trong cuốn xuất

bản năm 1948, Samuelson đã viết một cách tuỳ tiện rằng "một vài nhà kinh tế học coi chính sách tiền tệ của
Cục dự trữ quốc gia như là một liều thuốc trị bách bệnh để điều chỉnh chu kỳ kinh doanh". Nhưng năm
1967, Samuelson lại nói rằng chính sách tiền tệ có "tầm quan trọng" đối với tiêu dùng. Và trong cuốn sách
xuất bản năm 1985, đồng tác giả với William Nordhaus ở đại học Yale lại viết "Tiền tệ là công cụ quan trọng
và hữu hiệu nhất của những người làm ra chính sách kinh tế vĩ mô" và thêm rằng "đây là thành phần quan
trọng nhất" trong việc hình thành chính sách.
Trong năm 1963, ông cũng viết tác phẩm "Lạm phát, nguyên nhân và hậu quả" (Inflation: Cause and
Consequences). Năm 1966, ông bắt đầu viết một mục về tình hình thời sự kinh tế cho tạp chí Newsweek,
luân phiên 3 tuần một lần cùng Paul Samuelson và Herry Wallich. Tuy nhiên, những hoạt động này chỉ là
việc phụ. Ông vẫn khăng khăng từ chối một công việc lâu dài ở Washington . Vấn đề trên hết được ông
quan tâm vẫn là cống hiến cho khoa học.
Trong những năm sau đó, từ 1968 đến 1984, ông đã cho ra đời nhiều tác phẩm khác có tầm ảnh hưởng rất
rộng rãi đến nền kinh tế Mỹ và thế giới. Có thể nói, không có một nhà kinh tế học nào khác kể từ thời của
Keynes định hình lại cách nghĩ về kinh tế học như Milton Friedman. Bằng phạm vi của những chủ đề và tầm
quan trọng trong những ý tưởng của ông, Friedman không những đã đặt nền tảng cho kinh tế học đương
thời mà ông còn xây dựng nó trở nên vững chắc.
Milton Friedman đã đóng ba vai trò trong đời sống tri thức thế kỷ 20
Một Friedman nhà kinh tế của các nhà kinh tế, người đã viết những phân tích mang tính kỹ thuật và ít nhiều
không mang tính chính trị về hành vi của người tiêu dùng và lạm phát. Một Friedman người rao bán chính
sách, người đã tham gia vận động cho chính sách trọng tiền trong nhiều thập kỷ - cuối cùng cũng chứng
kiến Cục dự trữ Liên bang và Ngân hàng Trung ương Anh đã làm theo học thuyết của ông vào cuối thập
niên 70, rồi từ bỏ một vài năm sau đó vì nó không thể vận hành trơn tru. Cuối cùng, là một Friedman nhà tư
tưởng, người truyền bá vĩ đại học thuyết về thị trường tự do.
Con người đó đã đóng cùng lúc tất cả những vai trò trên? Đúng và không. Cả ba vai trò đều in đậm lòng tin
của Friedman vào những chân lý kinh điển của các học thuyết kinh tế thị trường tự do. Hơn nữa, sự thành
công của Friedman trong vai trò một người quảng bá và tuyên truyền phần nào dựa vào danh tiếng xứng
đáng của ông với tư cách một lý thuyết gia kinh tế uyên thâm. Nhưng có một sự khác biệt quan trọng giữa
sự chặt chẽ trong công trình của ông với tư cách một nhà kinh tế học chuyên sâu và sự dễ dãi, đôi lúc đáng
ngờ về mặt logic trong những phát biểu của ông với tư cách một trí thức của công luận (public intellectual).
Trong khi công trình nghiên cứu lý thuyết của Friedman được hầu hết các kinh tế gia chuyên nghiệp

ngưỡng mộ, những phát biểu về chính sách của ông và nhất là hoạt động truyền bá của ông tạo ra nhiều ý
kiến ngược chiều. Và phải nói rằng có vài điều đáng bàn về sự trung thực về mặt tri thức khi ông phát biểu
trước công chúng.
Nhưng hãy tạm đặt sang một bên những điểm còn hồ nghi, và hãy nói về nhà kinh tế lý thuyết Friedman.
Trong gần hai thế kỷ qua, khái niệm Homo economicus (Con người kinh tế) đã chiếm ưu thế trong tư duy
kinh tế học.Con người kinh tế giả thiết biết mình muốn gì; sự ưa thích của anh ta có thể được biểu diễn
toán học thông qua “hàm lợi ích” (utility function). Và những sự lựa chọn của anh ta được dẫn hướng bởi
những tính toán hợp lý về việc làm thế nào tối đa hóa hàm thỏa dụng nói trên: những người tiêu dùng sẽ
phải quyết định chọn giữa đồ ăn khô làm từ ngô (cornflakes) và từ lúa mì (shredded wheat) cũng như nhà
đầu tư sẽ phải quyết định lựa chọn giữa cổ phiếu và trái phiếu, những quyết định đó được giả thiết trên cơ
sở so sánh “lợi ích biên”, hay lợi ích người mua sẽ có thêm được từ việc lấy thêm một lượng nhỏ trong
những khả năng sẵn có.
Thật dễ cười nhạo câu chuyện này. Không ai, ngay cả những nhà kinh tế đoạt giải Nobel, thực tình quyết
định theo cách đó. Tuy vậy, hầu hết các nhà kinh tế - trong đó có cả tôi – vẫn thấy rằng khái niệm Con
người Kinh tế là hữu dụng, với sự chấp nhận rằng anh ta là đại diện lý tưởng cho những gì chúng ta nghĩ
đang diễn ra trong thực tế. Con người có những ưa thích, ngay cả nếu những ưa thích đó thực sự không
thể biểu diễn bằng một hàm lợi ích chính xác; họ thường có những quyết định hợp lý, ngay cả khi họ không
tối đa hóa lợi ích theo nghĩa đen. Bạn có thể thắc mắc, tại sao không biểu diễn con người theo cách họ
hành động trong thế giới thực? Câu trả lời là, sự trừu tượng hóa, sự đơn giản hóa có mục đích là cách duy
nhất chúng ta có thể áp đặt một thứ trật tự tri thức vào sự phức tạp của đời sống kinh tế. Và giả thiết về
hành vi hợp lý là một sự đơn giản hóa đặc biệt hiệu quả.
Tuy nhiên, vấn đề đặt ra ở đây là nên đi xa đến đâu. Keynes đã không tấn công toàn diện vào Con người
Kinh tế, nhưng ông thường viện đến lý luận về tâm lý hợp lý hơn là phân tích cẩn thận một người ra quyết
định hợp lý sẽ làm gì. Những quyết định kinh doanh do “tâm lý bầy đàn” dẫn hướng, những quyết định của
người tiêu dùng tuân theo xu hướng tâm lý sẽ chi tiêu thêm một phần thu nhập tăng lên chứ không phải tất
cả, điều đình tiền lương dựa trên cảm giác về sự công bằng, vân vân.
Nhưng giảm nhẹ vai trò của khái niệm Con người Kinh tế đến mức đó có thực sự là một ý tưởng hay?
Milton Friedman cho là không khi lập luận trong bài viết “Phương pháp luận kinh tế học thực chứng” vào
năm 1953 rằng không nên đánh giá các lý thuyết kinh tế dựa vào khả năng giải thích hợp lý thực tế bằng
tâm lý học mà phải đánh giá chúng bằng khả năng dự báo được các hành vi. Và hai thành quả vĩ đại nhất

của Friedman trong vai trò là nhà kinh tế lý thuyết phát sinh từ việc ứng dụng giả thuyết về hành vi hợp lý
vào các câu hỏi mà các nhà kinh tế khác đã cho rằng không giải quyết được.
Trong cuốn sách năm 1957 của ông, Lý thuyết về hàm tiêu dùng (A Theory of the Consumption Function) -
một tựa đề không mấy dễ “nuốt” với số đông, nhưng là một chủ đề quan trọng – Friedman lập luận rằng
cách tốt nhất để hiểu các hành vi tiết kiệm và chi tiêu không phải là viện đến việc lý luận lỏng lẻo về tâm lý,
như Keynes đã làm, mà tốt hơn là xem xét các cá nhân lên kế hoạch hợp lý để tiêu dùng tài sản của họ như
thế nào trong đời.Ý tưởng này không nhất thiết chống lại học thuyết Keynes. Trên thực tế, Franco
Modigliani, nhà kinh tế lớn thuộc trường phái Keynes, thực hiện một nghiên cứu tương tự đồng thời và độc
lập, cũng đưa ra lập luận tương tự - thậm chí với lối tư duy còn thận trọng hơn về hành vi hợp lý trong công
trình với Albert Ando. Nhưng nó đã đánh dấu sự quay trở lại của lối tư duy theo kinh tế học cổ điển – và đã
đưa đến kết quả. Không đi vào chi tiết để tránh sa vào mặt kỹ thuật, nhưng có thể nói “giả thiết thu nhập
thường trực” (permanent income hypothesis) của Friedman và “mô hình vòng đời” (life cycle model) của
Ando và Modigliani đã giải quyết một số nghịch lý hiển nhiên trong mối quan hệ giữa thu nhập và tiêu dùng,
và cho đến nay vẫn là cơ sở cho những suy nghĩ của nhà kinh tế về chi tiêu và tiết kiệm.
Công trình của Friedman về hành vi tiêu dùng, chỉ từng đó thôi cũng đã làm nên danh tiếng học thuật của
ông. Tuy nhiên, một thành quả khác thậm chí còn lớn hơn là việc ông ứng dụng Con người kinh tế trong lý
thuyết để giải thích lạm phát. Năm 1958 nhà kinh tế sinh tại New Zealand A. W. Phillips đã chỉ ra rằng có
một tương quan mang tính lịch sử giữa thất nghiệp và lạm phát: tỷ lệ lạm phát cao có liên hệ với tỷ lệ thất
nghiệp thấp và ngược lại. Trong một thời gian, các nhà kinh tế đã xem mối quan hệ này là đáng tin cậy và
bền vững. Điều đó dẫn đến cuộc thảo luận nghiêm túc về những điểm nào trên “đường cong Phillips” chính
phủ nên chọn. Chẳng hạn, nước Mỹ có nên chấp nhận một tỷ lệ lạm phát cao để đạt được tỷ lệ thất nghiệp
thấp?
Tuy nhiên, năm 1967, Friedman đã đọc diễn văn chủ tịch trước Hội Kinh
tế Mỹ, trong đó ông lập luận rằng mối tương quan giữa lạm phát và thất
nghiệp, dù dữ liệu có thể hiện điều đó, cũng không đại diện cho một sự
đánh đổi thực sự, ít ra là trong dài hạn. Ông tuyên bố: “Luôn luôn có một
sự đánh đổi tạm thời giữa lạm phát và thất nghiệp, nhưng không phải sự
đánh đổi lâu dài.” Nói cách khác, nếu các nhà ra chính sách thử giữ tỉ lệ thất nghiệp thấp nhờ vào một chính
sách làm cho lạm phát cao lên, họ sẽ chỉ thành công trong ngắn hạn. Theo Friedman, thất nghiệp sau rốt sẽ
lại tăng, ngay cả khi lạm phát duy trì ở mức cao. Nói cách khác, nền kinh tế sẽ trải qua thời kỳ mà sau này

Paul Samuelson sẽ đặt tên là suy lạm phát (stagflation).
Friedman đi đến kết luận này như thế nào? (Edmund S. Phelps, người đã giành giải Nobel Kinh tế năm
2006, đồng thời và độc lập đã đi đến cùng một kết quả.) Cũng như trong công trình nghiên cứu của ông về
hành vi tiêu dùng, Friedman đã áp dụng ý tưởng về hành vi hợp lý. Ông lập luận rằng, sau một thời kỳ lạm
phát kéo dài, người ta sẽ đưa kỳ vọng về lạm phát trong tương lai vào quyết định của họ, làm vô hiệu hóa
bất kỳ hiệu quả tích cực nào của lạm phát đối với việc làm. Chẳng hạn, một lý do lạm phát có thể dẫn đến
việc làm cao hơn là do thuê nhiều công nhân sẽ trở nên có lợi hơn khi giá tăng nhanh hơn lương lao động.
Nhưng một khi người lao động hiểu rằng sức mua của lương họ sẽ bị giảm vì lạm phát, họ sẽ đòi trước
những thỏa thuận lương cao hơn, để cho lương tăng kịp với giá. Kết quả là, sau khi tình trạng lạm phát diễn
ra một thời gian, nó sẽ không còn đem lại sức tăng việc làm như ban đầu nữa. Thực tế, tỉ lệ thất nghiệp sẽ
tăng lên nếu tình trạng lạm phát diễn ra không như mong đợi.
Vào lúc Friedman và Phelps đưa ra những ý tưởng của họ, Mỹ chưa có nhiều kinh nghiệm về tình trạng lạm
phát kéo dài. Nên điều này thực sự có ý nghĩa dự báo hơn là cố gắng giải thích những gì diễn ra trong quá
khứ. Tuy thế, tình trạng lạm phát dai dẳng những năm 1970 đã kiểm tra giả thiết của Friedman-Phelps.
Đúng thế, tương quan lịch sử giữa lạm phát và tỉ lệ thất nghiệp bị phá vỡ đúng theo cách mà Friedman và
Phelps dự đoán: vào năm 1970, khi tỉ lệ lạm phát tăng đến hai con số, tỷ lệ thất nghiệp lên cao, còn cao hơn
cả những năm giá cả ổn định của thập niên 1950 và 1960. Cuối cùng lạm phát được kiểm soát vào những
năm 1980, nhưng chỉ sau một thời kỳ nhọc nhằn với tỉ lệ thất nghiệp cực cao, tồi tệ nhất kể từ cuộc Đại Suy
thoái.
Với việc dự đoán trước tình trạng suy lạm phát, Friedman và Phelps đã đạt được một thành tựu lớn lao của
kinh tế học thời hậu chiến. Thành tựu này, hơn bất kỳ kết quả nào khác, xác nhận địa vị của Milton
Friedman như một nhà kinh tế vĩ đại của các nhà kinh tế, bất kể những gì người ta có thể nghĩ về các vai trò
khác của ông.
Một lưu ý thú vị: cho dẫu Friedman đã đạt được những bước tiến vĩ đại trong kinh tế vĩ mô với việc áp dụng
khái niệm về cá nhân hành động hợp lý, ông cũng biết đâu là điểm dừng. Thập niên 1970, vài nhà kinh tế
đã đẩy những phân tích về lạm phát của Friedman đi xa hơn nữa, lập luận rằng không có sự đánh đổi nào
đáng kể giữa lạm phát và thất nghiệp ngay cả trong ngắn hạn, bởi vì người dân sẽ tiên liệu các hành động
của chính phủ và dùng tiên liệu đó, cũng như kinh nghiệm quá khứ, vào trong việc thiết lập giá và thương
lượng tiền lương. Học thuyết này, được biết đến như “kỳ vọng hợp lý”, lan rộng ra trong giới kinh tế học học
thuật. Nhưng Friedman chưa bao giờ thừa nhận điều này. Ý thức thực tế của ông đã cảnh báo rằng điều

này đưa ý tưởng về Con người Kinh tế đi quá xa. Và nó cũng đã được chứng minh. Bài thuyết trình của ông
vào năm 1967 đã đứng vững qua sự kiểm tra của thời gian, trong khi những quan điểm cực đoan hơn được
các nhà lý thuyết về kỳ vọng hợp lý đề xuất về vào thập kỷ 70 và 80 thì không.

×