Tải bản đầy đủ (.docx) (30 trang)

Món ăn chữa bệnh y học thường thức

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (450.12 KB, 30 trang )

MÓN ĂN CHỮA BỆNH
CHUỐI HỘT CHỮA BỆNH TIỂU ĐƯỜNG
Nước ép củ chuối hột giúp ổn định đường huyết. Ngoài ra, chuối hột còn được dân gian
dùng trị nhiều bệnh khá hiệu quả mà không tốn kém
Cây chuối hột có tên khoa học là Musra barjoo sieb, có nơi gọi chuối chát.
Để chữa bệnh tiểu đường, đào lấy củ cây chuối hột, rửa sạch, giã nát, ép lấy nước uống.
Việc dùng thường xuyên và lâu dài có tác dụng ổn định đường huyết.
Vì củ chuối không nhiều và đào củ phức tạp, có thày thuốc (ở Trung Quốc) đã cải tiến
cách dùng: Cắt ngang cây chuối hột, khoét một lỗ, đậy nylon lên, để nước cây chuối tiết
ra đọng vào đó. Lấy nước này cho người bệnh uống. Khi đoạn trên héo thì cắt thấp xuống
phía dưới; một cây cắt ngang như thế dùng được nhiều lần. Mùa mưa, nước chuối loãng
thì uống nhiều hơn mùa nắng. Điều trị theo cách này, bệnh cũng thuyên giảm rõ rệt.
Cũng có thể chọn cây chuối có bắp đang nhú, cắt ngang gốc (cách mặt đất khoảng 20
cm), lấy dao khoét một lỗ rỗng to ở thân chuối, để một đêm, sáng hôm sau múc nước từ
lỗ rỗng (do thân chuối tiết ra) mà uống.
Vị thuốc đa năng
Theo cuốn “450 vị thuốc nam có tên trong bản Dược thảo Trung Quốc”, lá và vỏ quả
chuối hột khô sắc uống làm thuốc lợi tiểu và chữa được chứng phù thũng sưng chân; rễ
sắc uống chữa cảm mạo, bệnh dạ dày, đau bụng.
Chữa sỏi thận: Lựa quả chuối hột thật chín, lấy hột phơi khô, tán nhỏ nấu lấy nước uống;
cho 7 thìa nhỏ bột hột chuối vào 2 lít nước, đun nhỏ lửa khi còn 2/3 nước là được. Uống
hằng ngày như nước trà, liền 2-3 tháng, cho kết quả khá tốt.
Một cách khác: Dùng chuối hột một buồng già đem thái mỏng, phơi khô, tán nhỏ thành
bột, mỗi ngày uống 3 thìa canh, uống liền 2-3 tháng. Hoặc quả chuối hột đã thái mỏng,
sao vàng, hạ thổ 7 ngày; mỗi ngày lấy 1 vốc tay (chừng 1 quả) sắc với 3-4 bát nước, uống
vào lúc no.
Ngoài ra, quả chuối hột còn xanh được dùng điều trị bệnh hắc lào: Cắt đôi, xát trực tiếp
vào nơi tổn thương, dùng liên tục 7-8 ngày là khỏi. Với trẻ táo bón, người ta lấy 1-2 quả
chuối chín đem vùi vào bếp lửa cho vỏ quả ngả màu đen chín nhũn, lấy ra để nguội cho
trẻ ăn, khoảng 10 phút sau là đi tiêu được.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)


TÁO CHUA – VỊ THUỐC AN THẦN
Táo chua là loại cây thuộc họ rụng lá, thường sống thành bụi. Mùa thu khi quả
chín cũng là mùa thu hái, bỏ đi thịt táo, nghiền nát hạt, lấy nhân phơi hoặc sấy khô để làm
thuốc gọi toan táo nhân. Dùng sống hoặc sao, cho vào thuốc nên giã nát. Tính vị của toan
táo nhân ngọt, chua, có tác dụng quy phục, ổn gan, đảm kinh, tác dụng dưỡng tâm bổ
gan, an thần ngăn mồ hôi.
MƯỚP – THỨC ĂN VÀ VỊ THUỐC
Theo Đông y, quả mướp vị ngọt, tính bình, không độc, dùng nấu nước uống giúp
lợi sữa cho phụ nữ mới sinh, có thể nấu với móng giò lợn để ăn. Xơ mướp là vị thuốc
lương huyết, hoạt huyết, thông kinh giải độc, giảm đau, cầm máu; dùng chữa chảy máu
ruột, băng huyết, lỵ ra máu. Thường đốt tồn tính mà cho uống. Rễ cây mướp cũng được
dùng làm thuốc chữa lở ngứa, đau lưng.
Một số bài thuốc tham khảo:
Chữa tắc tia sữa: Dùng mướp cả hạt đốt tồn tính, tán thành bột uống với ít rượu
nhẹ 8 g/lần, dùng xoa đắp ngoài vú.
Chữa kinh nguyệt không đều: Dùng 1 quả mướp khô đốt tồn tính rồi tán bột,
uống vào sáng sớm lúc còn đói với rượu.
Chữa trĩ, trực tràng chảy máu hoặc xuất huyết tử cung: Xơ mướp đốt tồn tính tán
bột, uống mỗi lần 2 g, 3 lần/ngày.
Chữa lở ngứa: Chọn rễ cây mướp già đun với nước rồi ngâm rửa.
Đau lưng lâu khỏi: Dùng rễ mướp 80-120 g, sắc uống hằng ngày.
Giúp lợi tiểu: Chọn 1 quả mướp to, cắt bỏ ngang phần trên, cho vào ruột quả 37,7
g kali nitrat (diêm tiêu), đậy nắp lại cho vào lò đun nóng (phải giữ quả thẳng đứng). Khi
diêm tiêm đã tan, quả chín mềm nhũn thì lấy ra nghiền nát, dùng vải lọc, chia nước này
uống trong 5-6 ngày (theo kinh nghiệm dân gian Campuchia).
Thanh Tâm
Theo (Sức khoẻ và đời sống)
RAU MÁ KHÔNG CHỈ LÀ RAU MÁ
Rau má rất "lành", có thể ăn hằng ngày. Nhưng rau má không chỉ là một loại rau mà còn
là vị thuốc quý, chữa được nhiều chứng bệnh, như: mụn nhọt, rôm sảy, sốt nóng, thiếu

sữa sau sinh, táo bón, hư lao, nhuận gan mật, bí tiểu tiện Ngay cả nền y học phương
Tây cũng đã sử dụng rau má làm thuốc từ rất lâu.
Cách dùng rất đơn giản (rau sống hoặc nấu canh, luộc hay giã nhuyễn vắt lấy nước uống).
Số lượng và thời gian sử dụng không hạn chế. Đối với những người thừa cân (béo phì),
xơ vữa động mạch máu nếu ăn rau má lâu dài sẽ có tác dụng làm giảm lượng cholesterol
trong máu và do đó làm cho các mạch máu mềm mại trở lại, hạn chế được những tai biến
do xơ vữa động mạch máu gây ra (như co thắt động mạch vành tim hay nhồi máu cơ tim,
co thắt mạch máu não hay vỡ mạch máu não).
Nền y học hiện đại đã chiết xuất lấy hoạt chất từ rau má làm thuốc chống sẹo lồi, làm vết
thương mau lành, giảm bớt chứng giãn tĩnh mạch chi dưới Tuy lấy từ rau má nhưng
loại thuốc này khá đắt vì phải qua nhiều công đoạn chế biến khá phức tạp. Cần lưu ý là
các hoạt chất nằm ở trong chất xơ (cellulose) của rau má, nếu chúng ta chỉ giã vắt lấy
nước thì sẽ mất đi các hoạt chất này. Một số công trình nghiên cứu cho thấy các chất xơ
có thể "kéo" cholesterol ra khỏi cơ thể, vì vậy nếu ăn các loại rau có nhiều chất xơ sẽ giúp
cơ thể đào thải dần lượng cholesterol ra khỏi cơ thể.
(Theo Thanh Niên)
NẤM HƯƠNG VỊ THUỐC
Hạ huyết áp, giảm cholesterol, cải thiện viêm khớp, phòng ngừa suy lão Đó chỉ là một
phần công dụng của nấm hương. Trong Đông dược, nấm hương được coi là vị thuốc bổ
nổi tiếng, được tôn là “dược diệu” chống suy lão và trường thọ
Nhiều nghiên cứu đã xác nhận nấm hương chứa một hàm lượng chất khoáng rất phong
phú, nhất là kali. Ngoài ra, nó còn có các loại vitamin B2, D, PP, protein, chất xơ, lipid,
và polisacarit giúp nâng cao sức đề kháng của cơ thể.
Nấm hương có rất nhiều tác dụng, trong đó có 10 tác dụng lớn là: Hạ huyết áp, ngăn
ngừa hình thành cục máu đông làm tắc mạch, giảm cholesterol, giảm béo, chữa viêm
khớp, giảm albumin niệu, làm tăng interferon trong cơ thể, phòng ngừa suy lão, phòng trị
ung thư, chữa tàn nhang.
Một số món ăn bài thuốc:
Viêm gan mạn hay giảm bạch cầu: Nấm hương tươi 100g, thịt lợn nạc 100g thái miếng,
cho cùng nấm vào nồi nấu thành canh, tra đủ mắm muối vừa miệng, ăn cái uống nước.

Cần ăn 1-2 lần/ngày, trong nhiều ngày.
Tăng huyết áp, bệnh mạch vành, xơ cứng động mạch, tiểu đường: Nấm hương 15g rửa
sạch, bí xanh 500g thái miếng cùng cho vào nồi nấu thành canh, tra mắm muối, hành là
được. Ăn cái, uống nước, ngày 1-2 lần trong nhiều ngày liền.
Viêm dạ dày, thiếu máu, sởi: Nấm hương 100g, rửa sạch thái nhỏ, gạo tẻ 100g, thịt bò
luộc thái lát 50g. Tất cả cho vào nồi nấu nhừ thành cháo, nêm hành, gừng, muối, vừa đủ
để ăn. Mỗi ngày ăn 1-2 bữa. Cần ăn một thời gian mới hiệu nghiệm.
(Theo SK & ĐS)
TỎI, VỊ THUỐC TUYỆT VỜI
Nhờ chứa nhiều hoạt chất sinh học, nên tỏi được dùng để bảo vệ sức khỏe và phòng trị
bệnh rất hiệu nghiệm
Những công dụng hay của tỏi
Theo lương y Nguyễn Công Đức - giảng viên khoa y học cổ truyền, Đại học Y Dược
(TP.HCM), tỏi có những công dụng rất hay. Hợp chất sulfur trong tỏi có tác dụng kháng
khuẩn, tiêu viêm rất mạnh. Từ xưa, tỏi vốn được xem là chất sát khuẩn tự nhiên, là kháng
sinh thiên nhiên. Dùng tỏi lâu dài giúp dự phòng cảm cúm và tránh lây nhiễm vi khuẩn và
virus. Trong tỏi chứa rất nhiều chất nâng cao hệ miễn dịch - Allycin trong tỏi kích hoạt tế
bào, làm tăng số lượng tế bào hạt trung tính, thực bào và tế bào lympho. Các loại tế bào
này có khả năng bao vây, làm ức chế và tiêu diệt tế bào ung thư.
Bên cạnh đó, tỏi còn ức chế các khuẩn gây bệnh đường ruột, trợ giúp điều chỉnh chức
năng hệ tiêu hóa, là khắc tinh của ung thư - nhờ chứa hợp chất sulfur, tỏi trực tiếp ức chế
và tiêu diệt các tế bào khối u. Nitrat là tiền thân của chất gây ung thư nitrosamine, tỏi ức
chế nitrat trong biến chuyển thành nitrite, ngăn cản hình thành nitrosamine, từ đó phòng
ngừa được ung thư dạ dày. Tỏi còn có thể ngăn cản sự xâm hại của các hóa chất có độc,
kim loại nặng, độc tố và các chất gây ung thư đối với cơ thể. Ngoài ra, tỏi còn ức chế sự
tăng trưởng của tế bào ung thư da, ung thư trực tràng, thực quản, mũi họng, gan (tỏi
phòng ngừa sự hình thành của các gốc tự do).
Trong tỏi chứa nhiều germani và selen giúp cơ thể tăng khả năng chống ung thư. Các
nghiên cứu cho thấy, ăn tỏi hằng ngày giúp sát khuẩn, tăng tuổi thọ. Người thường ăn tỏi
tỷ lệ mắc bệnh ung thư dạ dày thấp hơn 50% so với người không ăn tỏi. Hơn nữa, người

ăn nhiều tỏi tỷ lệ mắc ung thư trực tràng cũng rất thấp.
Tỏi ức chế hấp thụ cholesterol xấu, giảm hấp thụ cholesterol tại ruột non, nhờ đó giúp
quân bình cholesterol trong máu. Nhiều thức ăn thường ngày như lòng đỏ trứng, nội tạng
động vật (đồ lòng), thịt mỡ , dùng nhiều sẽ dẫn đến tăng mỡ trong máu. Nếu ăn kèm với
tỏi, thì mỡ trong máu sẽ bị khống chế. Tỏi còn ức chế tích tụ tiểu cầu, phòng ngừa hình
thành huyết khối, giúp dự phòng mắc bệnh tim mạch. Động mạch chủ của người thường
ăn tỏi có tính đàn hồi hơn so với người không ăn tỏi. Người bệnh tăng huyết áp, mỗi sáng
ăn vài tép tỏi ngâm giấm sẽ giúp hạ áp.
Những cách dùng tỏi có hiệu quả
Băm tỏi thật nhuyễn, và đặt trong không khí 10-15 phút mới ăn là tốt nhất. Vì theo lương
y Nguyễn Công Đức, trong tỏi không có allycin tự do, chỉ sau khi băm nhuyễn, dưới tác
dụng của enzyme thì tỏi mới phóng thích ra allycin. Tỏi băm nhuyễn, dù nấu chín thì vẫn
bảo tồn được 60% tác dụng dược lý.
Một số lưu ý khi dùng tỏi: không nên ăn quá nhiều tỏi một lần, vì sẽ làm kích thích mắt,
dễ gây ra viêm kết mạc mắt; không nên ăn tỏi lúc bụng đói - tỏi có tính phân hủy và kích
thích mạnh với niêm mạc dạ dày, ruột. Cách sử dụng tỏi đơn giản là, tỏi khô bóc vỏ 50 gr
giã nát để 30 phút sau đó mới cho vào lọ sạch, ngâm với 100 ml (nửa chén) rượu trắng 45
độ. Ngâm 10 ngày, thỉnh thoảng lại lắc lọ, mới đầu có màu trắng, sau chuyển dần sang
vàng, đến ngày thứ 10 thì có màu vàng nghệ. Dùng sáng 1 muỗng cà phê, tối 1 muỗng cà
phê trước khi ngủ. Tỏi ngâm rượu có công dụng chữa thấp khớp, tăng huyết áp, viêm
họng, hen phế quản, trĩ nội, viêm loét dạ dày tá tràng, ăn khó tiêu, ợ hơi Nhưng, lưu ý,
người đang mang thai, đau mắt đỏ, mụn nhọt lở loét, ban trái, người nóng bứt rứt, tiểu
vàng, khô họng thì không nên dùng rượu tỏi.
(Theo Thanh Niên)
HUYỀN SÂM TRỊ SỐT XUẤT HUYẾT
(SK&ĐS)Gọi huyền sâm vì vị thuốc này giống sâm có màu đen (huyền là đen). Tên khoa
học là Sorophularia buergeriana Miq, thuộc họ hoa mõm chó. Huyền sâm (Radix
Sorophulariae) là rễ phơi hay sấy khô của cây bắc huyền sâm.
Cây bắc huyền sâm là một loại thảo cao khoảng 1,50m, thân vuông màu xanh có rãnh
dọc, 4 góc hơi phồng lồi ra, lá hình trứng, mọc đối chữ thập, đầu lá nhọn, mép có răng

cưa nhỏ và đều, cuống ngắn, phiến lá dài. Lá phía dưới to hơn, cuống dài hơn, lá phía trên
hơi nhỏ, cuống ngắn hơn
Hoa tự mọc thành chùm, cuống ngắn trông như bông, nở ngọn hay đầu cành. Hoa hình
ống, hơi phình ở giữa, thắt ở phía trên, mép có 5 cánh, với 1 cánh cao hơn, mọc thành
tán, hoa màu tím hoặc màu vàng nhạt, quả màu xanh, khi chín màu đen, chứa nhiều hạt
đen.
Huyền sâm có vị đắng, ngọt hơi mặn, tính hơi lạnh, vào 2 kinh Phế và Thận. Theo tài liệu
cổ: huyền sâm có tác dụng tư âm, giáng hỏa, giải độc hòa ban, thanh hầu chỉ thống,
nhuyễn kiên tán kết, giải khát trừ phiền, nhuận táo hoạt trường. Dùng chữa các bệnh như:
phiền khát, cuồng điên, yết hầu sưng đau, ung thũng, tràng nhạc, táo bón, mất ngủ, ôn
dịch phát ban, bướu cổ, tăng thêm tinh dịch, hạ sốt, các bệnh thời khí ôn dịch, sưng viêm,
các bệnh xuất huyết, mụn nhọt, sưng lở.
Huyền sâm được dùng làm thuốc mạnh tim, giảm sốt, chống viêm cổ họng viêm amiđan,
lở loét trong miệng.
Liều dùng 10-12g dưới dạng thuốc sắc. Người tỳ hư tiết tả không dùng được.
Một số bài thuốc có huyền sâm:
- Chữa viêm họng, viêm amiđan: Huyền sâm 10g, cam thảo 3g, cát cánh 5g; mạch môn
8g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia 3 lần uống trong ngày và làm nước súc miệng.
- Trị phát ban, họng đau: Huyền sâm, thăng ma, cam thảo mỗi thứ đều 20g, nước 600ml.
Sắc còn 200ml, uống ấm sau khi ăn 30 phút.
- Trị ban chẩn, sốt cao mê sảng: Nhiệt tà nhập huyết làm sốt cao mê sảng, ban chẩn nổi lờ
mờ, lưỡi khô đỏ. Cần thanh dinh thấu nhiệt, giải độc dưỡng âm. Dùng “Thanh dinh
thang”: Huyền sâm 12g, tê giác 12g, mạch môn 12g, kim ngân hoa 12g, hoàng liên 6g,
sinh địa 20g, đan sâm 8g, đọt tre 8g, liên kiều 8g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia 3 lần
uống trong ngày.
- Trị viêm hạch, lao hạch, lao màng bụng: Huyền sâm 20g, nghệ đen 10g, xạ can 10g, bồ
công anh 8g, mộc thông 8g, nước 600ml. Sắc còn 200ml, chia uống 2 lần.
- Trị loa lịch: Huyền sâm 20g, bối mẫu 12g, liên kiều 12g, qua lâu căn 12g, bạc hà 10g,
hạ khô thảo 12g, cam thảo 6g. Sắc uống ngày 1 thang chia 2 lần.
- Trị tiểu tràng sán khí: Huyền sâm 100g, (sao) nghiền nhỏ hòa với nước cơm tán nhuyễn

làm viên bằng hạt đậu xanh. Mỗi lần uống 6g lúc đói với rượu (hoặc nước nguội hòa rượu
– dùng cho phụ nữ và trẻ em).
- Trị kinh phong trẻ em: Huyền sâm 8g, mạch môn 4g, sinh địa 8g, câu đằng 6g, cúc hoa
6g, cam thảo bắc 4g. Nước sắc như trên uống 2 lần trong ngày.
- Trị sốt xuất huyết có choáng: Huyền sâm 20g, cỏ nhọ nồi 10g, chi tử 10g, sinh địa 15g,
kim ngân hoa 10g, hoàng đằng 15g, quy vĩ 10g. Nước sắc như trên, uống ngày 2 lần.
- Trị nhọt độc có vết rò, hang hốc: Huyền sâm ngâm rượu uống mỗi ngày 1 ly nhỏ sau khi
ăn.
- Trị tam tiêu tích nhiệt: Huyền sâm 12g, hoàng liên 8g, đại hoàng 8g, nước 400ml, sắc
còn 150ml, uống ngày 2 lần. Hoặc mỗi vị đều 40g, tán mịn luyện với mật ong, viên bằng
hạt ngô, mỗi lần uống 30-40 viên với nước ấm.
- Trị viêm tắc tĩnh mạch tay chân (chứng thoát thư): Huyền sâm 24g, đương quy 10g,
cam thảo 10g, huyết giác 10g, ngưu tất 10g, nước 600ml, sắc còn 200ml, uống ngày 2 lần
Theo Lương y Minh Chánh
CHÁO HẦ THỦ Ô
Món ăn bổ dưỡng cho người tiểu đường và người bệnh tim mạch.

Nguyên liệu:
* 30gr-60gr hà thủ ô
* 2 bát nước dùng
* 40gr sơn dược
* 100gr thịt lợn nạc
* 100gr gạo thơm
* 3-6 quả táo đỏ
* 1/2 thìa cà-phê muối

Thực hiện:
1. Rửa sơ hà thủ ô, sơn dược, táo đỏ, để ráo
2. Thịt nạt rửa sạch, thái lát
3. Vo gạo, để ráo

4. Đun sôi nước dùng, cho hà thủ ô, sơn dược vào
5. Tiếp đến, cho gạo vào nấu nhừ, nêm gia vị
6. Cuối cùng, cho thịt nạc, táo đỏ vào

Thưởng thức:
Múc cháo ra bát, dùng nóng
Công dụng:
Cháo hà thủ ô thích hợp với người bệnh tiểu đường kèm bệnh co thắt mạch vành tim
Theo TTGĐ
CHIM BỒ CÂU VÀ VỊ THUỐC CÁP ĐIỂU
Trong y học cổ truyền, chim bồ câu được dùng với tên thuốc là cáp điểu hay gia cáp gồm
thịt chim (cáp điểu nhục), tiết chim (cáp điểu huyết) và phân chim (cáp điểu phẩn). Trong
một số trường hợp, trứng chim (cáp điểu noãn) cũng được dùng. Tuệ Tĩnh còn nêu tên
khác của chim bồ câu là gia cưu hay phi nô và làm thuốc dùng thứ lông trắng thì tốt.
- Thịt chim: Chứa 22,14% protid, 1% lipid và các muối khoáng, có vị mặn, tính bình, hơi
ấm, không độc, có tác dụng bổ ngũ tạng, tăng cường khí huyết, mạnh dương, trừ cam
tích, kích thích tiêu hóa. Thịt chim rất thích hợp với thể trạng người cao tuổi, phụ nữ và
trẻ em dưới dạng nấu cháo rồi ăn nóng. Người uống được rượu, hằng ngày ăn thịt chim
tẩm rượu, nướng vàng cũng rất tốt.
Để chữa chứng liệt dương, thiếu máu, hoa mắt hay choáng váng, lấy chim bồ câu non 1
con và chim sẻ 5 con, làm thịt, bỏ lòng ruột, cắt nhỏ, sấy khô giòn, tán bột mịn; đỗ trọng
120g sao tồn tính, tán nhỏ cùng với muối rang 4g. Trộn đều các bột, luyện với mật ong
làm thành viên bằng hạt ngô. Ngày uống hai lần, mỗi lần 15 viên với nước ấm (thuốc bổ
thận tráng dương).
Thịt chim bồ câu tần với yến sào, đỗ xanh, nếp vàng, mộc nhĩ hoặc nấm hương, gia vị lại
là thức ăn ngon, vị thuốc bổ, rất tốt cho mọi lứa tuổi.
- Tiết chim: Chứa nhiều chất đạm, chất sắt, huyết sắc tố, có vị ngọt, mặn, mùi tanh, tính
ấm, có tác dụng giải độc, điều kinh. Để chữa kinh nguyệt không đều, kinh bế lâu ngày
không thông, lấy tiết chim trộn với bột xơ mướp đốt tồn tính làm thành bánh, phơi khô;
khi dùng, tán nhỏ, ngày uống hai lần, mỗi lần 8g với rượu vào lúc đói.

Theo tài liệu nước ngoài, ở Trung Quốc, người ta dùng chim bồ câu cùng với những dược
liệu khác dưới dạng món ăn – vị thuốc khá phổ biến để bổ tỳ, tăng cường khí huyết, nhất
là cho người mới ốm dậy. Cách làm: Chim bồ câu non 1 con, làm thịt, bỏ ruột, chặt nhỏ;
hoàng kỳ 30g, câu kỷ tử 30g, phơi khô, thái nhỏ, trộn đều, thêm nước, hấp cách thủy cho
chín nhừ, thêm gia vị, rồi ăn cái, uống nước. Cứ 3 ngày ăn một lần. Dùng 3-5 lần. Đễ
chữa đái tháo đường, lấy thịt bồ câu 1 con nấu chín với mộc nhĩ trắng 15g hoặc hoài sơn
30g và ngọc trúc 20g. Ăn cái, uống nước làm một lần trong ngày. Trứng chim bồ câu có
vị ngọt, chua, mặn, tính bình, có tac dụng ích khí, giải độc.
DS Hữu Bảo
NÁNG HOA TRẮNG CHỮA BỆNH XƯƠNG KHỚP
Từ kinh nghiệm trong nhân dân cũng như thời đánh Mỹ, khi còn phụ trách Chủ nhiệm
Quân y đoàn các Cục - Tổng cục thuộc Tổng cục Hậu cần, tôi thường dùng lá đại tướng
quân (náng hoa trắng) để chữa đau lưng, bong gân cho các thủ trưởng do phải đi lại vùng
rừng núi nhiều.
Bà con ở bắc Quảng Trị rất hay dùng lá náng hoa trắng trong viêm khớp. Lá náng hoa
trắng ở vùng Hiền Lương rất nhiều, chúng mọc hai bên ven đường vào Nam, ra Bắc. Cho
đến nay tôi vẫn thường dùng náng hoa trắng để điều trị bệnh xương khớp cho bệnh nhân.

Náng hoa trắng có rất nhiều tên gọi khác nhau như: lá náng, chuối nước, tỏi lợi, văn thủ
lam. Tên khoa học: Crinum asiaticium L (Crinum toxicarium Roxb), họ thủy tiên Amary
Llidaceae.
Náng hoa trắng là loại cây thảo, thân hành to, hình cầu hoặc hình trứng thuôn, đường
kính từ trên 10 cm. Lá hình bản dài trên 1m, mặt trên lõm thành rãnh, mép nguyên và uốn
lượn rộng từ 5 - 10 cm; hoa màu, cụm hoa trông như một tán, cuốn chung mập hơi dẹt,
to. Thường về chiều và tối, hoa náng có mùi thơm nhẹ, dễ chịu. Quả gần hình cầu, đường
kính 3 - 5 cm, chỉ có một ngăn và một hạt; mùa hoa, quả có từ tháng 6 đến tháng 8.
Náng hoa trắng mọc được ở những vùng đất xốp có ẩm. Không chỉ trong kháng chiến, mà
ngay cả thời bình, náng hoa trắng vẫn được mọi người dùng để trị đau lưng, sai khớp,
bong gân (hơ nóng đắp lên chỗ đau).
Trong thân hành, lá, hoa quả náng hoa trắng có chất alcoloid, crinamin. Theo Đông y,

náng hoa trắng vị cay, tính mật. Bộ phận dùng là thân hành và lá, hoa và quả. Náng hoa
trắng có tác dụng thông huyết tán ứ, giảm sưng đau xương khớp, ổ khớp, bong gân.
Người ta còn dùng nước sắc hoa náng trắng rửa, đắp ở những người có bệnh trĩ ngoại
(đắp ở hậu môn), trong rối loạn tiêu hóa đầy hơi, chướng bụng, nhỡ ăn quá no. Buồn nôn
mà không nôn được, người ta thường dùng lá náng hoa trắng giã nát vắt lấy nước, pha
vào ít đường; cứ vài phút uống từ 6 - 8g, bụng thấy dễ chịu là sẽ nôn được.
Rễ náng hoa trắng có vị đắng, hôi, tính nóng, có tác dụng thu phong, tán hàn, giải độc,
tiêu sưng; toàn cây chữa đau họng, đau răng, đinh nhọt, viêm da có mủ, mụn nhọt, rắn
cắn. Củ náng hoa trắng còn được ép lấy nước nhỏ vào tai khi đau tai.
Liều dùng: Ngày từ 3 - 10g dạng thuốc sắc. Dùng ngoài, theo kinh nghiệm của chúng tôi,
khi đau lưng cấp (L4 - L5 - Sl ,) dùng náng hoa trắng già thái nhỏ, rang muối sống một
bát; khi muối vừa chớm nổ, cho náng hoa trắng vào trộn đều, khoảng 2 - 3 phút đem ra
cho vào giấy báo gói thành gói 18 x 24 cm, đặt dưới ngang vùng thắt lưng nằm. Làm liên
tục từ 3 - 5 ngày, đau lưng sẽ giảm.
Bác sĩ Trang Xuân Chi
VỎ TRỨNG GÀ – VỊ THUỐC DÂN GIAN ĐỘC ĐÁO
Dân gian Việt Nam dùng vỏ trứng gà và lớp màng mỏng bên trong vỏ để chữa nhiều
căn bệnh nội ngoại khóa, bệnh ở trẻ em và phụ nữ có thai. Chẳng hạn, chứng chuột
rút được chữa bằng cách lấy vỏ trứng gà sao vàng, tán bột uống hoặc cho vào cháo
Một số ứng dụng cụ thể:
Chữa các bệnh về nhi khoa
- Co giật (do thiếu canxi): Vỏ trứng gà sao vàng tán bột, uống ngày 1 lần, mỗi lần 1-2 g
với nước đường ấm.
- Trớ sữa: Vỏ 1 quả trứng sao vàng tán bột, gạo 15-20 hạt nấu chín, thêm sữa mẹ 1 thìa,

cho trẻ uống.
- Còi xương: Vỏ trứng gà 50 g nghiền bột. Thương truật 500 g nấu đặc rồi lọc qua vải

thưa, trộn với bột vỏ trứng, cho ít muối, đường. Mỗi lần uống 5 ml, uống trong nửa


tháng.
- Khóc đêm: Vỏ trứng gà rang, tán bột, cho vào cháo cho trẻ ăn.
- Ra mồ hôi trộm: Màng trong vỏ trứng 10 cái, hạt vải 10 hạt, hồng táo 5 quả. Nấu lấy
nước đặc uống. Ngày uống 2 lần sáng và tối vào lúc bụng đói.
- Ho gà: Màng trong vỏ trứng 12 cái sấy khô, nghiền thành bột. Ma hoàng 1,5 g, tử uyển
10 g, cho vào nước nấu 10 phút, bỏ bã lấy nước uống với bột màng vỏ trứng. Dùng ngày
1 lần trong 5 ngày.
Chữa các bệnh sản phụ khoa
- Run tay sau sinh: Sò biển 6 g, vỏ trứng gà 6 quả sấy khô, đương quy 30 g, tất cả nghiền
thành bột. Uống mỗi lần 10 g. Dùng ngày 2 lần với 200 ml rượu vàng hòa nước nóng
uống.
- Sẩy thai: Màng trong vỏ trứng lượng vừa phải, cho lên viên ngói mới, sao vàng, nghiền
nhỏ. Nếu lần mang thai trước bị sẩy tháng nào thì lần này uống liên tục 5 ngày trước

tháng đó. Mỗi lần 10 g, ngày 2 lần, uống với nước cơm.
Các bệnh nội khoa
- Ho ra máu: Bột vỏ trứng 6 g, muối vừa đủ, vitamin C 2-4 viên nghiền vụn. Hòa cùng để

uống. Ngày dùng 3 lần, trong 1 tuần. Có thể dùng công thức này cho các trường hợp tiêu

tiểu ra máu, nôn ra máu, chảy máu cam.
- Chóng mặt: Vỏ trứng gà sao vàng, tán bột, uống với rượu vang. Mỗi lần 9 g. Ngày 3
lần.
- Bí tiểu tiện: Vở trứng và sò biển tán bột lượng bằng nhau (kết hợp Tây y để tránh biến
chứng).
- Cơn đau dạ dày: Vỏ trứng gà và hoa phật thủ tán bột, lượng bằng nhau. Uống lúc đau 6
g với nước ấm.
- Viêm loét dạ dày thừa toan: Vỏ trứng gà, vỏ sò biển nung tán bột mỗi thứ 30 g; bạch

khấu nhân, sa nhân mỗi thứ 20 g sao tán. Uống 1,5 g. Ngày 2 lần.

- Nôn và tiêu chảy: Vở trứng 1 quả sao tán bột, uống với nước ấm. Còn dùng bột này cho

người bị ợ chua, viêm loét dạ dày.
Các bệnh khác
- Thoát vị bẹn: Vở trứng gà đã nở con sao thành than, tán bột. Mỗi lần uống 9 g với rượu
cũ. Hoặc uống 1-3 g với nước cơm.
- Phòng chữa loãng xương: Nghiền vỏ trứng gà cho vào gạo nấu cơm hoặc cháo, làm

bánh để ăn.
- Bệnh sởi: Vỏ trứng 50 g sao khô, tán bột, uống mỗi lần 2 g. Ngày 3 lần với nước ấm.
- Lở miệng: Màng trong vỏ trứng ngâm nước muối dán vào chỗ đau.
- Viêm họng mạn: Màng vỏ trứng 5 quả, thiên môn 12 g, mật ong 1 thìa. Nấu cách thủy
uống.
- Mụn nhọt, nấm: Vỏ trứng 5 cái, vôi bột chín 15 g cho vào trong vỏ trứng nung chín, tán

bột, trộn với dầu vừng bôi.
- Vết thương chảy máu: Vỏ trứng gà tán bột rắc lên.
Theo Sức khoẻ $ Đời sống
CHÁO MĂNG
Thành phần:
Măng tre tươi 1 cái, gạo tẻ 100g.
Chế biến:
Măng đem bóc vỏ, thái lát, nấu cháo với gạo.
Cách dùng:
Mỗi ngày ăn 2 lần.
Công dụng:
Thanh phế trừ nhiệt, lợi thấp. Dùng chữa các bệnh đái tháo đường, tiêu chảy lâu ngày,

lỵ lâu ngày, lòi dom (trĩ).
CHÁO CỦ CẢI

Thành phần:
Củ cải tươi khoảng 250 g, gạo tẻ 100 g.
Chế biến:
Rửa sạch củ cải, thái nhỏ, thêm gạo nấu cháo, hoặc giã củ cải lấy nước nấu cháo.
Cách dùng:
Ăn nóng, điểm tâm.
Công dụng:
Hóa đàm, giảm ho, tiêu thực, lợi cách (làm vùng cách mạc dễ chịu), hết tiêu khát.
Dùng chữa bệnh đái đường và viêm khí quản mạn tính ở người cao tuổi.
Chú ý:
Khi ăn cháo củ cải, không nên dùng Thủ ô, Địa hoàng. Người tì vị hư hàn không nên
ăn.
CHÁO PHỔI LỢN
Thành phần:
Phổi lợn 500 g, gạo tẻ 100 g, Ý dĩ 50 g, rượu vang, hành, gừng, muối, mì chính mỗi
thứ vừa đủ.
Chế biến:
Làm sạch phổi lợn, thêm nước vừa đủ, thêm rượu vang, đun chín bảy phần mười, vớt
ra, thái miếng, cho vào nồi cùng với gạo đã vo sạch, ý dĩ, hành, gừng, muối, mì chính,
rượu vang. Trước hết đun to lửa cho sôi, rồi hầm nhỏ lửa, gạo chín nhừ là được.
Cách dùng:
Ăn thay cơm. Thường xuyên ăn sẽ có hiệu quả rõ rệt.
Công dụng:
Bổ tỳ phế giảm ho. Chữa viêm phế quản mạn tính.
CHÁO HÀNH
Thành phần:
Hành lá, củ to vừa đủ, gạo nếp 60 g, gừng tươi 5 lát.
Chế biến:
Thái hành dài 3 cm, nấu cháo với gạo nếp, gừng.
Cách dùng:

Ăn nóng. ăn xong đắp chăn cho ra mồ hôi.
Công dụng:
Phát biểu tán hàn, ôn trung thông dương. Dùng chữa cảm mạo phong hàn, ho.
Chú ý:
Người ho do táo nhiệt, biểu hư nhiều mồ hôi không được dùng.
MÓN ĂN CHỮA BỆNH TỪ LỢN
Ngũ tạng của chú ỉn (heo) là nguyên liệu thực phẩm quen thuộc, dễ tìm. Nếu biết cách
chế biến, ngoài việc được ăn ngon, bạn còn có được vị thuốc giúp phòng trị bệnh và nâng
cao sức khỏe.
Cháo tim heo
Nguyên liệu: 1 quả tim heo, 100 g gạo tẻ, các gia vị dầu, rượu trắng, muối, bột ngọt
Cách làm: Rửa sạch tim heo, xắt thành dạng hạt lựu. Cho dầu vào chảo, cho tim vào đảo
sơ, cho rượu, muối vào xào tiếp, lấy ra. Gạo tẻ vo sạch, cho vào nồi, cho tim heo đã xào
vào, thêm lượng nước vừa đủ, nấu cháo. Món này có công dụng dưỡng tâm bổ huyết, an
thần định kinh, thích hợp cho những người hay ra mồ hôi, hay hồi hộp, dễ hoảng hốt, mất
ngủ
Cháo bao tử heo
Thành phần: 1 cái bao tử heo (độ 300 g), 200 g gạo tẻ, cùng các gia vị giấm, tiêu bột,
gừng, hành, rượu trắng, dầu mè
Cách làm: Bao tử heo rửa sạch, cắt thành sợi, dùng dầu xào sơ, rồi cho vào rượu, giấm,
gừng, hành (đã cắt nhuyễn), muối, tiêu, xào bén mùi, lấy ra để đó. Gạo tẻ vo sạch, thêm
nước lượng vừa, nấu cháo, nấu đến khi gần đặc, cho bao tử heo đã xào vào, nêm nếm gia
vị, trộn đều. Dùng làm món điểm tâm, có công dụng bổ tỳ ích vị, bổ dưỡng, chống suy
nhược, thích hợp cho những người tỳ vị suy nhược; tiểu nhiều; trẻ em cam tích; thân thể
gầy ốm
Các món óc
Nếu làm việc quá độ, thần kinh suy yếu, trí nhớ suy giảm thì dùng óc heo với 3-4 vị
trong số những vị thuốc sau: Cùi nhãn 10 g, hạt sen 10 g, xuyên quy 10 g, câu đằng 8 g,
thiên ma 10 g, kỷ tử 10 g, ích trí nhân 8 g. Chưng cách thủy, để lâu trên bếp cho đến khi
các vị thuốc mềm.

Nếu đầu nặng hay bị choáng, trí nhớ kém dần, mắt mờ, ngủ hay mơ mộng liên miên, ngủ
chập chờn, thần trí không ổn định thì dùng một bộ óc heo, đại phòng sâm 15 g, đem
chưng cách thủy, ăn thường xuyên.
Bao tử heo hầm tiêu sọ
Món này trị chứng đau bao tử do lạnh (tỳ vị hư hàn). Dùng một cái bao tử heo loại nhỏ
(200 - 300 g), rượu ngon 100 ml; tiêu sọ (tiêu màu trắng) 30 hạt.
Bao tử heo không xẻ ra mà lộn mặt trong ra rửa. Dùng dây thắt cuống bên dưới lại, rồi
cho vào bên trong 100 ml rượu ngon và 30 hạt tiêu sọ (loại tiêu chín đỏ trên cây hái
xuống chà sạch vỏ, còn lại lõi màu trắng bên trong). Cột miệng bao tử lại và cho vào thố
bằng sứ, cho tiếp 100 ml rượu ngon vào, đậy nắp và chưng cách thủy chừng 30 - 45 phút.
Sau đó lấy bao tử ra thái nhỏ, chấm nước mắm hay muối tiêu để ăn (có thể dùng cả nước
hầm bên trong thố). Nếu đau lâu thì mỗi tuần dùng một thố; dùng liên tục 3-4 tuần, bệnh
sẽ giảm.
Cật heo xào rau kim châm
Cật heo có công hiệu bổ thận, mạnh lưng. Nghiên cứu hiện đại còn cho thấy, cật heo có
một số thành phần tương tự thận của người, có tác dụng bồi bổ cho tạng thận, dùng có ích
cho người bị thận suy.
Dùng 400 g cật heo rửa sạch, chẻ làm đôi, cho vào chảo dầu nóng xào với gừng, hành, tỏi
(cắt nhuyễn) đến chín. Rau kim châm (nên dùng loại khô) 50 g, ngâm nước cho nở ra, cắt
thành từng đoạn cho vào sau.
Món ăn này còn trị được chứng ra mồ hôi tay, mồ hôi trộm, người mới qua một cơn
bệnh
BA BA – MÓN ĂN CHỮA BỆNH
Thịt ba ba rất tốt cho người tạng nhiệt, nóng trong, mồ hôi ra nhiều, hoặc người bị viêm gan mạn
tính, tiểu đường, phụ nữ rong huyết, nam giới yếu thận, di tinh…
Theo dinh dưỡng học cổ truyền, thịt ba ba vị ngọt, tính bình, dùng làm thức ăn bổ dưỡng cho
người tạng nhiệt, nóng trong; chữa băng huyết, rong kinh, khí hư. Thịt ba ba rất thích hợp cho
người bị bệnh lao viêm gan mạn tính, xơ gan, đái đường, viêm thận, các bệnh lý ác tính sau khi
dùng hóa trị liệu, nam giới thận yếu thuộc thể Can thận âm hư (người gầy, hay hoa mắt chóng
mặt, nóng sốt về chiều, lòng bàn tay và bàn chân nóng, vã mồ hôi trộm, di mộng tinh, táo bón ).

Những người nào không nên dùng ba ba?
Nhìn chung, phụ nữ có thai và những người có thể chất hư hàn không nên ăn nhiều thịt ba ba,
nếu dùng thì phải phối hợp với các gia vị có tính ấm nóng và có công dụng kích thích tiêu hóa. Tỳ
vị hư hàn biểu hiện bằng các triệu chứng: Người gầy, sắc mặt nhợt nhạt, dễ mệt mỏi, bụng đầy,
chậm tiêu, miệng nhạt, chán ăn, tay chân lạnh và mỏi, đại tiện lỏng, nát hoặc sống phân, chất
lưỡi nhợt và có vết hằn răng…
Theo kinh nghiệm dân gian, không nên ăn thịt ba ba với kinh giới vì sẽ sinh lở ngứa.
Một số bài thuốc dùng ba ba chữa bệnh
* Ba ba 1 con, kỷ tử 30 g, hoài sơn 30 g, nữ trinh tử 15 g. Ba ba làm sạch, chặt miếng, đem hầm
nhừ cùng với các vị thuốc, khi chín bỏ bã thuốc, chế thêm gia vị, ăn nóng.
Công dụng: Chữa chứng can thận hư tổn, lưng gối đau mỏi, đầu choáng, mắt hoa, di tinh…
* Ba ba một con, tri mẫu, bối mẫu, ngân sài hồ, hạnh nhân mỗi thứ 15 g. Ba ba làm sạch, chặt
miếng, đem hầm nhừ cùng với các vị thuốc, khi chín bỏ bã thuốc, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần.
Công dụng: Dưỡng âm thanh nhiệt, nhuận phế chỉ khái, dùng để chữa các bệnh lý đường hô hấp
như viêm họng, viêm phế quản mạn tính, lao phổi, lao xương khớp.
* Thịt ba ba 50 g, râu ngô 5 g, sơn tra 4 g, hồng táo 2 quả, gừng tươi 1 g, gia vị và nước vừa đủ.
Thịt ba ba thái miếng, râu ngô rửa sạch, sơn tra bỏ hạt thái mỏng, táo bỏ hạt, gừng thái chỉ. Tất
cả cho vào nồi hầm nhừ, khi chín bỏ râu ngô, ăn cả cái và nước.
Công dụng: Dưỡng âm bổ huyết, làm giảm mỡ máu và hạ huyết áp.
* Mai ba ba 30 g, chim bồ câu 1 con, rượu vang một chút và gia vị vừa đủ. Mai ba ba sấy khô,
tán bột cho vào bụng chim bồ câu đã làm sạch cùng với rượu và gia vị, hấp cách thủy cho thật
nhừ, ăn trong ngày.
Công dụng: Chữa kinh nguyệt bế tắc do cơ thể suy nhược.
* Ba ba 1 con (chừng 600-800 g), đông trùng hạ thảo 10 g, đại táo 10 quả, gừng 2 lát, nước luộc
gà 1 bát con, hành, tỏi và gia vị vừa đủ. Ba ba làm thịt, thái miếng, cho vào nồi hầm cùng với các
nguyên liệu khác cho thật nhừ, khi chín nêm đủ gia vị, ăn nóng.
Công dụng: Bổ can thận, ích khí dưỡng huyết, tăng cường sức lực, dùng làm món ăn bồi bổ cho
nam giới.
(Theo SK & ĐS)
CHỮA RÔM SẢY BẰNG DƯA HẤU

Để chữa rôm sảy cho trẻ em, lấy dưa hấu 1 quả ngâm nước lạnh, sau 1 giờ giã nát vỏ để
xoa, tắm cho trẻ.
Ngoài ra, dưa hấu còn có các tác dụng sau:
Nước giải khát mùa hè: Nước dưa hấu tươi phòng chữa được tất cả các chứng có hỏa - nhiệt -
thấp, sốt cao, khát nước, miệng khô đắng, chán ăn, táo bón, tiểu đỏ sẻn. Nếu bị cảm nắng (trúng
thử) và các triệu chứng đó nặng hơn gây chóng mặt, buồn nôn, tiêu chảy (do thấp nhiệt), vẫn cho
uống nước dưa hấu và phối hợp thêm đạm đậu sị 2g, hương nhu 8g, sắc uống.
Thức ăn tráng miệng mùa hè: Có tác dụng tốt sau khi uống rượu và ăn các thức ăn sinh nhiều
nhiệt như thịt dê, thịt chó…
Cháo thanh nhiệt: Dưa hấu 1 kg, cát cánh 25 g (thái nhỏ), đường phèn 100 g, gạo tẻ 100 g.
Hoặc dùng vỏ dưa hấu và lạc mỗi thứ 200 g, mạch nha 100 g, ý dĩ 100 g. Có thể ăn liền một tuần
khi mệt mỏi, chán ăn.
Trẻ em cảm sốt: Vỏ dưa hấu 1 kg, chè xanh 10 g, bạc hà 15 g, nấu nước uống. Hoặc dưa hấu
1.500 g, cà chua 250 g (bỏ vỏ, hạt), vắt lấy nước uống.
Phụ nữ có thai và người cao tuổi bí tiểu: Nhân hạt dưa hấu 15 g, giã nát trộn với 15 g đường,
nấu nước uống ngày một lần.
Say rượu: Uống nhiều nước dưa hấu.
Không nên để dưa hấu đã cắt trong tủ lạnh, vì dưa hấu bản chất nhiều nước nên sẽ bị đông lại,
khi ăn có thể gây viêm họng lợi, buốt răng và rối loạn tiêu hóa.
(theo SK & ĐS)
DỨA – VỊ THUỐC ĐA NĂNG
Dứa không chỉ làm tan sỏi thận mà còn trợ giúp tiêu hóa, tẩy tế bào chết trên da Tuy
nhiên, không nên dùng dứa cho những người đang bị chảy máu.
Có 3 loại dứa chính:
Loại hoàng hậu: Thịt quả vàng đậm, giòn, thơm, ngọt. Quả nhỏ, mắt quả lồi, loại dứa này
có phẩm chất cao nhất. Dứa hoa, thơm, hay dứa Tây thuộc loại này.
Loại Cayenne: Thịt quả vàng ngà, nhiều nước, ít thơm và vị kém ngọt hơn dứa hoa. Quả
rất to, vì thế còn gọi là dứa độc bình.
Loại Spanish: Thịt quả vàng nhạt có chỗ trắng, vị chua, hương kém thơm và nhiều nước
hơn dứa hoa. Quả kích thước trung bình, mắt sâu. Dứa ta, dứa mật… thuộc loại này.

Dứa không chỉ giàu vitamin và khoáng mà còn chứa bromelin - một enzym có tác dụng
thủy phân protein thành các acid amin có tác dụng tốt trong tiêu hóa. Ở pH 3,3, chất này
có tác dụng như men pepsin của dịch vị; còn ở pH 6, nó có tác dụng như men trypsin của
dịch tụy. Do đó, sau những bữa ăn có nhiều thịt, nên tráng miệng vài miếng dứa. Chất
bromelin tập trung nhiều nhất trong lõi quả.
Dân gian thường dùng dịch ép quả dứa chưa chín làm thuốc tẩy, nhuận tràng. Quả dứa
chín nướng cháy, gọt bỏ vỏ, mỗi ngày ăn 1 quả, ăn trong 4 ngày giúp chữa huyết áp
cao… Đặc biệt, nhiều người dùng quả dứa chín chữa bệnh sỏi thận có hiệu quả: Lấy một
quả dứa chín để nguyên vỏ, khoét ở cuống quả một lỗ nhỏ, lấy 7-8 g phèn chua giã nhỏ
nhét vào, dùng thân dứa vừa khoét đậy lại, đem nướng trên than hồng (hoặc vùi vào lửa)
cho cháy sém hết vỏ, thịt quả chín mềm. Để nguội, vắt lấy nước uống, mỗi ngày 1 quả.
Sỏi thận sẽ bị bào mòn dần và tan hết, nếu sỏi nhỏ thì có thể tiểu tiện ra được.
Tây y dùng bromelin của dứa làm tăng hệ miễn dịch, ức chế quá trình viêm, bôi lên nơi
tổn thương (vết thương, vết bỏng, vết mổ) để làm sạch các mô hoại tử, mau lành sẹo.
Bromelin làm tăng hiệu quả kháng sinh và thuốc chữa hen. Nó cũng có tác dụng làm
giảm di căn ở các bệnh ung thư.
Thịt quả dứa còn được dùng làm mặt nạ nhằm lột nhẹ lớp tế bào sừng phía ngoài, bộc lộ
lớp da non phía trong mịn màng và trắng hơn.
Cẩn thận khi dùng dứa
Dứa có tác dụng phân hủy fibrin chống tụ huyết nên có tài liệu khuyên: Những người có
bệnh chảy máu hoặc có nguy cơ chảy máu (người hay chảy máu cam, sốt xuất huyết, vết
thương lớn, phụ nữ băng huyết…) không nên ăn dứa.
Không nên ăn dứa tươi vào lúc đói, vì các acid hữu cơ của dứa và bromelin tác động
mạnh vào niêm mạc dạ dày, ruột, dễ gây nôn nao, khó chịu.
Dứa cũng gây ngộ độc (dân gian thường gọi là “say dứa”). Sau khi ăn dứa 30-60 phút,
bệnh nhân thấy khó chịu, ngứa khắp người, nổi mày đay, đau bụng, nôn mửa, tiêu chảy,
có thể mạch nhanh nhỏ, khó thở, huyết áp hạ. Nếu ngộ độc nhẹ, khoảng 3 giờ sau nạn
nhân sẽ khỏi. Nếu nặng, nạn nhân khó thở, trụy tim mạch, mê man và tử vong.
Dân gian cho rằng bệnh nhân ăn phải “dứa có nọc rắn phun”. Thực ra, thủ phạm là một
loại vi nấm có độc tính cao. Vi nấm thường có trên mặt đất ẩm, phát triển mạnh trong

mùa hè, trùng với mùa dứa chín. Dứa mọc ở sát đất, thu hái xong cũng để dưới đất; vỏ
dứa xù xì, mắt dứa làm thành những cái hốc là nơi cư trú tốt cho nấm. Mặt khác, dịch bào
của dứa có độ ẩm, có hàm lượng đường cao và pH acid là những điều kiện thuận lợi cho
nấm độc phát triển. Nếu dứa bị dập nát, dịch bào thấm ra, nấm sẽ phát triển, có điều kiện
xâm nhập sâu vào trong quả dứa, gây độc cho người ăn.
Để phòng ngừa tai biến này, khi mua cần chọn dứa tươi và nguyên lành. Không ăn dứa
dập nát, gọt dứa phải gọt dày cho hết lớp vỏ, cắt sâu cho hết mắt dứa, xát qua ít muối rồi
rửa sạch, mới bổ ra ăn.
Theo SK&ĐS
CHỮA BỆNH BẰNG NƯỚC DỪA
Để chữa khản tiếng, bạn có thể lấy nước dừa non 1 cốc, rau má 8 g; giã rau má, vắt lấy
nước cốt pha với nước dừa uống.
Nước dừa ngọt ấm, không độc, giúp tăng cường khí lực, tươi nhuận nhan sắc, trị cảm
nắng, thủy thũng, thổ huyết, máu cam.
Trái dừa được xem là loại quả “kỳ diệu”, có gần như toàn bộ chất dinh dưỡng cần thiết
cho cơ thể. Protein dừa gồm các acid amin có chất lượng cao, nhiều vitamin trong nhóm
B và các vitamin khác. Nước dừa cũng giàu chất khoáng; hàm lượng kali và magiê tương
tự dịch tế bào của người nên thường được dùng cho bệnh nhân tiêu chảy. Tổ chức Y tế
Thế giới khuyến khích cho trẻ em tiêu chảy uống nước dừa pha muối.
Nước dừa làm đẹp da, đen mượt tóc. Nhân dừa non (mềm như thạch) chứa nhiều enzym
tốt cho tiêu hóa, dùng chữa các bệnh viêm loét dạ dày, viêm gan, đái tháo đường, lỵ, trĩ,
viêm đại tràng.
Nước quả dừa xanh còn non được các nhà khoa học gọi là “nước khoáng thực vật” vì
chứa nhiều vi lượng khoáng cần thiết cho cơ thể và đường ở dạng dễ tiêu hóa, lượng
vitamin C đủ cho yêu cầu 1 ngày, cùng các loại vitamin B như axit folic. Nước dừa được
dùng làm dịch truyền trong nhiều cuộc chiến tranh.
Dừa được xem là món ăn trường xuân của người Philippines. Họ chế biến thứ đồ uống
gọi là Nata dừa, gồm có nước dừa, đường, giấm, và “nước cái” (chứa vi khuẩn giúp lên
men). Cựu tổng thống Philippin Fidel Romos cho rằng, nhờ ăn hằng ngày món này, ông
thấy mình trẻ lại như ở tuổi 20. Nata dừa đã trở thành món tráng miệng cao cấp ở Nhật và

được xem là có tác dụng ngừa ung thư.
Lưu ý: Nước dừa lấy ra khỏi quả sẽ bị mất khí vị, cho nên cứ để nguyên quả mà uống.
Tốt nhất là nên uống ngay tại gốc vừa chặt, tránh thả dừa xuống đất.
Mới đi nắng về, đang đói mệt không nên uống nước dừa, nhất là người đang có bệnh vì
dễ bị những tác dụng phụ như sốt, ớn lạnh… Trước khi thi đấu thể thao, không nên uống
nước dừa. Bình thường, mỗi ngày chỉ nên uống một quả. Uống nhiều sẽ gây đầy bụng,
nhất là khi có kèm cơm dừa nạo, đá lạnh và uống vào chiều tối.
Một số cách dùng nước dừa bảo vệ sức khỏe
Kiết lỵ cấp tính: Rau má 50 g, nước dừa tươi một quả. Rửa sạch rau má, giã nhỏ, vắt lấy
nước, pha với nước dừa uống. Mỗi ngày một quả.
Nôn mửa: Nước dừa 2 chén, rượu nho 1 chén, nước gừng 10 giọt, trộn đều uống.
Lợi tiểu giải độc: Nước dừa non có tác dụng lợi tiểu trong các bệnh tim mạch, thận.
Viêm thận phù nề: Nước dừa, nước rễ cỏ tranh, nước rễ cỏ lau. Mỗi thứ 30 g, trộn đều
uống.
Tẩy sán lá: Có tác dụng an toàn và hiệu lực hơn hạt cau. Không cần thuốc tẩy. Buổi sáng
chưa ăn lấy 1/2 quả dừa, uống nước và ăn cho hết cùi dừa. Sau 3 giờ, ăn uống bình
thường (thức ăn lỏng).
Canh dừa khử độc rượu, bôi trơn khớp: Những người thường xuyên uống bia rượu hay
cảm thấy đau nhức ở các khớp, hoạt động khó khăn hoặc khi hoạt động, các khớp có
tiếng kêu. Để chữa khỏi, nên uống canh dừa. Lấy một quả dừa cắt ngang phần trên làm
nắp: 20g đậu đen vo sạch cho vào trong quả dừa rồi đậy nắp lại, đặt lên 1 cái đĩa. Đặt cả
dừa và đĩa vào nồi, chưng trong 4 giờ. Sau đó, có thể cho ít muối tùy ý để uống canh dừa.
Mỗi tháng chỉ cần uống 1-2 lần thì chứng đau khớp sẽ hết, các khớp sẽ hoạt động mềm
mại trở lại.
Nước dừa non trị chứng cam (bụng ỏng, đít teo, suy dinh dưỡng ở trẻ): Nước dừa dùng
nấu xôi, luộc gà… làm tăng vị thơm ngon và bổ dưỡng, thích hợp cho người gầy yếu.
Người khỏe mạnh buổi sáng uống nước 1 quả dừa xiêm cũng rất tốt.
(Theo SK & ĐS)
THỨC ĂN BỔ DƯỠNG CHO TIM
1. Táo: Rất nhiều những nhà nghiên cứu đã chứng minh được rằng việc ăn táo hoặc uống

nước táo ép có tác động tới việc làm giảm tốc độ quá trình oxy hóa cơ thể do cholesterol
LDL gây ra đồng thời giảm thiểu việc hình thành “cặn” trong mạch máu.
Táo là một sự lựa chọn hoàn hảo mỗi khi “buồn mồm”. Vỏ táo cũng rất tốt với một thành
phần các chất chống oxy hóa và chất xơ cao.
2. Cá/Mỡ cá: Chất béo omega-3 có trong mỡ cá rất hữu dụng trong việc làm giảm
lượng triglycerit - một chất béo có hại, dễ gây xơ vữa mạch máu. Đảm bảo thực đơn
trong tuần ít nhất 2 bữa có món cá hồi. Ngoài ra còn có các loại cá khác như: cá ngừ, cá
mòi
3. Bưởi: Bưởi có chứa rất nhiều các chất chống oxy hóa và những chất xơ có thể hòa tan
được - đây là những chất có khả năng chống những bệnh về tim. Lời khuyên đưa ra: ăn
nửa quả bưởi sau bữa sáng 3 đến 4 buổi trong một tuần.
4. Các loại quả họ đậu: Đây là loại thực phẩm có chức năng kìm hãm lượng cholesterol
LDL trong cơ thể. Một bữa ăn nhẹ lót dạ vào buổi chiều bằng món hummus

(thành
phần gồm có thịt gà, đậu, dầu vừng, chanh và tỏi) cùng các loại rau sống.
Thực đơn trong mỗi ngày nên bổ sung khoảng ½ chén đậu đen, đậu đỏ hoặc đậu nành.
5. Các loại hạt: Các loại quả hạnh, hạt lanh, hạt bí, vừng, hạt hướng dương có rất
nhiều hợp chất sterol thực vật có thể loại trừ được cholesterol LDL. Quả óc chó còn có
khả năng giảm lượng triglycerit. Thay vì các đồ ăn vặt linh tinh khác, chúng ta hãy làm
quen với việc ăn các loại hạt này để có được sức khỏe tốt.
6. Cám yến mạch: Những chất xơ hòa tan có trong cám yến mạch sẽ kết hợp cùng với
những axít tại ruột non ngăn ngừa việc hút ngược lại của cholesterol. Bữa sáng nên bổ
sung vào ly sữa không béo một nửa thìa bột yến mạch.
7. Rượu vang đỏ: Những hợp chất có trong rượu vang đỏ có thể đẩy lượng cholesterol
HDL lên cao và đồng thời những chất chống oxy hóa có trong vang đỏ có thể bảo vệ
được động mạch vành khỏi những tổn thương từ các chất hữu cơ mang gốc tự do (nguồn
gốc của các căn bệnh như Parkinson, chứng hay quên ).
Một ngày uống chỉ từ một đến hai ly vang đỏ và không nên uống quá mức này.
8. Trà: Tất cả những loại trà giàu chất chống oxy hóa có thể làm giảm lượng cholesterol

LDL. Trà Ôlong có thể làm tăng kích thước của những phần tử cholesterol LDL và những
phần tử có kích cỡ càng lớn thì khả năng xâm nhập vào mạch máu càng bị giới hạn.
Mỗi ngày khoảng hai tách trà sẽ giúp bạn an tâm được phần nào về sức khỏe của mình.
(theo Đẹp)
CHÂN GIÒ NINH MĂNG
Măng không phải là món ăn vô bổ như nhiều người nghĩ mà có tác dụng tiêu thực giải
độc, hỗ trợ tiêu hóa. Chân giò thúc đẩy quá trình tạo máu. Món chân giò ninh măng, vốn
quen thuộc trong ngày Tết, nếu được ăn ở mức vừa phải sẽ có lợi cho sức khỏe.
Trước đây, mâm cỗ ngày Tết của nhiều gia đình không thể thiếu món chân giò ninh
măng. Tuy nhiên, món này ngày nay không được ưa chuộng như trước do xu hướng lược
bỏ những món ăn quá béo ngậy trên mâm cơm ngày thường cũng như mâm cỗ. Thực ra,
món ăn này có giá trị độc đáo về dinh dưỡng, phòng chống bệnh tật, bảo vệ và nâng cao
sức khỏe con người.
Nhiều người cho rằng măng là một thức ăn vô bổ, thậm chí nghĩ rằng ăn nhiều măng sẽ
“hại máu”. Nhưng kỳ thực, đây là loại thực phẩm rất có giá trị, nhất là hiện nay khi con
người có xu hướng ham đồ tinh chế mà bỏ quên các thực phẩm nhiều chất xơ.
Theo dinh dưỡng học cổ truyền, măng vị ngọt hơi đắng, tính hơi hàn, có công dụng hóa
đàm hạ khí, thanh nhiệt trừ phiền, tiêu thực giải độc. Nó thường được dùng để làm thức
ăn và làm thuốc cho những người bị cảm mạo phong nhiệt, ho do phế nhiệt có nhiều đờm
vàng, phù thũng do viêm thận, suy tim, sởi và thủy đậu ở trẻ em, ăn uống chậm tiêu, tiểu
tiện bất lợi, đại tiện không thông
Kết quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, măng khá giàu đạm với 16 loại acid amin, chứa
nhiều canxi, phốt pho, sắt, vitamin nhóm B, C, mangan và rất nhiều chất xơ. Măng có tác
dụng thúc đẩy nhu động ruột, trợ giúp tiêu hóa, phòng chống có hiệu quả tình trạng béo
phì, xơ vữa động mạnh, tăng huyết áp, táo bón, ung thư đại tràng và ung thư vú. Một số
nghiên cứu gần đây cho thấy, với hàm lượng mangan khá phong phú và một loại đường
đa có trong thành phần, măng có khả năng nhất định trong việc phòng ung chống ung
thư.
Còn về chân giò, có người nghĩ rằng, nó chẳng qua chỉ lắm bì nhiều xương, làm sao có
nhiều chất bổ mà phải bàn. Kỳ thực không phải như vậy. Nhiều công trình nghiên cứu

của Trung Quốc đã chứng minh rằng: Người già và người gầy yếu nếu thường xuyên ăn
móng giò sẽ cải thiện được chức năng tích nước của các tế bào mô, thúc đẩy quá trình tạo
hemoglobin và hồng cầu.
Các phụ gia và gia vị trong món chân giò ninh măng cũng tốt cho sức khỏe, như hành
khô, hành tươi, miến, mắm, muối, hạt tiêu, mì chính và đặc biệt là mộc nhĩ đen. Kết
quả nghiên cứu hiện đại cho thấy, mộc nhĩ đen có khả năng ức chế quá trình ngưng tập
tiểu cầu, phòng chống đông máu do nghẽn mạch, ngăn cản sự hình thành các mảng xơ
vữa trong lòng huyết quản. Bởi vậy, với những người bị tăng huyết áp, xơ vữa động
mạch, thiểu năng tuần hoàn não, thiểu năng động mạch vành , mộc nhĩ là một trong
những thực phẩm lý tưởng.
Mặt khác, chất keo thực vật vốn có khá nhiều trong mộc nhĩ có tác dụng làm sạch dạ dày
và ruột, chống lão hóa, kháng khuẩn, chống phóng xạ và ức chế một số chủng tế bào ung
thư. Bởi vậy, nhiều chuyên gia dinh dưỡng coi mộc nhĩ là một trong những thực phẩm có
công năng trường thọ.
Xã Luận
MÓN ĂN CHỮA BỆNH TỪ DẬU ĐỎ
Nước ta có nhiều loại đậu, song đậu đỏ cũng giữ được vị trí quan trọng trong làng đông
dược vì là vị thuốc chữa trị được nhiều bệnh và rất giàu dược tính, giàu dinh dưỡng.
Đậu đỏ có tên khoa học là Vigna angularis (Willd) Ohwi et Ohashi (Dolichos angularis
Willd), thuộc họ đậu (Fabaceae). Cây đậu đỏ dạng thân thảo, leo đứng thẳng, bên ngoài
thân có lông bao phủ, cao 30-80cm. Lá kép, có 3 lá chét, cuống dài từ 4-10cm, cuống lá
giữa bao giờ cũng dài hơn cuống lá hai bên. Cụm hoa chùm mọc ở nách lá hoặc đầu cành,
gồm từ 5-20 hoa màu vàng sáng. Quả đậu đỏ dài, hình hơi lưỡi liềm dài từ 7-20cm. Trong
quả có từ 8-15 hạt hình trụ tròn hơi dẹt, vỏ hạt đậu có màu đỏ nâu hoặc nâu tím, nhẵn
bóng, dài 0,5-1cm, rộng 0,3-0,6cm.
Người ta đã phân tích 100g hạt đậu đỏ khô thấy chứa chất đường 60,9g, protid 20,9g,
chất xơ 4,8g, tro 3,3g, chất béo và khoáng gồm calcium, phosphor, sắt, acid nicotinic,
vitamin B1, B2
Theo đông y cho rằng đậu đỏ vị ngọt, tính ấm có công hiệu thanh nhiệt, lợi tiểu, tiêu ứ,
dưỡng huyết, thanh hỏa độc, chữa viêm phù thận, xơ gan cổ trướng, da vàng Sau đây là

những món ăn chữa bệnh từ đậu đỏ, xin giới thiệu để bạn đọc có thể tự lựa chọn sử dụng
sao cho thích hợp.
Món ăn chữa viêm gan vàng da, phù, đái rắt: Hạt đậu đỏ 50g, vỏ quýt khô 6g, thảo quả
6g, ớt 6g, cá chép tươi 1kg (một con to). Cá chép đánh vảy, bỏ vây, bỏ ruột, rửa sạch cho
đậu đỏ, vỏ quýt, ớt vào bụng cá. Đặt cá vào bát to nêm gia vị hành, hồ tiêu, muối và 1 bát
nhỏ nước luộc gà rồi đưa vào nồi hấp chín (30 phút đầu cho lửa to, sau hạ lửa nhỏ để
chừng 1 giờ là được), ăn nóng cùng ớt, rau thơm. Món này rất công hiệu dùng để lợi
thủy, tiêu phù.
Món ăn cho người bệnh xơ gan cổ trướng: Đậu đỏ 500g, cá chép 500g (1 con). Cá chép
làm sạch, bỏ nội tạng, vo sạch đậu đỏ, cho nước nấu thành canh, đậu mềm là được. Ăn cá
uống nước canh. Mỗi ngày hay cách ngày ăn 1 lần cho đến khi bệnh khỏi. Công hiệu lợi
tiểu chống phù thũng.
Chữa phù thũng, tiểu tiện không thông: Đậu đỏ 20g, hạt bo bo 30g, gạo 30g, đường vừa
đủ. Cho đậu đỏ đã ngâm mềm vào nồi nấu sôi, hạ lửa chờ đậu mềm nhừ thì cho bo bo và
gạo nấu tiếp đến nhừ cho đường vừa ngọt thành chè đậu đỏ, ngày ăn 2 lần trong nhiều
ngày. Món này có công hiệu hồi phục chức năng hệ tiêu hóa, lợi tiểu.
Món ăn lợi sữa, thông tiểu: Đậu đỏ 250g, vo sạch cho vào nồi đất, đổ 500ml nước nấu
trong 20 phút, bỏ đậu uống nước. Cần uống liền 3-5 ngày sẽ thông sữa, tiêu phù.
Món ăn thanh nhiệt trừ thấp: Đậu đỏ 50g, củ mài (hoài sơn) 50g, đường vừa đủ. Vo sạch
đậu đỏ, gọt vỏ củ mài, cắt lát nhỏ. Nấu đậu đỏ sôi, sau cho củ mài nấu sôi, hạ lửa chờ
đậu và củ mài nhừ thì cho đường nấu thành chè. Mỗi sáng hay chiều ăn 1 lần, có công
hiệu kiện tỳ chỉ tả.
Chữa phù thũng khi mang thai: Đậu đỏ 100g, cá trích 250g, cho vào nồi đất, đổ nước
hầm nhừ uống nước. Cần dùng 5 ngày.
Chữa béo phì: Đậu đỏ 50g, gạo tẻ 50g. Ngâm đậu đỏ 2-3 giờ bằng nước ấm, sau vớt cho
vào nồi đổ nước nấu nhừ đậu đỏ, cho gạo nấu thành cháo, ăn cháo còn ấm vào lúc sáng
và chiều.
Chữa sỏi tiết niệu: Đậu đỏ 50g, gạo tẻ 50g, màng trong mề gà (kê nội kim) 20g phơi khô
tán bột, đường trắng vừa đủ. Lấy đậu đỏ cùng gạo nấu thành chè, trộn màng trong mề gà
đã tán bột vào, cho đường khuấy đều, ngày ăn 2 lần. Một liệu trình là 30 ngày.

Chữa viêm thận cấp tính: Đậu đỏ 50g, cá chép 1 con, bí đao 1.000g, hành 5 cọng. Cá bỏ
vảy và nội tạng, rửa sạch. Đổ 5 bát nước và cho tất cả các thức nấu kỹ còn lại 3 bát nước
thì uống nước canh, ăn cá, rồi đắp chăn cho vã mồ hôi. Ngày ăn 1 lần, trong 7 ngày.
Chữa đau lưng: Đậu đỏ 50g, vỏ dưa hấu 50g, rễ cỏ tranh 50g. Tất cả sắc uống chia 2 lần
trong ngày, cần sử dụng vài ngày.
Chữa trĩ ra máu: Đậu đỏ 250g, giấm ăn 1 lít, rượu đế vừa đủ. Cho đậu đỏ và giấm vào nồi
nồi nấu sôi lại vớt ra phơi khô. Cứ làm đi làm lại như vậy đến khi giấm hết. Đậu đã phơi
khô đem tán mịn cất dùng dần. Ngày uống 3 lần, mỗi lần 3g, chiêu với rượu.
Chữa bế kinh, đau bụng kinh: Đậu đỏ 30g, gạo tẻ 30g, đường mạch nha vừa đủ dùng.
Đậu đỏ cùng gạo nấu nhừ cho đường mạch nha vào vừa ngọt, ăn hết trong ngày.
Chữa đái ra máu: Đậu đỏ 30g, qua lâu 25g. Trái qua lâu đốt thành than, sau cho cùng đậu
đỏ tán mịn, mỗi lần uống 2g với rượu trong 7 ngày liền.
Chữa thiếu máu: Đậu đỏ 250g, sắc uống thường xuyên.
Chữa viêm tuyến mang tai (quai bị): Đậu đỏ, giấm, trứng gà vừa đủ. Đậu đỏ tán mịn,
dùng lòng trắng trứng hay giấm trộn thành hồ để phết lên nơi sưng đau.
BS. Hoàng Xuân Đại (Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
MÓN ĂN GIẢI CẢM
Bạn đừng chê món cháo hành là quê mùa vì nó cực kỳ hữu dụng khi bạn bị cảm
lạnh. Lấy hành tăm cả rễ 20 g, gừng tươi 10 g, gạo nếp 50 g, nấu cháo ăn rồi trùm
chăn nằm, khi mồ hôi ra đều thì bỏ chăn ra, lau khô thân mình, hết sức tránh gió.
Dân gian có nhiều món ăn giải cảm, sử dụng cho từng thể bệnh khác nhau:
Thể phong hàn
Bệnh nhân sốt nhẹ, rất sợ lạnh, không có mồ hôi, đau đầu, đau mình mẩy, đau nhức các cơ
khớp, tắc mũi nặng, chảy nước mũi trong, ngứa họng, ho, khạc đờm trắng loãng, không khát
nước hoặc khát nhưng thích uống nước ấm.
Gừng tươi 10 g, đường đỏ 15 g. Gừng rửa sạch, thái chỉ rồi đem hãm với nước sôi trong bình
kín, sau chừng 10 phút thì dùng được, chế thêm đường đỏ, uống nóng, sau đó trùm chăn cho ra
mồ hôi.
Rau mùi 15 g, hành tươi 15 nhánh, gừng tươi 9 g. Ba thứ rửa sạch, thái nhỏ sắc trong 10 phút,
bỏ bã, uống nóng rồi đắp chăn cho ra mồ hôi.

Gừng tươi 25 g, cà rốt 50 g. Gừng tươi thái chỉ, cà rốt cắt miếng, hai thứ đem sắc trong 15 phút,
lấy nước, chế thêm đường đỏ, uống nóng.
Thể phong nhiệt
Bệnh nhân sốt cao, hơi sợ gió và lạnh, có mồ hôi, đau đầu, đau mình mẩy, ho khạc đờm dính
hoặc vàng, họng đau, mũi tắc, chảy nước mũi vàng hôi, miệng khát muốn uống.
Bạc hà tươi 30 g (nếu khô dùng 10 g), gạo tẻ 60 g, đường phèn vừa đủ. Đem bạc hà sắc trong 5
phút, bỏ bã lấy nước; cho gạo vào nồi ninh thành cháo, khi chín đổ nước sắc bạc hà vào đun một
lát là được, chế thêm đường phèn, chia ăn 2 lần trong ngày, ăn nóng.
Dưa hấu và cà chua lượng vừa đủ. Dưa hấu gọt bỏ vỏ, thái nhỏ, ép lấy nước; cà chua luộc qua,
bóc bỏ vỏ, nghiền nát rồi đổ nước dưa hấu vào, quấy đều rồi chia uống vài lần.
Rau cải bẹ 3 cây, hành củ cả rễ 2 củ, lô căn 10 g. Ba thứ rửa sạch, sắc trong 20 phút, lấy nước
uống. Công dụng: tân tán giải biểu, thanh nhiệt trừ thấp.
(Theo Sức Khỏe & Đời Sống)
NĂM MÓN CANH BỔ DƯỠNG TỪ CÁ RÔ
Cá rô quen thuộc với người dân ở quê cũng như thành thị. Cá chế biến khá phong
phú, như cá rô nướng ăn với đọt non cây nhãn lồng (lạc tiên); canh cá rô rau nhút,
khổ qua, cá rô kho tộ với thịt ba rọi
Ngoài ra, còn có món cá rô thuôn hành răm (cá rô nấu với hành củ và rau răm), canh cá rô nấu
miến (cá rô nấu với miến, nấm hương, hành củ, rau răm) là những món ngon lại bổ dưỡng khí
huyết, lợi ích cho tỳ vị.
Những ngày cuối năm, trời se lạnh, ăn canh cá rô nấu với cải và gừng thật ấm và thú vị. Bên
cạnh, có tác dụng bổ khí huyết, ích tỳ vị, tiêu thực, làm ra mồ hôi, giải độc. Rất tốt cho người khí
huyết suy, cơ thể gầy yếu, ăn uống không tiêu, cảm lạnh, nôn mửa, ho đàm. Tuy nhiên, những
người đang bị sốt, ra nhiều mồ hôi thì không nên dùng.
Cá rô 0,5kg làm sạch, ướp với ít muối, đem luộc chín rồi gỡ lấy thịt ướp với nước mắm ngon.
Rau cải 1kg, cắt bỏ rễ, lá úa, rửa sạch, cắt khúc ngắn. Gừng 20g gọt vỏ, rửa sạch, đập dập, băm
nhỏ. Đun sôi nước (luộc cá), nêm nước mắm, muối vừa ăn. Cho rau cải vào, đun sôi lại, trút cá
vào, thêm gừng và nêm nếm vừa ăn. Múc ra tô, ăn nóng với cơm.
Người Nam bộ có món canh cá rô rau nhút, mùi thơm ngon đặc trưng mà lại có tác dụng bổ
dưỡng khí huyết, mạnh gân cốt, ích tỳ vị, nhuận trường, an thần, giải nhiệt. Tốt cho người suy

nhược cơ thể, ăn uống kém, mất ngủ, suy nhược thần kinh, gân cốt yếu mỏi.
Cách làm như sau: cá rô 300g chọn con béo, to, làm sạch. Đem luộc chín cá, vớt ra gỡ lấy thịt,
ướp với nước mắm, muối, tiêu. Phần xương cá có thể đem giã nhỏ, lọc lấy nước nấu chung với
nước luộc cá. Rau nhút 300g bỏ rễ và lớp phao trắng bên ngoài, rửa sạch, cắt khúc 3 – 4cm.
Nước luộc cá sôi, cho thịt cá vào, đến khi sôi lại thì cho rau nhút vào. Canh sôi lại thì nêm thêm
nước mắm, muối, cho vừa ăn; thêm ít tiêu và hành lá xắt nhỏ.
Canh khổ qua bào nấu với cá rô nguyên con thì lại là một tuyệt chiêu vừa bổ dưỡng lại mát. Đợi
nước sôi già, cho cá rô vào, tiếp tục cho khổ qua bào vào, nêm nếm vừa ăn, múc ra tô thêm
hành tiêu. Nấu canh cách này cái đắng của khổ qua trở vị ngọt thanh, càng ăn càng thấm.
MÓN ĂN - BÀI THUỐC
Chứng trạng
Sản phụ thiếu sữa hoặc hoàn toàn không có sữa, nếu có thì sữa trong và nhạt, bầu vú nhỏ
và mềm nhẽo, không có cảm giác căng tức, cơ thể mệt mỏi, sắc mặt nhợt nhạt, ăn kém,
chậm tiêu, hay có cảm giác khó thở, tiểu tiện trong dài, đại tiện nát hoặc lỏng, miệng
nhạt, chất lưỡi nhợt
Món ăn - bài thuốc
Bài 1: Móng giò lợn 2 cái, lạc 200g, gừng tươi và gia vị vừa đủ. Móng giò làm sạch, chặt
miếng, rồi đem hầm với lạc cho thật nhừ, chế thêm gia vị, ăn trong ngày.
Bài 2: Cá diếc 1 con (nặng chừng 100-150g), làm sạch, rán qua rồi hầm nhừ ăn hàng
ngày, 7 ngày là một liệu trình. Hoặc đem hầm cùng với móng giò lợn 2 cái cho thật nhừ,
chế thêm gia vị, chia ăn 2 lần trong ngày.
Bài 3: Móng giò lợn 2 cái, lạc 200g, hoàng kỳ 100g, gia vị vừa đủ. Móng giò làm sạch,
chặt miếng; hoàng kỳ gói vào túi vải; hai thứ đem hầm với lạc cho thật nhừ rồi bỏ bã
hoàng kỳ, chế đủ gia vị, chia ăn 2 lần trong ngày.
Bài 4: Nhau thai 1 cái, thịt lợn 250g, gừng tươi 9g, gia vị vừa đủ. Nhau thai rửa sạch, thái
miếng; thịt lợn thái chỉ ướp gừng. Hai thứ cho vào nồi hầm lửa nhỏ cho thật nhừ rồi chế
đủ gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Bài 5: Chân giò lợn 1 cái, làm sạch, chặt miếng rồi đem hầm nhừ với xuyên sơn giáp 15g
và thiên hoa phấn 15g, chế thêm gia vị, chia ăn vài lần trong ngày.
Với thể can uất khí trệ

×