Tải bản đầy đủ (.pdf) (4 trang)

Công nghệ nano và những ứng dụng tiềm tàng trong xây dựng doc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (221.14 KB, 4 trang )

Công nghệ nano và những
ứng dụng tiềm tàng trong
xây dựng
Ngày nay, có thể ta tình cờ nghe một vài vấn đề nào đó hoặc một sản phẩm nào đó
có liên quan đến hai chữ “nano”. Ở khoảng nửa thế kỷ trước, đây thực sự là một
vấn đề mang nhiều sự hoài nghi về tính khả thi, nhưng trong thời đại ngày nay ta
có thể thấy được công nghệ nano trở thành một vấn đề hết sức thời sự và được sự
quan tâm nhiều hơn của các nhà khoa học. Các nước trên thế giới hiện nay đang
bước vào một cuộc chạy đua mới về phát triển và ứng dụng công nghệ nano.
I. Một vài khái niệm về công nghệ nano.
Chữ nano, gốc Hy Lạp, được gắn vào trước các đơn vị đo để tạo ra đơn vị ước
giảm đi 1 tỷ lần(10
-9
). Ví dụ : nanogam = 1 phần tỷ của gam ; nanomet = 1 phần tỷ
mét. Công nghệ nano là công nghệ xử lý vật chất ở mức nanomet. Công nghệ nano
tìm cách lấy phân tử đơn nguyên tử nhỏ để lắp ráp ra những vật to kích cỡ bình
thường để sử dụng, đây là cách làm từ nhỏ đến to khác với cách làm thông thường
từ trên xuống dưới, từ to đến nhỏ.
Ý tưởng cơ bản về công nghệ nano được đưa ra bởi nhà vật lý học người Mỹ
Richard Feynman vào năm 1959, ông cho rằng khoa học đã đi vào chiều sâu của
cấu trúc vật chất đến từng phân tử, nguyên tử vào sâu hơn nữa. Nhưng thuật ngữ
“công nghệ nano” mới bắt đầu được sử dụng vào năm 1974 do Nario Taniguchi
Công nghệ nano và những
ứng dụng tiềm tàng trong
xây dựng
Ngày nay, có thể ta tình cờ nghe một vài vấn đề nào đó hoặc một sản phẩm nào đó
có liên quan đến hai chữ “nano”. Ở khoảng nửa thế kỷ trước, đây thực sự là một
vấn đề mang nhiều sự hoài nghi về tính khả thi, nhưng trong thời đại ngày nay ta
có thể thấy được công nghệ nano trở thành một vấn đề hết sức thời sự và được sự
quan tâm nhiều hơn của các nhà khoa học. Các nước trên thế giới hiện nay đang
bước vào một cuộc chạy đua mới về phát triển và ứng dụng công nghệ nano.


I. Một vài khái niệm về công nghệ nano.
Chữ nano, gốc Hy Lạp, được gắn vào trước các đơn vị đo để tạo ra đơn vị ước
giảm đi 1 tỷ lần(10
-9
). Ví dụ : nanogam = 1 phần tỷ của gam ; nanomet = 1 phần tỷ
mét. Công nghệ nano là công nghệ xử lý vật chất ở mức nanomet. Công nghệ nano
tìm cách lấy phân tử đơn nguyên tử nhỏ để lắp ráp ra những vật to kích cỡ bình
thường để sử dụng, đây là cách làm từ nhỏ đến to khác với cách làm thông thường
từ trên xuống dưới, từ to đến nhỏ.
Ý tưởng cơ bản về công nghệ nano được đưa ra bởi nhà vật lý học người Mỹ
Richard Feynman vào năm 1959, ông cho rằng khoa học đã đi vào chiều sâu của
cấu trúc vật chất đến từng phân tử, nguyên tử vào sâu hơn nữa. Nhưng thuật ngữ
“công nghệ nano” mới bắt đầu được sử dụng vào năm 1974 do Nario Taniguchi
một nhà nghiên cứu tại trường đại học Tokyo sử dụng để đề cập khả năng chế tạo
cấu trúc vi hình của mạch vi điện tử.
Vật liệu ở thang đo nano, bao gồm các lá nano, sợi và ống nano, hạt nano được
điều chế bằng nhiều cách khác nhau. Ở cấp độ nano, vật liệu sẽ có những tính
năng đặc biệt mà vật liệu truyền thống không có được đó là do sự thu nhỏ kích
thước và việc tăng diện tích mặt ngoài của loại vật liệu này.
Để hiểu rõ về công nghệ nano, ta phải tìm hiểu khái niệm về vật liệu nano

Vật liệu Nano
Vật liệu Nano có thể được định nghĩa một cách khái quát là loại vật liệu mà trong
cấu trúc của các thành phần cấu tạo nên nó ít nhất phải có một chiều ở kích thước
nanomet.
một nhà nghiên cứu tại trường đại học Tokyo sử dụng để đề cập khả năng chế tạo
cấu trúc vi hình của mạch vi điện tử.
Vật liệu ở thang đo nano, bao gồm các lá nano, sợi và ống nano, hạt nano được
điều chế bằng nhiều cách khác nhau. Ở cấp độ nano, vật liệu sẽ có những tính
năng đặc biệt mà vật liệu truyền thống không có được đó là do sự thu nhỏ kích

thước và việc tăng diện tích mặt ngoài của loại vật liệu này.
Để hiểu rõ về công nghệ nano, ta phải tìm hiểu khái niệm về vật liệu nano

Vật liệu Nano
Vật liệu Nano có thể được định nghĩa một cách khái quát là loại vật liệu mà trong
cấu trúc của các thành phần cấu tạo nên nó ít nhất phải có một chiều ở kích thước
nanomet.



Công nghệ nano :
Công nghệ nano bao gồm việc thiết kế, chế tạo và ứng dụng các cấu trúc, thiết bị
hay hệ thống ở kích thước nanomet (1nm = 10
-9
m).
Vật liệu nanocomposite là loại vật liệu nano có ứng dụng rộng rãi cả trong kỹ
thuật và dân dụng. Nanocomposite bao gồm cả ba loại nền kim lọai, nền gốm và
nền polymer. Ở đây, ta chỉ đề cập chủ yếu đến nanocomposite trên cơ sở chất nền
là polymer.
Vật liệu nanocomposite polymer : là loại vật liệu composite-polymer với hàm
lượng chất gia cường thấp ( 1-7%) và chất gia cường này phải ở kích thước
nanomet.



Công nghệ nano :
Công nghệ nano bao gồm việc thiết kế, chế tạo và ứng dụng các cấu trúc, thiết bị
hay hệ thống ở kích thước nanomet (1nm = 10
-9
m).

Vật liệu nanocomposite là loại vật liệu nano có ứng dụng rộng rãi cả trong kỹ
thuật và dân dụng. Nanocomposite bao gồm cả ba loại nền kim lọai, nền gốm và
nền polymer. Ở đây, ta chỉ đề cập chủ yếu đến nanocomposite trên cơ sở chất nền
là polymer.
Vật liệu nanocomposite polymer : là loại vật liệu composite-polymer với hàm
lượng chất gia cường thấp ( 1-7%) và chất gia cường này phải ở kích thước
nanomet.

Pha gia cường ở kích thước nanomet được sử dụng trong lĩnh vực nanocomposite
thường là hạt nano và ống carbon (carbon nanotube). Các phương pháp được sử
dụng phổ biến hiện nay để chế tạo vật liệu nanocomposite polymer là phương
pháp insitu, nóng chảy, nhũ tương và phương pháp dung dịch.




Pha gia cường ở kích thước nanomet được sử dụng trong lĩnh vực nanocomposite
thường là hạt nano và ống carbon (carbon nanotube). Các phương pháp được sử
dụng phổ biến hiện nay để chế tạo vật liệu nanocomposite polymer là phương
pháp insitu, nóng chảy, nhũ tương và phương pháp dung dịch.



×