Tải bản đầy đủ (.pdf) (8 trang)

Đạo đức sinh học pot

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (138.08 KB, 8 trang )

Đạo đức sinh học


một định nghĩa thì "đạo đức sinh học" (bioethics) là sự nghiên cứu
các lựa chọn đạo đức bắt nguồn từ sự dính dáng của con người
đến sự sống. Nó bao hàm sự đánh giá lợi ích và rủi ro có liên
quan với sự can thiệp con người, đặc biệt là các công nghệ mới,
xem xét sự cân đối giữa quyền tự quản của cá nhân và nhiệm vụ
pháp lý. Đạo đức sinh học đòi hỏi phải giá công nghệ một cách kỹ
lưỡng, trong đó có đánh giá các tác động xã hội và cá nhân.
Theo một quan niệm khác thì đạo đức sinh học nảy sinh từ một
băn khoăn cơ bản có liên quan đến ảnh hưởng của sự phát triển
của sinh học phân tử đối với tương lai của con người. Thuật ngữ
này có lẽ bắt nguồn ở Mỹ vào những năm 70, khi các kỹ thuật xử
lý gen được vận dụng, cái mà ta gọi là kỹ thuật di truyền. Từ đó
người ta đã đưa ra thuật ngữ "đạo đức di truyền học” (genethics)
để chỉ đạo đức học mới cần phải có để giải quyết những mâu
thuẫn khả dĩ giữa di truyền học hiện đại và các giá trị của con
người.
Cùng với thời gian, vấn đề này ngày càng trở nên sâu sắc. Trước
những xáo trộn do những tiến bộ của di truyền học, người ta tự
hỏi mình đang tiến tới loại xã hội nào và sự cân bằng mới nào sẽ
được thiết lập trên hành tinh.
Đạo đức sinh học không giới hạn ở sự suy nghĩ về mối quan hệ
giữa khoa học và xã hội. Nó gắn liền với quan hệ giữa con người
và tự nhiên trong tính đa dạng sinh học của nó, kể cả bản chất
của chính con người. Điều đó có lẽ giải thích sự tiến bộ không
ngừng của phong trào đạo đức trên thế giới. Số ủy ban và các
trung tâm nghiên cứu đạo đức ngày càng nhiều. Dù đạo đức sinh
học về cơ bản là đa ngành, nó vẫn được dạy như một môn riêng
trong các trường đại học, phổ thông và cơ sở dạy nghề ở nhiều


nước.
Các chương trình lập bản đồ gen của người, được phát động ở
Mỹ, Châu Âu và Nhật, đều kết hợp với tài trợ riêng phục vụ các
nghiên cứu về chính sách nghiên cứu và sức khỏe, kể cả các
chiến lược công nghiệp. Hiện nay nó hướng vào những người ra
quyết định, công cũng như tư.
Đạo đức sinh học là một cách suy nghĩ về tương lai và giá trị của
chúng ta, đồng thời cũng là một ngôn ngữ. Nó giúp cho giới
chuyên môn đối thoại với những người ra quyết định và quần
chúng, cùng quan tâm đến những vấn đề của nhân loại, do tri
thức khoa học, sự hài hòa trong quan hệ giữa cá nhân và xã hội
và sau hết là sự tồn tại của loài người đặt ra. Cần nhận ra rằng
đạo đức sinh học đã tự khẳng định trong một bối cảnh làm lại
quan niệm toàn diện về một sự tiến bộ mà tự nó có thể là nguồn
phúc lợi. Về mặt này, nó phản ảnh những nỗi lo âu của thời đại
chúng ta. Để minh hoạ cho vấn đề này, bài này sẽ đề cập đến
đạo đức của nhân bản động vật trong đó có người - là vấn đề mới
nổi lên trong thời gian rất gần đây.
Đạo đức của nhân bản sinh sản
Trước hết ta cần phân biệt hai khái niệm: nhân bản sinh sản
(reproduetive cloning) và nhân bản điều trị (therapeutic cloning).
Nhân bản sinh sản là tạo ra bản sao của sinh vật. Thủ thuật dựa
vào chuyển nhân tế bào, lấy ra từ phôi hoặc cơ thể trưởng thành,
rồi đưa vào một noãn bào nhận đã tách nhân, sau đó cấy phôi
được thụ tinh như vậy vào tử cung vật cái nhận. Còn nhân bản
điều trị, còn được gọi là nhân bản nghiên cứu, cũng giống như
cách làm nói trên, nghĩa là dựa trên việc chuyển nhân vào một
noãn bào, nhưng lần này là nhân của một tế bào thể hình "trưởng
thành", do vật cho cung cấp. Nhưng phôi sẽ bị hủy ở giai đoạn
phôi bào để lấy ra các tế bào gốc phôi (tế bào ES) chứ không cấy

vào tử cung. Kỹ thuật này được một số nhà nghiên cứu coi như
thành công nhất xét về mặt y học, vì nó cho phép khả năng tự
tương hợp miễn dịch của các mô được sinh ra với các mô của vật
cho nhân, đảm bảo kết quả cấy chuyển các mô này. Dưới đây sẽ
chỉ bàn đến nhân bản sinh sản.
Kể từ tháng 02/1997, khi người ta thông báo việc tạo ra động vật
có vú đầu tiên dược nhân bản bằng cách chuyển nhân là con cừu
Dolly nổi tiếng, cộng đồng khoa học đã cố lặp lại ở các loài khác,
đôi khi cũng thành công (chuột, lợn, dê và bò sữa). Không có gì lạ
là vấn đề ứng dụng loại nhân bản sinh sản này cho người đã khơi
ra nhiều cuộc tranh cãi.
Khả năng nhân bản người là một trong những đề tài cơ bản của
khoa học viễn tưởng, và cách đây ít lâu, là nguồn của nhiều mối
lo ngại trong quần chúng rộng rãi cũng như trong cộng đồng khoa
học. Những nỗi lo sợ này, thường được trình bày một cách mập
mờ và lan man, thể hiện mối quan tâm sâu sắc đối với các hậu
quả mà nhân bản sinh sản có thể có ở loài người.
Nhân bản, còn được gọi là nhân dòng vô tính, là phương pháp tạo
ra sinh vật bằng chất liệu di truyền của chỉ một vật bà con, có thể
coi như “tổ tiên trực tiếp". Do vậy, sinh vật ra đời từ đó là một bản
sao di truyền của tổ tiên này. Việc thảo luận về đạo đức của nhân
bản sinh sản người bao hàm sự phân biệt nó với tất cả các
phương pháp có thể làm biến đổi tế bào sinh sản của người, vì
bản sao ở đây hầu như y hệt về mặt di truyền vôi tổ tiên trực tiếp
của nó. Nhưng đồng thời cũng cần tránh sai lầm cho rằng nhân
bản tạo ra tính đồng nhất về nhân cách và bề ngoài thể xác của
các bản sao. Ví dụ trong cuốn sách "The boys from Brazil" và
cuốn phim cùng tên (1978), Ira Levin đã mô tả việc nhân
bản Hitler chỉ tạo ra các Hitier khác. Suy nghĩ này không đúng, vì
bản sao của nhà độc tài đương nhiên có cùng chất liệu di truyền

củaHitler xuất phát, nhưng chất liệu di truyền không phải là các
quyết định nhân cách, tín ngưỡng hoặc tư duy của con người. Nói
cách khác, tính đồng nhất di truyền không tương đương với tính
đồng nhất sinh học. Chẳng hạn, sự phát triển của bộ não không
chỉ là công việc "đóng góp" di truyền. Nếu các gen quyết định các
thành phần cấu trúc thể xác chúng ta, thì những tính trạng đơn
giản như màu mắt hoặc màu da có thể vẫn bị thay đổi do tác
động của môi trường. Sau khi sinh ra, não phát sinh để phản ứng
với những kích thích của môi trường. Vì vậy hai người sinh đôi
cùng trứng sẽ phát triển các sở thích, bản sắc và niềm tin riêng,
mặc dù họ có cùng kiểu trên. Nhà triết học Phillip Kitcher (Đại
học Columbia, Newyork) đã nhận xét rằng "cần nhắc lại các thống
kê về hướng giới tính: 50% đàn ông sinh đôi cùng trứng đồng tính
luyến ái có một anh em sinh đôi không mắc chứng này. Rõ ràng
là những khác biệt nhỏ giữa các môi trường của họ có thể có một
vai trò quan trọng. Nhà sinh học Richard Lewontin cũng lưu ý
rằng ngay cả các vân tay của những người sinh đôi cùng trứng
cũng không phải là hoàn toàn giống hệt nhau. Ông nêu trường
hợp những trẻ sinh năm nổi tiếng ở Dionne trong thập kỷ 60 của
thế kỷ trước thuộc một trong những nhóm người sinh năm hiếm,
giống hệt nhau về mặt di truyền. Họ được nuôi dạy xa cha mẹ, ăn
mặc và làm đầu sao cho giống nhau về mọi điểm để thu hút
khách du lịch, nhưng họ lại có sự nghiệp và cuộc đời rất khác
nhau.
Khi đã tránh các quan niệm sai, ta hãy trở lại điểm quan trọng của
vấn đề: những vấn đề đạo đức chính do nhân bản sinh sản người
đặt ra là gì? Loại đầu thuộc về cách nhìn nhận lợi ích và nguy cơ:
người ta có thể đánh giá tính vững vàng đạo đức của nhân bản
bằng cách cân nhắc lợi ích và rủi ro khả dĩ được tạo ra, sau đó
xem xét giá trị mà người ta gắn vào từng lợi ích và từng rủi ro.

Muốn hiểu khái niệm này, có thể lấy một ví dụ: ta đang đứng
trước tình hình lựa chọn, chẳng hạn cứu một người sắp chết đuối
hoặc đuổi theo một người bạn để uống cà phê. Thường giá trị mà
dành cho cuộc sống con người thiên về những thiệt hại do cái
chết của con người gây ra hơn là lợi ích "ít giá trị hơn” mà bạn bè
gặp nhau có mang lại.
Vậy khi ta xem xét nhân bản sinh sản thì những thiệt hại khả dĩ là
gì? Trước hết, nhân bản động vật có vú không phải là một
phương pháp oàn hảo. Trước khi cừu Dolly sinh ra đã có ít nhất 7
thử nghiệm thất bại dẫn đến sảy thai tự nhiên, sinh ra chết hoặc
khuyết tật khi ra đời. Người ta không biết sẽ cần đến bao nhiêu
thử nghiệm trước khi sinh ra được một "dòng” bản sao người
khoẻ mạnh, cũng như các dạng "thất bại” có thể có: có thể là vô
số đứa trẻ bị tật nguyền hoặc ốm yếu mà xã hội phải gánh chịu.
Hơn nữa chúng ta không thể đoán trước hậu quả lâu dài của
nhân bản. Chúng ta không thể đoán trước các tổn thương sinh lý,
thể chất, tinh thần… có thể kèm theo các hậu quả khác của nhân
bản động vật có vú. Ví dụ ADN nhiễm sắc thể của chúng ta ngắn
lại theo tuổi già. Như vậy phôi của các bản sao chứa ADN "già",
trong khi đó, ta chưa có ý nghĩ nào về ảnh hưởng của ADN "già
sớm" đến sinh trưởng và sức khỏe của một đứa trẻ.
Những thiệt hại khác của nhân bản có tính xã hội đã được những
người chống lại nhân bản sinh sản dự đoán. Khi phương pháp
thụ tinh "trong ống nghiệm" đầu tiên thành công ở người, nhiều
người lo rằng các "em bé ống nghiệm" dễ bị phân biệt đối xử so
với các trẻ em khác và chịu những di hại cảm xúc và xã hội. Cùng
với thời gian, nỗi lo ngại này đã giảm đi, nhưng người ta không
thể đảm bảo rằng việc nhân bản sẽ không theo cùng sơ đồ. Liệu
các bản sao có bị phân biệt đối xử không? Liệu những kẻ ác tâm
có biến chúng thành "nô lệ" hoặc "ngân hàng" cơ quan không?

Khái quát hơn, liệu các bản sao có dễ bị coi là đồ vật chứ không
phải là người không? Kinh nghiệm lịch sử cho thấy rằng con
người không phải lúc nào cũng ứng xử đạo đức trước một ai đó
tỏ ra khác hẳn họ.
Ngoài ra các nhà xã hội hc còn giải thích rằng nhân bản sinh sản
dễ phá hoại cơ cấu gia đình truyền thống và gây ra ở cha mẹ
cách ứng xử có hại cho các bản sao. Trên thực tế, đôi khi cha mẹ
cố sống vì con cái: Liệu cố gắng này có nhiều hơn nếu con của
họ là những bản sao di truyền? Các mối quan hệ gia đình có còn
dược coi như nhau nếu người ta ở trong tình trạng có thể tránh
có con trong một cơ cấu gia đình truyền thống? Theo Leon Kass,
giáo sư và thành viên ủy ban Tư duy Xã hội (Committee for Social
Thought) ở Đại học Chicago thì "Với nhân bản, mọi quan hệ sẽ bị
lẫn lộn: các ngôn từ cha, ông, dì, anh/em họ, chị/em sẽ có ý nghĩa
gì?" Sự đảo lộn khả dĩ này của cơ cấu gia đình đặc biệt rối loạn
nếu ta tưởng tượng một số phụ nữ có thể áp dụng kỹ thuật này
và tự nhân bản nhằm "tránh" nam giới.
Mặc dù quan điểm này được rút ra từ khoa học viễn tưởng, nó
vẫn được nhiều nhà khoa học nghiên cứu sự thụ thai nữ hoá triệt
để về nhân bản xem xét nghiêm túc. Người ta cũng có thể lo ngại
những tổn thất khả dĩ mà các cơ cấu gia đình mới gây ra ở sự
phát triển tâm lý cá tính ở những đứa trẻ giống hệt cha mẹ về mặt
di truyền.
Luận cứ chính bênh vực cho nhân bản sinh sản thuộc về
Sevenno Antinori và Panos Zavos, là hai chuyên gia về tính vô
sinh. Họ cho rằng nên dựa vào nhân bản để giúp cho cha mẹ vô
sinh có con nếu họ không thể đạt được bằng các kỹ thuật "thụ
tinh trong ống nghiệm" hoặc thụ tinh nhân tạo quen thuộc. Triệt
để hơn, nhân bản có thể là phúc lành cho những ai sống độc thân
và cho những người đồng tính luyến ái mong muốn có một đứa

con sinh học. Những người tán thành những ứng dụng khả dĩ này
không quên nhắc nhở rằng nhân bản sinh sản ít có cơ hội mở
rộng, vì phần lớn con người không dễ từ bỏ phương pháp thụ thai
truyền thống để có con. Vì vậy, theo họ, hiện tượng giảm tính đa
dạng di truyền khả dĩ của quần thể người qua nhân bản hàng loạt
không phải là mối đe doạ.
Loại đạo đức thứ hai do nhân bản sinh sản đặt ra có liên quan với
điều mà các nhà "đạo đức học" gọi là cân nhắc "nghĩa vụ”, nghĩa
là các giá trị không trực tiếp gắn với các thiệt hại và lợi ích của
một hành động.
Nhận định đầu tiên quan tâm đến bản sắc cá nhân. Người ta
thường rất coi trọng, nhất là trong các nền văn hóa phương Tây,
phẩm chất và năng khiếu độc nhất của mỗi cá nhân. Ngay cả
trong các nền văn hóa dành tầm quan trọng hơn cho tập thể, việc
xác định cá nhân vẫn phụ thuộc vào vị trí đặc biệt của người đó
trong hệ thống quan hệ của vũ đài xã hội. Vậy vấn đề đặt ra là
liệu một bản sao người có thể phát triển bản sắc riêng của nó hay
không. Người ta có thể cho rằng tổ tiên trực tiếp sẽ rất chú ý đầu
tư cho đứa con "giống hệt" mình và chịu sự kiểm soát của mình.
Vậy bản sao có thể tự khẳng định và được nhận ra là một cá
nhân độc nhất hay không? Hiện nay có những người hy vọng con
chó hoặc con mèo thân thuộc của họ có thể nhân bản được để
giữ nó "sống mãi". Nhưng đó sẽ là gì nếu là con cái hoặc cha mẹ
chết được nhân dòng để "thay thế" người đã khuất? Bản sao này
sẽ kế thừa tính đồng nhất nào?
Trên thực tế, những băn khoăn lo lắng này bắt nguồn từ ý nghĩ
sai lầm cho rằng tính đồng nhất di truyền tương đương với bản
sắc cá nhân. Vì đứa con (hoặc con vật thân thương) nhân bản sẽ
không khi nào là cùng nhân vật như tổ tiên trực tiếp của nó. Cho
nên thông báo cho những ai mong muốn nhân bản một người đã

khuất sẽ góp phần chấm dứt các hy vọng hão huyền này.
Một nhận định thứ hai, độc lập với lợi ích và thiệt hại của nhân
bản là muốn biết liệu nhân loại có quyền làm điều đó hay không?
Thường các cuộc tranh luận về đề tài nhân bản người đều bộc lộ
một sự khó chịu: sao người ta lại dám "đóng vai Chúa?" Sao lại
dám "lấn sang lĩnh vực của Đấng sáng tạo ý nghĩ "xây dựng" một
con người có thể xúc phạm chúng ta, vì nó tỏ ra "trái với tự
nhiên", vô nhân đạo hoặc kiêu căng vô độ.
Trên thực tế, phán xét này có thể xem như biểu hiện khó chịu
trước cái chưa biết. Chẳng hạn, hiện tượng đồng tính luyến ái từ
lâu đã được coi là tập tính trái tự nhiên, trong khi cắn móng tay
thường không được coi như vậy Lịch sử của Hoa Kỳ có một ví dụ
minh hoạ vui về nỗi sợ cái chưa biết này: Khi ôtô trở nên tiếp cận
được với quảng đại quần chúng, nhiều người đã bắt bẻ rằng
dùng những chiếc xe như thế là chống lại "ý Chúa". Họ nói, nếu
Chúa đã muốn chúng ta đi 50km/h, thì Người đã cho chúng ta
bốn chân ngựa. Sự phản đối thể hiện nỗi sợ hãi hơn là lo lắng,
nghĩa là dám chơi trên cùng mảnh đất của Chúa. Các nỗi lo về
nhân bản có thể thể hiện tương tự nỗi sợ cái chưa biết và không
quen. Chúng ta phải vượt ra ngoài các nỗi sợ hãi này để xem xét
những căn cứ đạo đức nào phù hợp nhằm chống lại hoặc bào
chữa cho nhân bản người.
Khả năng nhân bản sinh sản người đã làm tăng thêm một nỗi sợ
hãi khác, ví dụ những người có một số "phẩm chất ', như mắt
xanh và to, sẽ được nhân bản với số lượng lớn, còn những người
khác sẽ bị phân biệt đối xử. Đó có thể là mồi của một dự án ưu
sinh trong đó tính đa dạng của các kiểu trên của người sẽ bị nằm
trong các giới hạn tương ứng với quan niệm loại người "tất nhất"
phải có. Đương nhiên, nỗi e sợ này đã được củng cố bởi nhiều
dẫn chứng lịch sử về các dự án ưu sinh, như trường hợp đảng

SS dưới chế độ Hitler, những người bị quăng vào các vùng khác
nhau của Mỹ những năm 20 và những người vẫn theo đuổi trong
các bang miền Nam những năm 70? thậm chí cả nạn diệt chủng
tiếp tục hoành hành ở một số nước có nội chiến.
Tuy vậy, ta cần nhớ lại rằng nhân bản có thể là biện pháp kém
hiệu quả nhất để vận dụng một dự án ưu sinh, nói chung chậm
hơn nhiều so với phương pháp buộc những ai có phẩm chất có
"giá trị nhất" phải kết hợp sinh sản. Trên thực tế, biện pháp nhanh
nhất để lan truyền các gen đặc biệt trong một quần thể là dùng
những người cho tinh trùng mang các gen này để thụ tinh cho rất
nhiều phụ nữ. Đương nhiên người ta có thể nhân bản nững
người có các đặc tính mong muốn. Nhưng số trẻ sơ sinh mang
các nét này sẽ bị "hoà loãng" trong đám người không có các nét
đó và là những người tiếp tục sinh sản. Hơn nữa, cho dù nhân
bản người có trở thành hiện thực đi chăng nữa thì vẫn ít có khả
năng nó sẽ được áp dụng giống nhau để tái tạo các đặc tính có
giá trị, vì tùy theo các nền văn hóa và các nước khác nhau, quan
niệm về "cá nhân hoàn hảo" rất khác nhau.
Một nhận định "nghĩa vụ học" cuối cũng được các nhà đạo đức
học tranh luận là vấn đề lựa chọn. Một số người, như Ronald
Bailey hoặc John Bobertson (Đại học Luật Texas) khẳng định
rằng kỹ thuật nhân bản sinh sản nên sẵn có cho mọi người như là
một khả năng sinh sản mới, điều mà Glenn Mcgee (Đại học
Pennsylvania) và Ian Wilmut (người "sáng tạo"'cừu Dolly) gọi là
"mô hình tự do sinh sản" của kiểm soát các công nghệ sinh sản.
Các phương pháp như thế nào đó sẽ là xen vào quyền lựa chọn
trong số một loạt giải pháp. Trong điều kiện không có thiệt hại rõ
rệt hoặc nghiêm trọng vốn có trong thực hành, tất hơn là để mọi
người tùy ý sử dụng giải pháp mới này, chứ không nên tạo ra một
tiền lệ quy định cho các hành động thuộc quyền lựa chọn riêng tư

của một người.
Đương nhiên, tất cả đều phụ thuộc vào điều mà người ta gộp vào
các rủi ro gắn liền với nhân bản. Hiện nay, số điều còn chưa biết
không cho phép chúng ta bắt đầu đánh giá các rủi ro này và vì
vậy chúng ta không thể quyết định giá trị của chúng. Trong một số
trường hợp, nếu các nguy cơ này đủ nghiêm trọng, chúng ta có
thể thấy sự cần thiết về mặt đạo đức hạn chế quyền tự do lựa
chọn này vì lợi ích của nhân loại hoặc để giữ gìn các quyền và tự
do khác.
Tóm lại, có nhiều vấn đề đạo đức được đặt ra do khả năng nhân
bản người, do các thiệt hại và lợi ích khả dĩ của nó đến các cá
nhân và do hậu quả có thể có đối với các giá trị đã gắn liền với
quan niệm về nhân tính. Các vấn đề này vẫn chưa thể được giải
đáp ngay. Trước khi có thể bắt đầu đánh giá đôi chút về cơ hội
đạo đức của nhân bản, chúng ta cẩn biết nhiều hơn nữa về cách
nó hoạt động và hậu quả của nó ở các động vật có vú khác.






Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×