Tải bản đầy đủ (.doc) (13 trang)

Cach cai dat windows XP pps

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (152.91 KB, 13 trang )

Cách cài đặt Windows XP (phần 1)
8 tháng sau khi ra đời, Windows XP đã trở nên phổ biến nhờ nhiều tính năng mới và sự ổn
định vượt trội so với các phiên bản trước. Sắp tới, bản sửa lỗi Service Pack 1 (SP1) của hệ
điều hành này sẽ được tung ra. Nếu bạn muốn nâng cấp hệ điều hành của mình, dưới đây là
một số thông tin về việc cài đặt Windows XP.
Xác định cấu hình phù hợp
Hệ điều hành ra sau luôn yêu cầu cấu hình của phần cứng (CPU, RAM,
Video, Hard drive v.v.) cao hơn các hệ điều hành trước đó. Cấu hình tối
thiểu của Windows XP (theo Microsoft) như sau:
- CPU: 233 Mhz.
- RAM: 64 MB.
- Card màn hình (video card): Super-VGA với độ phân giải tối thiểu 800 x
600.
- Ổ đĩa cứng (Hard drive): 1,5 GB trống (chưa sử dụng).
- Ổ đĩa quang (CD hoặc DVD).
- Chuột và bàn phím.
Tuy nhiên, với cấu hình tối thiểu, hệ điều hành sẽ chạy rất chậm. Nếu máy
tính của bạn đã sử dụng 2,5-3 năm thì có lẽ bạn hãy nâng cấp phần cứng
trước khi cài Windows XP. Để hệ điều hành này chạy ở mức độ “chập nhận
được” thì cầu hình của máy nên tương đương:
- CPU: 500 Mhz.
- RAM: 256 MB.
- Video: hỗ trợ 3D với 8 MB video RAM (VRAM) trở lên.
- Hard drive: ATA-66 hoặc nhanh hơn với khoảng 10 GB trống. Ổ cứng
cũng nên có bộ nhớ đệm (buffer memory) 512 K trở lên.
- Ổ đĩa quang (CD hoặc DVD với chuẩn ATAPI, CD nên có tốc độ từ 8x trở
lên).
- Chuột và bàn phím theo chuẩn PS/2.
Cấu hình càng cao thì càng tăng hiệu suất của hệ thống.
Nhận dạng các thiết bị ngoại vi
Do Windows XP có một giao diện hoàn toàn mới, sử dụng nhiều màu sắc và


không gian 3 chiều (3D) cho các Task Bar cũng như các cửa sổ và hộp thoại,
video card đóng một phần khá quan trọng cho hiệu suất của máy. Để
Windows XP thể hiện tốt giao diện 3D, card màn hình cần có từ 16 MB
VRAM trở lên.
Các thiết bị ngoại vi khác (âm thanh, modem, card mạng v.v.) cũng phải
thuộc loại khá mới và được sản xuất bởi các công ty có tên tuổi. Những thiết
bị này được lắp vào máy qua các khe cắm (I/O Slot) trên bo mạch chủ
(motherboard). Có 3 loại khe cắm phổ biến, bao gồm: ISA, PCI và AGP,
được phân biệt với nhau về màu sắc và vị trí trên motherboard. Hầu hết các
máy tính để bàn đều có từ hai khe cắm PCI trở lên, còn các khe cắm ISA chỉ
có phổ biến ở các máy cũ (250 Mhz hoặc chậm hơn), cũng như AGP chỉ phổ
biển ở máy mới (500 Mhz hoặc nhanh hơn).
Tuy nhiên, khá nhiều motherboard có cả 3 loại khe cắm này. Khe cắm AGP
(thường có màu nâu hoặc xanh) nằm ở trên cùng. (Nếu có thì mỗi
motherboard chỉ có 1 khe cắm này để dùng cho video card.) Các khe cắm
PCI (màu trắng) sẽ ở bên dưới khe cắm AGP, và các khe cắm ISA (màu đen)
ở dưới cùng. Các thiết bị PCI có hiệu suất cao hơn những thiết bị cùng loại
sử dụng khe cắm ISA. Tương tự, card màn hình AGP thì nhanh hơn card
PCI. Hầu hết các thiết bị ISA sẽ không thương thích với Windows XP. Tốt
nhất là dùng card màn hình AGP cho Windows XP.
Để tiết kiệm khe cắm, một số motherboard có âm thanh và video gắn kèm
(on-board), các thiết bị âm thanh và video on-board thường có hiệu suất kém
hơn những thiết bị lắp thêm vào (và đồng thời cũng không nâng cấp được).
Tuy gắn kèm nhưng các thiết bị này cũng tuân theo chuẩn AGP hoặc PCI.
Tên của card màn hình, tốc độ CPU, số lượng RAM, tên ổ đĩa cứng và một
số thiết bị khác thường sẽ xuất hiện mỗi lần máy được bật lên. Để biết cụ thể
về tên của các thiết bị, bạn có thể làm theo những bước sau trong Windows
9x/Me:
Start -> Settings -> Control Panel -> System; chọn tab “Device Manager”
(nếu là Windows 2k thì chọn tab “Hardware” rồi nhấn vào nút “Device

Manager”), tiếp theo kích đúp chuột vào tên các thiết bị trong danh sách.
Ngoài ra, còn một cách khác là mở máy và đọc thông số bên trên các thiết
bị.
Trình điều khiển
Sau khi biết tên các thiết bị, bước tiếp theo là tìm hiểu xem chúng có tương
thích với Windows XP hay không. Hệ điều hành quản lý và làm việc với các
thiết bị ngoại vi thông qua một phầm mềm chuyên dụng gọi là “trình điều
khiển” (hay driver). Một thiết bị sẽ tương thích với hệ điều hành khi nó có
trình điều khiển dành cho hệ điều hành đó.
Bản thân Windows XP tích hợp rất nhiều trình điều khiển chung (generic
drivers) để trực tiếp hỗ trợ cho phần lớn thiết bị phổ biến. Để biết những
thiết bị nào của máy tính không được Windows XP hỗ trợ, bạn có thể khởi
động hệ điều hành hiện thời (Windows 9x/Me/2k) rồi chạy Windows XP
Setup, khi màn hình Welcome to Microsoft Windows XP hiện ra, bạn chọn
nút "Check System Compatibility”, tiếp theo chọn “Check my system
automantically” (Nếu máy nối mạng Internet thì dùng tuỳ chọn cho phép
“download updated Setup files” trước khi tiếp tục). Lúc này, chương trình
Setup sẽ tìm hiểu hệ thống và đưa ra một danh sách về các phần cứng và
phần mềm không tương thích.
Các nhà sản xuất cũng tạo ra các trình điều khiển dành cho thiết bị để người
dùng có thể tải về từ trang web của họ. Những phiên bản mới của trình điều
khiển sẽ tốt hơn các phiên bản cũ. Windows XP ra đời đã khá lâu, vì vậy hầu
hết các thiết bị có thể hoạt động được với hệ điều hành này đều đã có trình
điều khiển. Tuy nhiên, trong trường hợp không có, trình điều khiển dành cho
Windows 2000 có thể sẽ thay thế được.
Lưu ý: Chỉ nên cài hệ điều hành mới khi có đủ các trình điều khiển.
BIOS
Khi máy tính bật lên, trước khi khởi động vào một hệ điều hành, bạn có thể
thấy khá nhiều thông tin hiện ra trên màn hình. Các thông tin này được thể
hiện nhờ BIOS.

BIOS (Basic Input/Output System) có nhiệm vụ nhận dạng, kiểm tra và quản
lý ở mức thấp các thiết bị để máy tính, bao gồm: card màn hình, CPU, RAM,
ổ cứng, chipset và các thiết bị ngoại vi khác. Có nhiều mẫu BIOS với những
chức năng khác nhau, tuy nhiên trên thực tế chúng đều là các phần mềm
được cài cố định trên một chip bán dẫn ROM (Read Only Memory). Các
thông số của BIOS cũng như thông tin về ngày tháng được chứa tại CMOS,
một chip bán dẫn khác hoạt động bằng pin và độc lập với nguồn điện của
máy.
BIOS chỉ hỗ trợ những hệ điều hành ra đời cùng hoặc trước thời điểm bo
mạch chủ được sản xuất. Vì vậy, các BIOS trước Windows XP sẽ có nhiều
khả năng không hỗ trợ tốt hệ điều hành này. Tương tự như trình điều khiển,
nhà sản xuất thường viết các phiên bản mới cho BIOS để sửa lỗi hoặc để hỗ
trợ các hệ điều hành mới và người dùng có thể tải về từ trang web của họ.
Cách nâng cấp BIOS khác nhau tuỳ từng loại. Tuy nhiên, đây là quá trình
cần được làm một cách cẩn thận theo đúng hướng dẫn của nhà sản xuất. Bạn
chỉ nên nâng cấp BIOS khi cần thiết.
Cách cài đặt Windows XP (phần 2)
Việc cài đặt Windows XP chỉ nên tiến hành khi bạn biết phần cứng và
phần mềm (đang và sẽ dùng) tương thích với hệ điều hành. Bên cạnh đó, hiểu về bản thân
hệ điều hành và các kiểu định dạng, phân vùng ổ đĩa cũng rất quan trọng.
Các phiên bản của Windows XP
Windows XP có hai phiên bản: Home và Professional (Pro). Bản Pro có tất
cả các tính năng của bản Home và thêm những điểm sau:
1. Remote Desktop: người dùng có thể sử dụng máy tính (chạy Windows XP
Pro) từ xa bằng một máy tính khác thông qua kết nối TCP/IP (mạng nội bộ
hay Internet).
2. Khả năng tham gia vào domain: Cho phép người dùng truy cập vào hệ
thống mạng lớn dưới dạng một workstation.
3. Hỗ trợ Encrypting File System (EFS): hệ thống mã hoá file cho phép
người dùng mã hoá các thư mục và file để đảm bảo bí mật.

4. Chức năng hoàn trả lại hệ thống (System Restore) của Windows XP Pro
mạnh hơn của Windows XP Home. Windows XP Pro còn có khả năng phúc
hồi trình điều khiển (Driver rollback) cho phép sử dụng lại phiên bản trước
của trình điều khiển nếu phiên bản mới cài vào gây lỗi.
5. Hỗ trợ máy tính có 2 bộ vi xử lý (CPU).
Windows XP Home chỉ có duy nhất một lợi thế so với Windows XP Pro, đó
là rẻ hơn.
Ngoài ra, mỗi phiên bản của Windows XP còn chia thành bản đầy đủ (Full)
và bản nâng cấp (Upgrade). Bản Upgrade rẻ hơn bản Full. Tuy nhiên chỉ có
thể cài đặt vào những máy đã đang sử dụng Windows. Bản Upgrade của
Windows XP Home cho phép bạn nâng cấp lên từ Windows 98 hoặc Me.
Bản Upgrade của Windows XP Pro cho phép bạn nâng cấp lên từ Windows
98/Me hoặc 2K. Khi mua, nếu không thấy ghi là Upgrade thì có nghĩa đó là
bản Full.
Lưu ý: Nếu bạn đang sử dụng Windows XP Home, bạn cũng có thể nâng cấp
lên Windows XP Pro.
Các định dạng (format) của đĩa cứng
Tương tự như Windows 2000, Windows XP hỗ trợ cả hai định dạng của đĩa
cứng là FAT32 và NTFS (FAT16 cũng được hỗ trợ. Tuy nhiên, định dạng
này chỉ cho phép tạo ổ đĩa có độ lớn không quá 2,1 GB).
Nếu so sánh thì NTFS có những điểm sau đây ưu việt hơn FAT:
1. Chấp nhận lỗi của đĩa: NTFS cho phép hệ điều hành biết và không ghi
thông tin lên phần đĩa đã bị hỏng (nếu có) để đảm bảo tính toàn vẹn của
thông tin.
2. Bảo mật: NTFS hỗ trợ các mức bảo mật khác nhau cho đến từng file cụ
thể. Ngoài ra NTFS hộ trợ EFS tạo điều kiện cho người dùng tăng tính năng
bảo mật bằng cách mã hoá file và thư mục.
3. Nén file và thư mục: NTFS cho phép bạn nén thông tin lại để tiết kiện ổ
đĩa. Điều này có thể thực hiện dễ dàng trên toàn ổ đĩa, hay ở mức thư mục
hoặc file.

4. Quản lý và hạn chế tài nguyên: cho phép quản trị mạng hạn chế mức độ,
dung lượng đĩa mà một người dùng cụ thể có thể sử dụng.
Nhìn chung, chỉ NTFS mới cho phép sử dụng hết các tính năng về quản lý
tài nguyên của Windows XP (đặc biệt là đối với bản Pro).
Tuy nhiên, DOS và Windows 9x/ME không hỗ trợ định dạng NTFS (không
nhận dạng, đọc/ghi được). Vì vậy sẽ có 2 lý do để cài Windows XP mà dùng
định dạng FAT32:
1. Nếu bạn muốn sử dùng hệ điều hành Windows 98/95 hoặc ME trên cùng
một máy với Windows XP.
2. Nếu bạn muốn có thể khởi động máy vào DOS để sửa chữa hoặc thay đổi
khi hệ thống bị trục trặc.
Việc tạo phân vùng và định dạng đĩa không cần thiết phải được thực hiện
trước khi cài đặt mới. Chương trình Setup của Windows XP làm việc này
một cách rất nhanh gọn.
Tạo thêm ổ đĩa
Ổ đĩa mà được thể hiện bằng các ký tự C:\ hoặc D:\ trên thực tế là những
“phân vùng” (partition). Trên một ổ cứng (thiết bị lưu trữ được lắp vào
máy), có thể tạo ra một hoặc nhiều partition. Việc tạo ra các partion như vậy
gọi là “phân vùng cho ổ đĩa”. Mỗi phân vùng trên ổ cứng sẽ được hệ điều
hành gắn cho một chữ cái để làm tên, phân vùng cần được định dạng
(format) trước khi có thể hoạt động như một ổ đĩa. Tổng dung lượng của các
phân vùng trên cùng một đĩa cứng sẽ tương đương dung lượng của đĩa cứng
đó.
Nếu bạn chỉ dùng 1 hệ điều hành thì không cần thiết phải có nhiều hơn một
ổ đĩa. (Mặc dù có 2 ổ đĩa trở nên rất thuật tiện cho việc sao lưu dữ liệu hoặc
sửa chữa máy). Tuy nhiên, nếu bạn muốn cài đặt nhiều hệ điều hành trên
cùng một máy thì việc tạo ra nhiều ổ đĩa là điều không tránh khỏi.
Có hai cách để tạo thêm ổ đĩa: Tạo ra nhiều ổ đĩa trên một đĩa cứng hoặc lắp
thêm đĩa cứng.
1. Phân vùng đĩa cứng:

Nếu là đĩa cứng mới, việc phân vùng có thể làm bằng Fdisk (có trong đĩa
khởi động của Windows 98: khởi động vào DOS rồi gõ Fdisk tại dấu nhắc,
sau đó nhấn Enter) hoặc chỉ cần cài đặt hệ điều hành từ ổ CD-ROM, chương
trình cài đặt sẽ thực hiện công việc này.
Nếu là đĩa cứng hiện đang được sử dụng, bạn cần dùng một số tiện ích để
làm việc này. Hiện thời Partition Magic 7.0 của PowerQuest là tốt nhất.
Sử dụng một đĩa cứng với nhiều phân vùng có điểm lợi là tiết kiệm cả về
không gian bên trong vỏ máy, cũng như tài chính và công sức (không cần
phải mở máy ra và lắp đặt thiết bị). Ngoài ra, không phải máy nào cũng có
đủ nguồn điện và cho một thiết bị mới. Tuy nhiên, cách này có một số bất
lợi sau:
- Tốc độ chậm: Do nằm cùng một đĩa cứng cơ học nên việc di chuyển file
giữa các ổ đĩa (phân vùng) sẽ chậm hơn nhiều so với tốc độ thực của đĩa
cứng.
- Không an toàn cho việc sao lưu: vì cùng nằm trên một đĩa cứng, nếu đĩa
cứng này bị hỏng cơ học thì toàn bộ thông tin trên tất cả các ổ đĩa sẽ bị ảnh
hưởng.
- Không tận dụng được tính năng “prefetch” của Windows XP: Windows XP
sẽ tự động sắp xếp các file thường xuyên được truy cập vào cùng một chỗ để
tăng tốc độ truy cập. Điều này sẽ bị ảnh hưởng nếu các file này lại nằm ở các
ổ đĩa khác nhau trên cùng một đĩa cứng.
2. Lắp thêm ổ cứng:
Đây là biện pháp tốt nhất, nhưng yêu cầu phải có không gian và nguồn điện
bên trong vỏ máy. Lắp thêm đĩa cứng và cài mỗi hệ điều hành trên một đĩa
cứng (trong trường hợp này, mỗi đĩa cứng chỉ có một partition), sẽ làm cho
hệ điều hành hoạt động tốt hơn. Đồng thời, việc di chuyển file sẽ nhanh hơn
và sao lưu cũng an toàn hơn. Nếu bạn định cài Windows XP theo kiểu dual
boot cùng với một hệ điều hành khác, lắp thêm một đĩa cứng là việc rất nên
làm. Các đĩa cứng đời mới sẽ tận dụng được những tính năng của Windows
XP tốt hơn.

Lưu ý: Nếu lắp thêm đĩa cứng vào cùng một cáp IDE với ổ đĩa cũ, jumper
của đĩa cứng mới cần phải để ở chế độ Slave và jumper của đĩa cứng cũ phải
để ở chế độ Master. Không nên để đĩa cứng và đĩa quang sử dụng chung một
cáp IDE vì điều này sẽ làm chậm tốc độ của đĩa cứng. Với đĩa cứng có tốc
độ từ ATA-66 hoặc nhanh hơn cần dùng cáp IDE loại 80-pin.
Cách cài đặt Windows XP (phần 3)
Có 3 kiểu chính để cài đặt Windows XP: nâng cấp (Upgrade), cài mới
(Clean Install) và cài chung với một hệ điều hành khác (Dual boot).
Mỗi cách đều có các biến thể tùy theo từng cấu hình cụ thể. Dưới đây
là những nét chung nhất của mỗi kiểu.
Upgrade
Đây là kiểu đơn giản nhất, phù hợp với những người không biết nhiều về
máy tính. Nâng cấp sẽ cho phép bạn sử dụng lại tất cả những thông tin cũng
như phần mềm bạn đang dùng ở phiên bản Windows cũ (với điều kiện các
phầm mềm này phải tương thích với Windows XP).
Tuy nhiên, cài đặt theo kiểu nâng cấp sẽ khiến Windows XP sau này chạy
chậm và có thể kém ổn định. Ngoài ra, một số phầm mềm (dù tương thích)
vẫn cần phải được cài đặt lại sau khi quá trình nâng cấp đã hoàn thành. Tốt
nhất, nếu có các đĩa cài đặt thì nên loại bỏ (uninstall) các phần mềm đi trước
và cài đặt lại, sau khi đã nâng cấp. Nâng cấp một hệ thống với quá nhiều
phần mềm cài đặt trong đó sẽ có thể gây nhiều lỗi sau này.
Cả phiên bản Upgrade và Full của Windows XP đều cho phép cài đặt nâng
cấp.
Cách làm:
Khởi động vào Windows hiện thời rồi cho đĩa cài đặt của Windows XP vào
ổ CD-ROM, chương trình Setup sẽ tự chạy (nếu không bạn có thể dùng
Windows Explorer tìm đến ổ CD chứa đĩa cài đặt rồi nhấn đúp chuột lên file
có tên “Setup”). Việc cài đặt sẽ bắt đầu và tiến hành theo 5 bước sau:
1. Collecting information (thu thập thông tin): Đây là bước mà trình Setup sẽ
tìm hiểu về cách mà bạn muốn cài đặt Windows XP.

- Tại bảng lựa chọn màu xanh vừa hiện ra, bạn chọn “Install Windows XP”.
- Chọn giá trị của “Installation type” là “Upgrade (recommended)” rồi nhấn
“Next”.
- Chọn “I accept this aggrement” -> nhấn chuột vào “Next”.
- Gõ vào “Production key” -> nhấn chuột vào “Next”.
2. Dynamic Update (cập nhật “nóng”):
- Nếu bạn có kết nối vào Internet thì chọn “Yes, download updated setup
files ” (nếu không thì chọn “No, skip this ”) rồi nhấn chuột vào “Next”.
Nếu “Yes ” chương trình Setup sẽ tải về các update của trình Setup trước
khi tiếp tục. Việc này sẽ mất khoảng 5-15 phút tùy theo tốc độ kết nối. Nếu
“No ” bước sẽ này được bỏ qua. (Dù “Yes” hay “No”, phần còn lại của
Setup cũng sẽ không có điều gì khác nhau và có thể nhận thấy trong trình tự
và hoạt động).
3. Preparing installation (chuẩn bị cài đặt):
- Setup sẽ kiểm tra cấu hình hiện thời và đưa ra một danh sách những phần
cứng và mềm không tương thích. (Danh sách này sẽ không hiện ra nếu máy
tính hoàn toàn tương thích với Widnows XP). Loại bỏ (Uninstall) các phần
mềm và chuẩn bị sẵn driver cho các phần cứng có tên trong danh sách này.
- Tiếp theo, trình Setup sẽ copy các file cần thiết từ CD vào hai thư mục tạm
thời trên ổ cứng C:\. Các thư mục này có tên bắt đầu bằng dấu $ và chúng sẽ
bị xoá bỏ sau khi quá trình cài đặt kết thúc. Bạn có thể huỷ bỏ việc copy này
(cũng là huỷ bỏ việc cài đặt) bằng cách nhấn phím Esc.
- Sau khi việc copy được hoàn thành, Windows sẽ tự động khởi động lại.
4. Installing Windows (Cài đặt Windows):
- Đây là phần mà Windows sẽ được cài đặt từ những thông tin đã được copy
vào các thư mục tạm thời nói trên. Tuy nhiên, với kiểu Update thì bước này
và bước tiếp theo sẽ hoàn toàn được tự động hoá và không cần sự tham gia
của bạn.
5. Finalizing Installation (Hoàn thành việc cài đặt):
- Đây là bước mà quá trình cài đặt được hoàn thành. Bước này cũng hoàn

toàn được tự động hoá. Windows XP sẽ dùng lại những thông tin về hệ
thống của phiên bản Windows cũ.
Chú ý: Nên sao lưu (Backup) dữ liệu trước khi nâng cấp hệ điều hành. Sau
khi nâng cấp lên Windows XP, bạn sẽ không thể “xuống cấp” để quay trở lại
phiên bản Windows trước đó.
Dual Boot
Kiểu này thường được hiểu là cài đặt thêm Windows XP để chạy song song
với hệ điều hành hiện thời, cho phép người dùng lựa chọn giữa hai hệ điều
hành mỗi lần khởi động máy.
Để làm được cách này, máy của bạn cần có ít nhất là hai ổ đĩa. Bài viết sẽ
nói về trường hợp hai ổ đĩa này là C:\ và D:\ với hệ điều hành cũ được cài
trên C:\. (Dual boot phổ biến và hợp lý nhất là giữa hai hệ điều hành
Windows 98 SE và Windows XP).
Cả hai phiên bản Full và Upgrade của Windows XP đều cho phép cài đặt
dual boot.
Cách cài đặt này cũng bao gồm 5 bước tương tự kiểu Upgrade, nhưng có
một số khác biệt.
Cách làm:
Khởi động máy vào phiên bản Windows hiện thời, cho đĩa cài đặt của
Windows XP vào rồi làm theo các bước: (phần in nghiêng là phần khác với
kiểu Upgrade):
1. Collecting information:
- Tại bảng lựa chọn màu xanh vừa hiện ra, bạn chọn “Install Windows XP”.
- Chọn giá trị của “Installation type” là “Clean Install (Advanced)” rồi
nhấn “Next".
- Chọn “I accept this aggrment” -> nhấn chuột vào “Next”.
- Gõ vào “Production key” -> nhấn chuột vào “Next”
- Nhấn chuột vào phần bên cạnh “Select primary language and region you
want to use” để chọn các chuẩn vùng (đo lường, thời gian, khối lượng v.v )
và ngôn ngữ chính mà bạn muốn dùng với Windows (đây là ngôn ngữ mà

bạn muốn sử dụng, không phải là ngôn ngữ cho giao diện của Windows
XP).
- Nếu muốn Windows XP hỗ trợ các kiểu chữ của Đông Nam Á(Trung
Quốc, Thái Lan v.v ) thì bỏ dấu chọn vào đằng trước “Install Support for
East Asian Languages”. Tiếp theo nhấn chuột vào “Next”.
- Nếu định dạng của ổ đĩa hiện thời là FAT, Setup sẽ gợi ý chuyển sang
NTFS, mục này phải được chọn là không (“No, skip this step”).
2. Dynamic Update: Bước này hoàn toàn giống với kiểu Upgrade.
3. Preparing installation: Ở bước này, Setup sẽ không kiểm tra sự tương
thích của máy. Phần còn lại cũng giống với kiểu Upgrade.
4. Installing Windows: (bước này rất khác với kiểu Upgrade và bạn cần phải
tham gia để gõ thông tin vào theo yêu cầu của máy).
- Lần khởi động lại đầu tiên sẽ có hai sự lựa chọn, hoặc là vào Windows XP
Setup, hoặc là vào phiên bản cũ của Windows. Nhấn Enter để chọn hoặc
chờ, sau 5 giây, máy sẽ tự động boot vào Windows XP Setup.
- Một màn hình màu xanh hiện ra với 3 sự lựa chọn:
+ Nhấn Enter để tiếp tục với việc cài đặt.
+ Nhấn R để boot vào Recorver Console.
+ Nhấn F3 để hủy bỏ việc cài đặt -> Enter.
- Lúc này Setup sẽ kiểm tra đĩa cứng và chọn phân vùng để cài đặt Windows
lên. Thường Setup sẽ tự động chọn ổ đĩa D:\. Tuy nhiên, bạn có thể nhấn
Esc để tự chọn hoặc phân vùng đĩa cứng mới. Chú ý phải chọn cài Windows
XP lên ổ đĩa khác với C:\.
- Sau khi chọn ổ đĩa xong, việc cài đặt sẽ được tiến hành. Nếu máy có
Modem và Card mạng (và các thiết bị này được Windows XP hỗ trợ trực
tiếp), Setup sẽ hỏi về các thông số của Modem và Mạng. Gõ vào những
thông số này hoặc chấp nhận các lựa chọn mặc định.
5. Finalizing Installation:
- Đây là một số thủ tục ban đầu cho việc sử dụng Windows XP lần đầu tiên,
gồm: tạo account mới, kết nối Internet, “Product Activation” và đăng ký với

Microsoft. Product Activation không tồn tại trong các bản Windows XP
dành cho các công ty lớn (còn gọi là “volume license” hay bản “corporate”),
tuy nhiên lại là bắt buộc với các tất cả các bản khác của Windows XP. Bạn
có thể Activate qua Internet hoặc gọi điện cho đại lý của Microsoft.
Lưu ý:
- Mỗi phiên bản Windows XP chỉ được phép cài lên một máy (trừ bản
“volume licence”). Sai khi cài đặt rồi, nếu phần cứng của máy bị thay đổi
quá nhiều, hệ điều hành sẽ đòi Activate lại.
- Dù cài Windows XP ở ổ đĩa nào. Thông tin về khởi động của hệ điều hành
đều nằm trên ổ đĩa C:\. Nếu ổ này bị hỏng hoặc bị format, Windows XP sẽ
không khởi động được.
Clean Install
Đây là kiểu cài đặt cho một máy tính mới hoặc khi nội dung của ổ đĩa cần
được “đổi mới hoàn toàn”. Clean Install sẽ cho phép hệ điều hành chạy
nhanh và ổn định hơn so với cài đặt kiểu Upgrade. Ngoài ra, cấu hình của hệ
thống cũng chuẩn hơn, tiện cho việc sửa chữa sự cố (nếu có) sau này.
Để cài đặt mới theo cách dưới đây, bạn cần có phiên bản Full của hệ điều
hành.
Cách làm hoàn toàn tương tự như kiểu dual-boot, chỉ khác ở một số điểm
sau:
- Khởi động máy (boot) bằng đĩa CD-ROM cài đặt của hệ điều hành: nhấn
một phím bất kỳ khi có thông báo “Press any key to boot from CD ”. (Đôi
khi cần phải vào BIOS Setup để thay đổi thứ tự boot và chọn boot từ CD-
ROM trước khi boot từ ổ cứng).
- Chương trình Setup của Windows XP sẽ tự chạy và yêu cầu nhấn phím F8
để chấp nhận EUA (End User Agreement - Thoả thuận của người dùng).
- Phần còn lại hoàn toàn tương tự như mục 4 và 5 của kiểu Dual Boot, chỉ
khác là Setup sẽ yêu cầu gõ vào Production Key sau lần khởi động thứ hai.
(Đông Ngô)

Tài liệu bạn tìm kiếm đã sẵn sàng tải về

Tải bản đầy đủ ngay
×