Tải bản đầy đủ (.pdf) (11 trang)

Về mối quan hệ giữa di truyền sinh học và tính kế thừa xã hội docx

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (131.52 KB, 11 trang )

Về mối quan hệ giữa di truyền sinh học và
tính kế thừa xã hội trong lịch sử phát triển
con người



Mối quan hệ giữa tính kế thừa xã hội và di
truyền sinh học trong lịch sử phát triển con
người là một trong những vấn đề quan trọng
trong việc nghiên cứu sự tác đ
ộng qua lại giữa
cái sinh học và cái xã hội. Việc làm rõ vấn đề
này đòi hỏi chúng ta phải xem xét quá trình
tồn tại xã hội của con người có ảnh hưởng
như thế nào đến các đặc điểm di truyền sinh
học của nó, hay nói cách khác, quá trình xã
hội hóa có để lại đ
ấu ấn trong "ký ức phát sinh
chủng loại" của con người không?
Các học giả phương Tây cho rằng chỉ có thể
nói tới "đấu ấn di truyền" trong quan hệ xã hội
và trong lịch sử nhân loại, chứ không thể nói
tới ảnh hưởng của quá trình xã hội hóa đến
bản tính tâm sinh học của con người. Những
người theo chủ nghĩa Đácuyn xã hội và chủ
ngh
ĩa phân biệt chủng tộc coi sự tiến bộ xã hội
chỉ là sự biểu hiện các đặc đi
ểm di truyền sinh
họe của con người và coi động lực của sự
phát triển xã hội là cuộc đấu tranh trong n


ội bộ
loài - gi
ữa các cá thể có gen khác nhau. Trong
việc xác định bản chất của di truyền ngư
ời, họ
tách biệt gien với các quá trình trao đổi chất
bên trong cơ thể và sự tác động của các nhân
tố bên ngoài. Với quan niệm này, họ hoàn
toàn không tính đến mối liên hệ biện chứng
giữa cái bên trong và cái bên ngoài trong sự
phát triển của con người. Trong khi đó, các
thành tựu của di truyền học hiện đại lại gắn
liền với việc nghiên cứu sự thống nhất biện
chứng giữa cơ thể và môi trường. Di truyền
học hiện đại xuất phát từ quan niệm cho rằng:
Sự tự phát triển của cơ thể diễn
ra theo nguyên tắc của một hệ thống mở, và
do vậy, nó chỉ có được hiểu khi tính đến khả
năng thích nghi của cơ thể với môi trường.
Rằng mọi bước tiến hóa của các hình thức
hữu cơ chỉ có thể hiểu được trên cơ sở nhận
thức được sự tương tác của chúng với môi
trường xung quanh.
Con đường phát triển xã hội của con người
bắt đầu từ khi nó biết cải biến một cách căn
bản sự tương tác của mình với môi trường tự
nhiên. Chính quá trình cải biến này m
ới là quá
trình đóng vai trò quyết định trong sự phát
triển của con người. Dưới tác động của các

điều kiện lịch sử xã hội, ngay cả các quy luật
sinh học trong tiến trình phát triển tộc người
cũng bị biến dạng. Khoa học hiện đại đã
chứng minh được rằng, l
ối sống của bất cứ cá
thể nào cũng hoàn toàn không phải là cái
mang tính bẩm sinh. Ngoài tính bẩm sinh, lối
sống đó còn được quy định bởi quá trình hoạt
động sống của cá thể và hình thành trên cơ
sở tích cực tham gia vào đời sống xã hội của
cá thể ấy.
Khi tuyệt đối hóa hoạt động xã hội của con
người, một số học giả phương Tây cho rằng
con người hoàn toàn không kế thừa gì bản
tính người của nó, rằng con người sinh ra vốn
không phải là người mà chi trở thành người
trong quá trình hoạt động sống của nó. Đó là
quan điểm của các nhà triết học như K. Park,
H. Cull. Với quan điểm như vậy về bản tính
người của con người, họ đã phủ nhận sự kế
thừa các đặc trưng tộc loại và bản tính sinh
họe của con người. Họ cho rằng "con người
sinh ra vốn không phải là con người"
xét theo bản tính của nó với các đặc trưng về
lối sống và với tư cách là một cá thể. Luận
điểm này rõ ràng là không đúng, bởi các đặc
trưng cá biệt về lối sống của con người được
quyết định không chỉ về mặt xã hội, cho dù
đây là yếu tố chủ yếu, mà ở một chừng mực
nhất định, các đặc trưng ấy còn chịu ảnh

hưởng ít nhiều của di truyền sinh học. Luận
điểm này cũng không đúng khi xem xét bản
tính của con người ở cấp độ nội đung loài của
nó. Công thức "con người sinh ra vốn không
phải là con người" cần phải bị loại bỏ, bởi
người ta cũng có thể nói "con người sinh ra
vấn không phải là động vật". Bản tính của
động vật không tương dung với sự phát triển
xã hội. Với bản tính sinh học của mình, con
người tiếp tục duy trì khả năng trực tiếp thích
nghi với môi trường tự nhiên.
Con người vươn tới trình độ phát triển xã hội
vì ngay từ khi ra đời nó đã nhận được một tổ
chức cơ thể, mà trong đó, ngay từ đầu, khả
năng phát triển thông qua hoạt động xã hội
tích cực đã được "lập trình”. Điều đó có nghĩa
là đời sống xã hội của con người không phải
lúc nào cũng tạo ra bản tính con người cho
mỗi thế hệ và cho mỗi con người. Đ
ời sống xã
hội của con người chỉ tham gia vào quá trình
duy trì và phát triển các đặc điểm tộc loại và
bản tính sinh học đặc thù của con người mà
ngay từ khi con người mới xuất hiện các đặc
trưng ấy đã là vốn có của con người. Chính vì
vậy mà trạng thái xã hội của con người thể
hiện như là trạng thái tự nhiên của nó. Chỉ
trong hoạt động xã hội, các đặc trưng ấy mới
được khẳng định, thực hiện và nội đung hoạt
động mang tính người của chúng mới được

th
ể hiện và phát triển. Do vậy, sự di truyền các
đặc trưng sinh học của con người luôn được
quá trình tiến hóa của loài người và lịch sử
sau đó của xã hội loài người duy trì và phát
triển. Đó là cơ sở cần thiết cho sự phát triển
lịch sử của xã hội, giống như sự kế thừa nội
dung hoạt động xã hội mang tính đối tượng
hóa của con người. Trong quá trình con ngư
ời
tham gia vào đời sống xã hội luôn diễn ra sự
hợp nhất kinh nghiệm xã hội với tư cách cái
tạo thành nội dung của thế giới người với bản
tính tộc loại của con người đư
ợc hình thành từ
đời sống của mỗi cá thể người. Sự phát triển
xã hội và quá trình tiến hóa sinh học của con
người là cái quy định sự phát triển đa
dạng theo hướng ngày càng làm phong phú
lẫn nhau trong suất tiến trình phát triển xã hội
của con người.
Các công trình nghiên cứu gần đây về mối
quan hệ giữa di truyền sinh học và tính kế
thừa xã hội ở con người cho thấy, khi phân
tích hành vi của con người, rất khó phân biệt
ảnh hưởng của di truyền sinh học và ảnh
hưởng của môi trường, vì con người có một
hệ thống thần kinh rất phát triển. Nhờ hệ
thống thần kinh ấy, di truyền sinh học chỉ ở
con người mới thể hiện ra không phải với tư

cách là phương tiện duy trì một phương thức
hành động nào đó của con người thông qua
sự tiếp nối thế hệ, mà được đặc trưng trước
hết như là sự duy trì năng lực nắm bắt nội
đung của đời sống xã hội và phát triển nội
dung ấy. Giống như lối ứng xử xã hội, đời
sống xã hội của con người không thể cố định
được bằng di truyền sinh học. Cơ chế di
truyền các đặc trưng sinh học của con người
chỉ mã hóa năng lực hoạt đ
ộng xã hội của con
người, chứ không phải là bản thân đời sống
xã hội của con người, không phải là nội dung
của lối sống xã hội của nó. Chỉ với ý nghĩa
đó,
mới có thể xem xét sự phát triển của con
người như là quá trình tích cực hóa bản tính
sinh học của nó trong đời sống xã hội.
Quá trình này trước hết được quy định bởi nội
đung của đời sống xã hội mà con người cần
phải nắm bắt, tức là trình độ phát triển của v
ăn
hóa sản xuất vật chất và sản xuất tinh thần
của xã hội, cũng như hệ thống giáo dục hình
thành trên cơ sở đó. Song quá trình này cũng
phụ thuộc đáng kể vào các yếu tố di truyền
sinh học với tư cách cái thể hiện trong nó các
năng lực này hay khác và năng lực cơ bản,
xét từ nội dung tộc loại, năng lực trở thành
con người. Mỗi con người khi sinh ra đều có

được một tiềm năng thần kinh xác định, tiềm
năng này cho phép nó duy trì và phát tri
ển các
hình thức ứng xử xã hội phức tạp. Sự tồn tại
khả năng di truyền các đặc trưng sinh h
ọc của
con người cho thấy, một mặt, các năng lực
của con người không phải được "thiết kế" từ
các vật, mà được phát triển trong cơ thể của
nó trên cơ sở của sự tác động thực tiễn của
con người đối với các sản phẩm lịch sử. Mặt
khác, nó cho thấy vai trò của các yếu tố di
truyền trong lối ứng xử xã hội của con người.
Tiềm năng di truyền các đặc trưng sinh học
của con người không chỉ định hướng sự phát
triển của con người, mà còn ảnh hư
ởng tới sự
lựa chọn phương thức tồn tại của con ngư
ời ở
chừng mực tiềm năng đó phụ thuộc vào bản
thân con người với tư cách một thực thể xã
hội. Các yếu tố di truyền sinh học có khả n
ăng
tạo ra ở mỗi con người những ranh giới hạn
định các năng lực của nó. Tuy nhiên, năng l
ực
này không chỉ bị quy định bởi tiềm năng di
truyền sinh học, mà còn bởi môi trư
ờng xã hội
đã hình thành nên con người.

Sự phát triển trí tuệ cũng như toàn bộ phẩm
chất tâm lý của con người được chế định bởi
nhiều yếu tố tâm lý học di truyền hiện đại coi
quá trình phát triển ấy như là kết quả của một
sự tương tác phức tạp, mâu thuẫn giữa di
truyền sinh học, môi trường sống, giáo dục và
hoạt động của con người. Và hơn nữa, tâm lý
học di truyền hiện đại đã cho thấy, sự thống
nhất giữa các yếu tố này trong hoạt động
người không những được thực hiện trong một
tổ chức sinh học - xã hội mang tính chỉnh thể
của con người, mà còn thể hiện ngay cả trong
bản thân mỗi yếu tố đó. Theo tâm lý học di
truyền hiện đ
ại, yếu tố di truyền trong các hiện
tượng phức tạp của hoạt động tâm lý và hoạt
động xã hội của con người không phải là một
quy luật sinh học thuần tuý, nội tại và hoàn
toàn không phụ thuộc vào tồn tại xã hội của
nó.
Quan niệm di truyền sinh học về quá trình
phát sinh của cá thể người với tư cách là ph
ản
ứng không ngừng biến đổi của một tổ hợp vật
liệu di truyền đối với môi trường sống đã đem
lại cơ sở khoa học vững chắc cho việc nghiên
cứu sự phát triển lịch sử của bản tính tộc loại
ở con người. Yếu tố di truyền là cái vốn có
trong bản tính tộc loại của con người, nhưng
đó không phải là một nội dung đã được xác

định trước, bất biến của hành vi tâm lý hay
hành vi xã hội của con người, mà là tiềm n
ăng
cho sự hình thành các lực lượng bản chất xác
định của con người.
Giống như mọi khả năng, tiềm năng di truyền
sinh h
ọc không tự biến mất trong quá trình tiến
hóa của người, mà tồn tại với tư cách là hiện
thực vốn có trong suất quá trình hoạt động xã
hội của con người. Chính vì vậy, người ta đã
coi tiềm năng di truy
ền sinh học này là cái luôn
tồn tại trong sự phát triển lịch sử của bản chất
xã hội của con người và về mặt lịch sử, nó có
mối liên hệ với quá trình phát triển của tồn tại
xã hội của con người. Tiềm năng di truyền
sinh học ấy thường xuyên chịu sự tác động
ngày một tăng của tồn tại xã hội luôn phát
triển và nhờ các biến đổi tương ứng của tồn
tại xã hội này, góp phần phát triển bản thân
tồn tại xã hội của con người. Đó là một đặc
trưng cơ bản cho sự biến đổi lịch sử của bản
tính tộc loại của con người và thể hiện ra qua
sự mở rộng các khả năng sinh h
ọc cho tiến bộ
xã hội của con người.
Quá trình tiến hóa sinh học của một loài động
vật nào đó kết thúc ở sự cố định các đấu hiệu
hình thái và hoạt động xác định của nó thông

qua di truyền. Ngược lại, cái đặc trưng cho
quá trình tiến hóa xã hội của loài người là sự
bảo đảm nội dung ngày một phức tạp hơn c
ủa
tồn tại xã hội bằng các phương tiện sinh học.
Trong quá trình phát triển theo phương thức
ti
ệm tiến của mình, tồn tại xã hội không ngừng
làm "suy yếu” tính bảo thủ của tiềm năng di
truyền sinh học. Tồn tại xã hội không ngừng
phát triển đã góp phần vào việc tạo ra ở con
người một hệ thống thần kinh linh hoạt, có kh

năng phản ánh và tích cực thực hiện một nội
dung xã hội ngày một phức tạp hơn. Do ảnh
hưởng của sự phát triển xã hội, quá trình phát
sinh tộc loại của con người đạt tới một tính cơ
động cao về mặt di truyền và được bảo đảm
bởi một hệ thống thần kinh hất sức linh hoạt,
luôn phát triển cùng với hoạt động xã hội của
con người và được thể hiện ra qua sự mở
rộng khả năng biến đổi tiềm tàng di truyền
sinh học và quá trình thực hiện tiềm năng ấy
của con người.
Ảnh hưởng của sự xã hội hóa trong quá trình
phát triển lịch sử của con người đã góp phần
mở rộng các tiềm năng tâm sinh học và qua
đó, cả các tiềm năng xã hội và hoạt động xã
hội của nhân loại. Sự mở rộng này được thể
hiện ra trong quá trình các cá thể người biến

đổi các biểu hiện tâm sinh họe và xã hội của
chúng, ở tính đa dạng và ngày càng hoàn
thiện hơn của cá thể người, cũng như ở khả
năng hoạt động ngày một rộng lớn hơn c
ủa nó
trong lịch sử.
Như vậy, có thể nói, quá trình mở rộng tiềm
năng di truyền sinh học của loài người, rất
cuộc, cũng được quy định bởi sự phát triển
lịch sử và quá trình hoàn thiện đời sống xã
hội. Những biến đổi trong đời sống văn hóa
vật chất và văn hóa tinh thần của con người
luôn đi liền với những biến đổi về cơ cấu đi
truyền sinh học của con người và của toàn bộ
loài người. Những biến đổi này diễn ra do ảnh
hưởng trực tiếp của những tác động xã hội và
được thể hiện ra với tư cách là một trong các
hình thức phản ứng của con ngư
ời nhằm thích
nghi với yêu cầu ngày một tăng của sự phát
triển xã hội.
Do khả năng hạn chế, chúng tôi không thể sử
dụng rộng rãi các thành tựu mới nhất của
khoa học hiện đại, đặc biệt là sinh học, để
minh chứng cho các luận điểm trên về mối
quan hệ giữa di truyền sinh học và tính kế
thừa xã hội trong lịch sử phát triển con người.



×